1
[Type text]
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
o0o
L
L
L
Ê
Ê
Ê
V
V
V
Ă
Ă
Ă
N
N
N
N
N
N
I
I
I
N
N
N
H
H
H
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG NGHỀ KHAI THÁC
HẢI SẢN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Nha Trang, tháng 12 năm 2006
2
[Type text]
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY SẢN
o0o
LÊ VĂN NINH
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG NGHỀ KHAI THÁC HẢI SẢN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Khai thác thủy sản
Mã số: 60.62.80
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Trọng Huyến
Nha Trang, tháng 12 năm 2006
3
[Type text]
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Mọi số liệu thu thập đảm bảo độ chính xác và trung thực với thực tế.
- Các nguồn số liệu khác được sử dụng hoặc trích dẫn đều là các tài liệu, số
liệu đã được công bố hoặc có sự cho phép của tác giả.
- Luận văn này hoàn toàn do tôi tự viết và trình bày, không sao chép từ bất cứ
tài liệu nào.
- Trong suốt quá trình thực hiện luận văn không xảy ra tranh chấp gì với các
cá nhân, tổ chức khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật về những lời cam đoan
trên.
Người cam đoan
Lê Văn Ninh
4
[Type text]
LỜI CẢM ƠN
Đây là vấn đề nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý ngành khai thác và bảo vệ
nguồn lợi thủy sản, là lĩnh vực mới đối với các ngành kinh tế nói chung và ngành
Thủy sản Việt Nam nói riêng, trong đó có khai thác hải sản nên tài liệu tham khảo
cũng như các tài liệu liên quan khác không nhiều. Tuy nhiên, dưới sự hướng dẫn,
giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn khoa học TS. Phan Trọng Huyến, tôi đã
hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn
kính mến của tôi.
Luận văn yêu cầu nhiều số liệu điều tra thực tế và thống kê trong vòng nhiều
năm và nhiều khía cạnh khác nhau trong khai thác hải sản nhưng điều kiện thực
hiện có nhiều hạn chế. Luận văn của tôi chắc chắn không hoàn thành nếu thiếu sự
hỗ trợ đỡ quí báu của dự án Đánh giá nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam (ALMRV),
Sở Thủy sản tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về nguồn số liệu có sẵn cũng như hỗ trợ trong
quá trình điều tra. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban quản lý dự án ALMRV,
lãnh đạo và các cán bộ Sở Thủy sản tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn đến các chủ tàu, thuyền trưởng, cộng đồng ngư
dân tham gia khai thác hải sản tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã cung cấp thông tin về
nghề nghiệp, thực tế sản xuất của nghề và đời sống cũng như những định hướng
trong tương lai của họ về nghề nghiệp.
Tôi cũng tỏ lòng biết ơn đối với lãnh đạo và các đồng nghiệp ở Viện Kinh tế
và Quy hoạch thủy sản, vụ Tổ chức cán bộ - Bộ Thủy sản, cục Khai thác và Bảo vệ
nguồn lợi thủy sản, viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng đã tạo điều kiện làm việc
và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Cuối cùng tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và cán bộ trong
Khoa Khai thác Hàng hải, Phòng Quan hệ Quốc tế và Sau Đại học, phòng Đào tạo -
Trường Đại học Thủy sản đã giúp đỡ tôi có được ngày hôm nay.
Xin trân trọng cảm ơn!
5
[Type text]
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 9
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. 10
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 11
PHẦN 1. TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. 12
1. Tổng quan nghề khai thác hải sản tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 12
1.1. Điều kiện tự nhiên 12
1.2. Nguồn lợi hải sản 13
2. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến PTBV nghề KTHS 18
3. Tình hình nghiên cứu về PTBV nghề KTHS trên thế giới. 21
3.1. Giảm số lượng tàu thuyền khai thác và chuyển đổi nghề nghiệp 23
3.2. Áp dụng các mô hình toán trong quản lý khai thác thủy sản 24
3.3. Áp dụng hệ thống quản lý nghề cá có trách nhiệm 25
3.4. Áp dụng hệ thống quản lý khai thác theo hạn ngạch 25
3.5. Hệ thống quản lý thủy sản ở các nước trong khu vực Đông Nam á 28
4. Lý thuyết về phát triển bền vững nghề khai thác hải sản 30
4.1. Quan niệm về phát triển bền vững nói chung 30
4.2. Khái niệm về phát triển bền vững nghề khai thác hải sản 31
4.3. Lý thuyết xây dựng các giải pháp PTBV nghề KTHS tỉnh BR -VT 32
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 39
1. Nội dung nghiên cứu 39
2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu. 39
2.1. Tài liệu 39
6
[Type text]
2.2. Phương pháp nghiên cứu 40
PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG NGHỀ KHAI THÁC HẢI SẢN TỈNH BÀ RỊA -
VŨNG TÀU. 42
1. Ngư trường và nguồn lợi hải sản của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 42
2. Hiện trạng phát triển nghề KTHS tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 45
2.1. Khái quát chung 45
2.2. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá 48
2.3. Các đặc điểm kinh tế xã hội của cộng đồng ngư dân KTHS 51
2.4. Hiệu quả kinh tế của các nhóm nghề khai thác chính tỉnh BR - VT 55
3. Biến động năng suất chuẩn (CPUE) của một số đội tàu chính tỉnh BR_VT 57
4. Các chính sách phát triển nghề KTHS tỉnh BRVT trong thời gian qua 59
5. Các cơ hội và thách thức đối với nghề KTHS tỉnh BR - VT 61
5.1. Các cơ hội 61
5.2. Các thách thức 61
CHƯƠNG 4. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGHỀ KTHS
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU 63
1. Giải pháp về điều chỉnh năng lực KTHS 63
1.1. Căn cứ đề xuất: 63
1.2. Nội dung giải pháp và biện pháp thực hiện 67
1.3. Dự kiến tính khả thi của giải pháp 68
2. Giải pháp về phân vùng khai thác và quản lý nguồn lợi 69
2.1. Căn cứ đề xuất: 69
2.2. Nội dung giải pháp: 69
2.3. Dự kiến tính khả thi của giải pháp 70
3. Giải pháp về tổ chức sản xuất. 71
7
[Type text]
3.1. Căn cứ đề xuất. 71
3.2. Nội dung giải pháp 71
3.3. Tính khả thi của giải pháp: 73
4. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực cho KTHS 73
4.1. Căn cứ đề xuất giải pháp: 73
4.2. Nội dung giải pháp 74
4.3. Tính khả thi của giải pháp 74
5. Giải pháp về thể chế chính sách 74
5.1. Căn cứ xây dựng giải pháp: 74
5.3. Tính khả thi của giải pháp 76
6. Giải pháp về quản lý thị trường tiêu thụ sản phẩm KTHS. 76
6.1. Căn cứ đề xuất giải pháp 76
6.2. Nội dung của giải pháp: 77
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 78
1. Kết
luận 73
2. Khuyến nghị
78
8
[Type text]
CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
PTBV Phát triển bền vững
KTHS Khai thác hải sản
TAC Tổng sản lượng khai thác
MSY Sản lượng khai thác bền vững tối đa
CPUE Sản lượng trên một đơn vị cường lực
SEAFDEC Trung tâm phát triển nghề cá Đông Nam á
FAO Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên Hợp Quốc
IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới
UNFPA Quỹ dân số Liên Hợp Quốc
CCRF Mã số cho nghề cá có trách nhiệm
9
[Type text]
MỞ ĐẦU
Bà Rịa - Vũng Tàu là một tỉnh ven biển miền Đông Nam Bộ, có bờ biển dài
trên 200km, trong đó có trên 110km vùng bờ ven đảo với 6 cửa sông và một quần
đảo Côn Sơn tạo ra hệ thống giao thông thuỷ thuận tiện đã tạo cho tỉnh có điều kiện
phát triển ngành thuỷ sản, đặc biệt là nghề khai thác hải sản. Bà Rịa - Vũng Tàu có
5 huyện thị ven biển, trong đó có một huyện đảo Côn Đảo cách Vũng Tàu 180km,
có diện tích 75,2km
2
với 66km bờ biển, có đa dạng sinh học cao và nhiều loại hải
sản quý hiếm.
Biển Bà Rịa - Vũng Tàu với lợi thế nằm trong vùng biển Đông Nam Bộ, có trữ
lượng và khả năng khai thác hải sản tương đối cao đã tạo cho nghề khai thác của
tỉnh có những bước phát triển đáng kể trong những năm vừa qua. Tổng số tàu
thuyền của toàn tỉnh đến tháng 7 năm 2006 là 4.980 chiếc với tổng công suất là
650.380cv (bình quân 121cv/tàu), cao hơn rất nhiều so với các tỉnh trong khu vực
và công suất bình quân của cả nước. Tuy nhiên trên thực tế nghề khai thác hải sản
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn đang ở tình trạng phát triển mạnh các đội tàu khai thác
ở những vùng nước gần bờ, ven hải đảo và nghề khai thác hải sản xa bờ cũng mới
chỉ phát triển trong một vài năm trở lại đây. Việc phát triển nhanh chóng đội tàu
đánh bắt đã làm các hoạt động khai thác càng trở nên sôi động, tuy nhiên việc đầu
tư quá mức, không tính đến hiệu quả kỹ thuật cũng như hiệu quả kinh tế đã dẫn đến
những thăng trầm trong chính những hoạt động khai thác. Các vùng biển ven bờ,
đảo đang ngày càng chịu nhiều sức ép do các hoạt động khai thác của con người (sử
dụng kích thước mắt lưới quá nhỏ, khai thác quá mức ở diện rộng, sử dụng các công
cụ khai thác mang tính hủy diệt, ô nhiễm môi trường…). Nhìn chung nguồn lợi hải
sản ven bờ đang trong tình trạng ngày càng suy giảm cả về chất lượng và số lượng.
Nhiều dấu hiệu cho thấy sự bền vững của nghề khai thác hải sản ven bờ ở Bà Rịa -
Vũng Tàu đang đứng trước những thử thách về nguồn lợi và hiệu quả kinh tế. Mặt
khác mọi hoạt động khai thác vẫn đang diễn ra khá tự do và ngày càng trở nên khó
kiểm soát. Nghề khai thác hải sản xa bờ ở đây cũng mang tính tự phát, số lượng tàu
10
[Type text]
thuyền và cơ cấu nghề nghiệp chưa hợp lý, gây khó khăn cho các nhà quản lý và
ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.
PTBV được hiểu “là sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu/yêu cầu hiện
tại, nhưng không gây trở ngại/làm tổn hại cho/đến việc đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ mai sau”. Như vậy, để phát triển một cách bền vững nghề khai thác của tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu là điều không dễ dàng đạt được bởi vì chúng ta phải điều chỉnh một
cách tối ưu mối quan hệ giữa ba mảng phúc lợi - kinh tế, xã hội và môi trường.
Trong khi đó nghề khai thác hải sản là một nghề sử dụng tài nguyên thiên nhiên có
thể tái tạo và luôn giới hạn về mặt số lượng. Do đó yêu cầu cấp thiết đề ra cho sự
phát triển bền vững nghề KTHS của tỉnh là phải tính toán được sản lượng tối ưu có
thể đạt được, từ đó sắp xếp một cách hợp lý cơ cấu đội tàu, cơ cấu nghề nghiệp và
lao động, phù hợp với điều kiện nguồn lợi trong vùng trên cơ sở đảm bảo phát triển
kinh tế, ổn định xã hội. Song song vào đó là cần có một cơ chế quản lý một cách
chặt chẽ và có những giải pháp đúng đắn và kịp thời cho nghề này.
Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp cao học, đề tài “Các giải pháp
phát triển bền vững nghề khai thác hải sản tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” chúng tôi đi
sâu nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xác định sản lượng khai thác tối ưu tỉnh có
thể đạt được và cường lực tối ưu để khai thác sản lượng này song song với việc xác
định một số chỉ số về hiệu quả kinh tế, các vấn đề xã hội trong cộng đồng ngư dân
của từng loại nghề từ đó đề xuất các giải pháp về phát triển tàu thuyền, nghề nghiệp,
phân vùng khai thác và quản lý, thị trường… và các biện pháp quản lý nghề khai
thác nhằm đạt được mục tiêu PTBV trong giai đoạn tới.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Nghề KTHS tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong những năm vừa qua đã có những
phát triển vượt bậc cả về số lượng tàu thuyền cũng như sản lượng khai thác, tuy
nhiên với sự phát triển ngày càng lớn về cường lực khai thác thì năng suất khai thác
cũng giảm mạnh. Nếu như trong năm 1995, sản lượng trung bình trên một đơn vị
cường lực đạt 0,75 tấn/cv/năm thì đến năm 2005 giảm xuống chỉ còn 0,32
tấn/cv/năm, tức là đã giảm hơn một nửa.
11
[Type text]
Việc quản lý nhằm ngăn chặn xu thế giảm sút của nguồn lợi hải sản và chất
lượng hệ sinh thái biển như: quy định vùng đánh bắt, kích thước ngư cụ, phương
pháp khai thác, thông qua đăng ký, đăng kiểm…Tuy nhiên, hiệu quả của phương
pháp này còn nhiều hạn chế và đòi hỏi chi phí cho việc kiểm tra, giám sát tương đối
lớn. Gần đây một số quốc gia trên thế giới và trong khu vực đã sử dụng mô hình
kinh tế - sinh học để xác định và phân bố hạn ngạch khai thác đối với từng đội tàu,
từng vùng biển và từng đối tượng đánh bắt nhằm sử dụng một cách bền vững nguồn
lợi sẵn có.
Việc đưa ra các giải pháp nhằm phát triển bền vững nghề khai thác của tỉnh,
trước tiên phải xác định sản lượng tối đa có thể khai thác trong tương lai và đạt hiệu
quả kinh tế cao nhất, lựa chọn những nhóm nghề khai thác mang tính chọn lọc cao,
từ đó xác định ra năng lực khai thác và cơ cấu nghề phù hợp trên cơ sở lấy hiệu quả
kinh tế làm động lực song song với việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động nghề cá. Từ cơ sở khoa học này sẽ giúp các nhà quản lý có các giải pháp phù
hợp trong công tác hoạch định chính sách và quản lý nghề khai thác phát triển một
cách bền vững.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào việc nghiên cứu mối tương
quan giữa sản lượng khai thác, năng lực khai thác, hiệu quả kinh tế và tiềm năng
nguồn lợi của vùng biển cũng như một số vấn đề về xã hội liên quan đến nghề
KTHS tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngoài ra, đề tài cũng nghiên cứu phân tích các thể
chế, chính sách liên quan đến việc phát triển nghề khai thác của tỉnh làm cơ sở cho
việc đề xuất các giải pháp.
Đề tài tiến hành nghiên cứu quá trình phát triển nghề KTHS của tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu trong giai đoạn vừa qua. Đánh giá hiệu quả kinh tế của một số loại nghề
chính của tỉnh và tác động của các nghề này đến nguồn lợi vùng biển Bà Rịa - Vũng
Tàu nói riêng và vùng biển Đông Nam Bộ nói chung. Xác định một số chỉ số và
điểm tham chiếu cho quá trình phát triển bền vững cho nghề KTHS của tỉnh.
12
[Type text]
PHẦN 1. TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Tổng quan nghề khai thác hải sản tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
1.1. Điều kiện tự nhiên
Bà Rịa - Vũng Tàu là một tỉnh miền Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp với tỉnh
Đồng Nai, phía Đông Bắc giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp với thành phố Hồ
Chí Minh, mặt còn lại giáp với Biển Đông với hơn 200km bờ biển, trong đó có
40km bãi tắm. Tổng diện tích tự nhiên 1.975,15km
2
; dân số trung bình 8841.543
người; mật độ dân số 426,1 người/km
2
. Toàn tỉnh có 5 huyện/thị ven biển, trong đó
có huyện đảo Côn Đảo cách Vũng Tàu 180km(97 hải lý) với 66km bờ biển và là
khu bảo tồn thiên nhiên Quốc gia.
Vùng biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc vùng biển Đông Nam Bộ; có điểm
mốc từ xã Bình Châu đến giáp Cần Giờ - TP.HCM và hòn đảo xa nhất thuộc Côn
Đảo; bởi vậy có đầy đủ đặc tính của biển Đông Nam Bộ
Diện tích vùng đặc quyền kinh tế của biển ĐNB khoảng 297.000km
2
, riêng
phần thềm lục địa của tỉnh khoảng trên 100.000km
2
. Độ sâu 50m nước cách bờ 40 -
60 hải lý. Nền đáy bằng phẳng, ít dốc; chất đáy phổ biến là bùn, cát, vỏ sò, trong đó
đáy bùn chiếm khoảng 50% diện tích. Tỉnh có 6 cửa luồng lạch và diện tích rạn san
hô thuộc đảo Côn Sơn khoảng 7,5km
2
.
Biển Đông Nam Bộ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có ảnh hưởng
chế độ khí tượng hải văn thiên về khí hậu xích đạo. Nhiệt độ trung bình của nước
biển dao động 27,6 - 29,8
0
C, luôn cao hơn nhiệt độ không khí 1,5 - 3
0
C; nồng độ
muối trung bình 31 - 34%o (ppt) và có sự khác biệt theo mùa, theo vùng và theo
tầng nước; đặc biệt sự khác biệt tập trung ở vùng nước cửa sông, giữa mùa mưa và
mùa khô chênh lệch 5 - 8%o.
Vùng biển chịu ảnh hưởng chủ yếu của 2 loại gió mùa Đông Bắc và Tây Nam
theo mùa rõ rệt, cường độ gió không cao, ít có bão xảy ra, hàng năm cho phép tàu
13
[Type text]
thuyền đánh cá hoạt động khoảng 250 ngày. Tuy nhiên vùng biển này có nhiều
dông nhất trong năm, trung bình 100 - 140 ngày dông/năm. Khi có bão xảy ra
thường đi kèm hiện tượng nước biển dâng cao gây hư hại đến các công trình cảng,
bến cá ven biển.
Thuỷ triều thuộc chế độ bán nhật triều không đều, biên độ triều 3 - 4m. Trong
vùng biển có các vùng nước trồi, nước chìm hình thành nên 5 bãi cá chính (bắc Cù
Lao Thu, Nam Cù Lao Thu, Côn Sơn, cửa sông Cửu Long, ngư trường cá nổi Vũng
Tàu - Phan Thiết). Có 4 bãi tôm (Cù Lao Thu, Nam Vũng Tàu, Cửa sông Cửu Long,
Đông Nam Mũi Cà Mau). Có 3 bãi mực tập trung cao ở biển Phan Thiết và Vũng
Tàu - Côn Đảo.
Hình 1. Vị trí địa lý và vùng biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
1.2. Nguồn lợi hải sản
Theo Bộ Thủy sản và các tài liệu nghiên cứu do Viện Nghiên cứu hải sản Hải
Phòng công bố, nguồn lợi hải sản thuộc vùng biển Đông Nam Bộ thì đây là một
vùng biển có nhiều tiềm năng về nguồn lợi hải sản bậc nhất ở nước ta. Với trữ
lượng ước tính 2.176.892 tấn và khả năng khai thác 873.214 tấn, trong đó trữ lượng
14
[Type text]
cá đáy chiếm khoảng 1.551.889 tấn với khả năng khai thác 620.856 tấn; cá nổi
524.000 tấn và khả năng khai thác 209.600tấn. Riêng vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu
theo ước tính của các nhà chuyên môn có khả năng khai thác 170.000-200.000
tấn/năm (nguồn: quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu thời kỳ 2006 - 2015 với tầm nhìn đến 2020).
Theo kết quả điều tra của chính quyền Sài Gòn giai đoạn 1969-1971 ở vùng
biển Đông Nam Bộ đã gặp 807 loài. Theo số liệu điều tra trong chương trình hợp
tác với Liên Xô trong những năm 1979-1987 đã gặp 661 loài. Đa số giống loài này
thuộc phức hệ cá nhiệt đới, một số loài thuộc vùng ôn đới. Các họ cá chiếm tỷ lệ
trên 1% sản lượng nghề lưới kéo đáy được trình bày trong bảng 2.
Bảng 1: Danh mục một số hải sản chiếm tỷ lệ trên 1% trong sản lượng
lưới kéo vùng biển Đông Nam bộ
STT Tên khoa học Tên Việt Nam Số loài gặp
Tỷ lệ % trong
tổng sản lượng
1 Balistidae Họ cá Bò 4 23,98
2 Synodontidae Họ cá Mối 4 14,56
3 Priacanthidae Họ cá Trác 5 10,61
4 Mullidae Họ cá Phèn 7 10,01
5 Carangidae Họ cá Khế 15 5,39
6 Nemipteridae Họ cá Lượng 10 4,97
7 Sepiidae Họ mực nang 3 3,44
8 Dactylopteridae Họ cá Chuồn đất 1 2,48
9 Loliginidae Họ Mực ống 2 2,33
10 Octopiidae Họ Bạch tuộc 1 1,73
11 Lutianidae Họ cá Hồng 9 1,26
12 Scorpaenidae Họ cá Mù làn 4 1,20
13 Bothidae Họ cá Bơn vỉ 6 1,12
(Nguồn: Viện Nghiên cứu hải sản Hải Phòng)
15
[Type text]
So sánh sự biến động tỷ lệ sản lượng của các họ trong lưới kéo đáy giữa hai
thời kỳ 1979 - 1985 và 1998 - 1999 được trình bày trong bảng 2:
Bảng 2: So sánh biến động tỷ lệ một số họ cá đáy
STT Tên khoa học Tên Việt Nam
% sản lượng
1979-1985
% sản lượng
1998-1999
1 Balistidae Họ cá Bò 0,16
23,98
2 Synodontidae Họ cá Mối 49,50
14,56
3 Priacanthydae Họ cá Trác 3,42
10,61
4 Mullidae Họ cá Phèn 2,66
10,01
5 Carangidae Họ cá Khế 26,34
5,39
6 Nemipteridae Họ cá Lượng 1,87
4,97
7 Sepiidae Họ mực nang 0,75
3,44
8 Dactylopteridae Họ cá Chuồn đất
2,48
9 Loliginidae Họ mực ống 0,45
2,33
10 Octopiidae Họ bạch tuộc 0,05
1,73
11 Lutjanidae Họ cá Hồng 1,23
1,26
12 Scorpaenidae Họ cá Mù làn 0,12
1,20
13 Bothidae Họ cá Bơn vỉ 0,06
1,12
(Nguồn: Viện nghiên cứu hải sản Hải Phòng)
So sánh 2 thời kỳ thấy tỷ lệ 2 họ cá mối và cá khế giảm mạnh và họ cá bò tăng
mạnh. Có thể do tàu kéo đáy của Liên Xô khai thác trúng khu vực cá mối tập trung
ở quanh cù lao Thu nên khi đó tỷ lệ cá mối cao. Trước năm 2004 tỷ lệ cá bò rất cao
trong tỷ lệ sản lượng tàu lưới kéo đáy khai thác ở vùng giáp gianh với Indonesia có
nhiều cá bò. Tuy nhiên hiện nay sản lượng cá bò giảm mạnh. Các họ cá trác, cá
phèn, cá lượng, mực ống, mực nang cũng tăng lên đáng kể.
16
[Type text]
Loài có tỷ lệ cao trong sản lượng khai thác phải kể đến cá bò Nhật Bản
(Stephanolepis japonicus) 23,23% cá trác ngắn (Priacanthus macracanthus) 9,99%
và cá Phèn khoai (Upeneus bensasi) 9,32%
Số loài cá nổi chỉ chiếm 1/4 tổng số loài. Dựa trên kết quả nghiên cứu có một
số loài chiếm tỷ lệ cao trong sản lượng khai thác:
- Cá Ngừ chù (Auxis thazard)
- Cá Ngừ ồ (Auxis rochei)
- Cá Ngừ vằn (Katsuwonus pelamis)
- Cá Nục (Decapterus maruadsi; D.macrosoma)
- Cá Chỉ vàng (Selaroides leptolepis)
- Cá Bạc má (Rastrelliger kanagurta)
- Cá Sòng gió (Megalaspis cordyla)
- Cá Nhồng (Sphyraena spp)
- Cá Tráo mắt to (Selar crumenophthalmus)
- Cá Hố (Trichiurus spp)
- Cá Thu (Scomberomorus spp)
Trữ lượng và khả năng khai thác hải sản vùng biển Đông Nam Bộ trình bày ở
bảng 3.
Bảng 3: Nguồn lợi hải sản ở vùng biển Đông Nam Bộ.
STT Loài hải sản
Trữ lượng
(tấn)
Tỷ lệ
(%)
KN khai thác
(tấn)
Tỷ lệ
(%)
1 Cá đáy 1.551.889 71,29 620.856 71,10
2 Cá nổi 524.000 24,07 209.600 24,00
3 Mực 77.393 3,56 30.952 3,55
4 Tôm 23.610 1,08 11.806 1,35
Tổng cộng 2.176.892 100 873.214 100
(Nguồn: Viện nghiên cứu hải sản Hải Phòng)
17
[Type text]
Trong giai đoạn 2000 - 2005, Viện Nghiên cứu hải sản và dự án ALMRV đã
tiến hành 4 chuyến điều tra bằng nghề lưới kéo đơn tại vùng biển Đông Nam Bộ
vào mùa gió Tây Nam với diện tích điều tra bao phủ trên 4 giải độ sâu: 20 - 30m, 30
- 50m, 50 - 100m và 100 - 200m đã xác định trong khoảng thời gian từ năm 2000 -
2005, trữ lượng ước tính được đã giảm 130.000tấn, đặc biệt suy giảm mạnh ở dải độ
sâu 100 - 200m.
Bảng 4: Biến động trữ lượng nguồn lợi cá đáy theo dải độ sâu
giai đoạn 2000 - 2005
Năm
Dải độ sâu/diện tích vùng biển
Tổng
172.820 km
2
20-30m
24.640 km
2
30-50m
68.120 km
2
50-100m
51.950 km
2
100-200m
27.910km
2
2000 38.139
131.171
96.242
127.599
393.151
2002 23.521
85.104
73.717
54.299
236.641
2004 40.598
89.685
72.938
91.915
295.136
2005 20.479
88.638
91.030
59.231
259.378
Trung bình 30.684
98.650
83.482
83.261
296.077
(Nguồn: Dự án đánh giá nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam - ALMRV)
Công tác điều tra đánh giá nguồn lợi hải sản phục vụ cho công tác quản lý và
hoạch định chính sách đã được tiến hành rất nhiều trong thời gian trước và cả những
năm gần đây. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu riêng biệt cho điều tra và đánh giá
nguồn lợi hải sản vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu. Do đó các căn cứ khoa học cụ thể
về sản lượng tối đa có thể khai thác cho vùng biển này rất khó xác định để đề ra các
giải pháp phát triển bền vững. Mặc dù các nghiên cứu về nguồn lợi chỉ là các điểm
tham chiếu cho quá trình quản lý, nhưng việc nắm rõ biến động về nguồn lợi sẽ giúp
18
[Type text]
các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý đưa ra các giải pháp phù hợp
trong từng giai đoạn phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến PTBV nghề KTHS
Vấn đề phát triển bền vững cho nghề khai thác hải sản nói riêng và ngành
Thuỷ sản nói chung chỉ mới được đề cập trong một vài năm trở lại đây. Phát triển
bền vững nói chung đã trở thành quan điểm và mục tiêu của Đảng và chính sách của
Nhà nước. Một phần đã được thể hiện trong Chỉ thị số 36/CT-TW về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
(1998), Nghị quyết số 41/NQ-TW về bảo vệ môi trường (2004). Đặc biệt, ngày 17
tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 153/2004/QĐ -TTg
ban hành Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của
Việt Nam). Trong đó, thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế được xác định cần
phải ưu tiên nhằm PTBV.
Đã có một số nghiên cứu bước đầu về PTBV nghề khai thác và bảo vệ nguồn
lợi hải sản ở Việt Nam nói chung. Một số mô hình quản lý nguồn lợi có sự tham gia
của cộng đồng cũng đã được tiến hành thí điểm tại một số địa phương như: dự án
bảo tồn biển Rạn Trào - Khánh Hoà do IMA tài trợ, dự án quản lý nguồn lợi có sự
tham gia của cộng đồng tại Phù Long - Cát Bà - Hải Phòng. Những dự án này bước
đầu đã đạt được những thành công nhất định. Nhưng qua những dự án này cho thấy
vẫn thiếu một mô hình quản lý thực hiện mà ở đó có sự tham gia đầy đủ của các bên
liên quan (những người hưởng lợi) và đặc biệt là vai vai trò của người dân chưa
thực sự được chú trọng và quan tâm. Những dự án này chỉ được tiến hành ở quy
mô nhỏ và áp dụng ở những vùng có đặc thù riêng mà không thể đưa ra một chính
sách chung để áp dụng đối với những vùng, địa phương khác nhau.
Giải pháp nhằm giảm số lượng tàu thuyền công suất nhỏ khai thác ở vùng biển
gần bờ, đầu tư các tàu thuyền có công suất lớn khai thác ở những vùng biển xa bờ
đã được chú trọng thông qua chương trình vay vốn ưu đãi đóng tàu khai thác hải sản
xa bờ (theo Quyết định 393/QĐ/TTg ngày 09/6/1997). Nhưng hiệu quả chưa đạt
19
[Type text]
được theo mong muốn, đặc biệt số lượng tàu thuyền nhỏ vẫn có xu hướng gia tăng
và hiệu quả kinh tế của nhiều đội tàu xa bờ còn thấp.
Các giải pháp nhằm quản lý số lượng tàu thuyền cũng đã được thực hiện thông
qua việc đăng ký, đăng kiểm tàu thuyền. Tuy nhiên việc đăng ký, đăng kiểm vẫn
chưa được thực hiện một cách chặt chẽ và chưa có tác dụng hạn chế sự phát triển
của tàu thuyền.
Luật Thuỷ sản và các văn bản dưới Luật ra đời nhằm quản lý các hoạt động
thuỷ sản, trong đó có việc quản lý khai thác thuỷ sản. Tuy nhiên Luật cũng như các
biện pháp cấm và hạn chế các nghề khai thác gây xâm hại nguồn lợi chưa thực sự đi
vào cuộc sống vì chưa có các giải pháp quản lý và các chính sách đồng bộ nhằm tạo
sinh kế cho người dân.
Tại các một số tỉnh trong nước cũng đã có các giải pháp nhằm giảm áp lực
khai thác và tạo sinh kế cho cộng đồng như:
Năm 1999, UBND tỉnh Khánh Hòa đã có biện pháp chỉ đạo trong việc chuyển
đổi nghề nghiệp cho ngư dân làm các nghề: Lưới kéo, xiệp điện trong đầm Nha Phu
sang nuôi vẹm xanh và ương tôm hùm giống đã thu được kết quả bước đầu khả
quan.
Năm 1999, UBND tỉnh Kiên Giang đã có các chính sách chuyển đổi cho ngư
dân đang làm các nghề cấm như: te xiệp, bóng mực, lưới kéo ven bờ hoạt động tại
vùng biển Kiên Giang sang các nghề lưới rê, câu nhằm giảm các nghề hủy diệt và
các nghề nhỏ ven bờ gây xâm hại nguồn lợi, từng bước khôi phục nguồn lợi hải sản
vùng biển ven bờ. Tuy nhiên mức độ thành công của các chủ trương chính sách này
còn giới hạn và chưa đồng bộ cho việc phát triển bền vững nghề KTHS của địa
phương.
Ngày 6/12/2002, Bộ Thủy sản đã có Thông tư số 02/2002/TT-BTS, hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 96/2001/NĐ-CP ngày 16/11/2001 của Chính phủ về điều
kiện kinh doanh các ngành nghề thủy sản, trong đó có quy định về tuyến khai thác:
từ bờ trở ra 3 hải lý từ ngày 01 tháng 01 năm 2003 cấm các nghề te, xiệp, trũ, rùng
20
[Type text]
hoạt động nhằm hạn chế các nghề gây xâm hại và có hiệu quả kinh tế thấp khai thác
ở vùng biển ven bờ.
Trong những năm qua, Nhà nước đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến một số vấn đề quản lý bền vững nghề khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy
sản. Năm 2005, Văn phòng phát triển bền vững quốc gia (văn phòng nghị sự 21) đã
chọn 4 ngành thí điểm phát triển bền vững trong đó có ngành Thủy sản. Bước đầu
đã phối hợp với tổ chức UNDP thực hiện thí điểm một số mô hình PTBV tại Cát Bà
và tổ chức thành công Hội nghị quốc gia về PTBV ngành thủy sản vào năm 2006.
Một số mô hình quản lý hướng tới phát triển bền vững cũng đã được quan tâm
và thực hiện thí điểm tại một số địa phương như:
- Dự án thí điểm khu bảo tồn biển Hòn Mun, Khánh Hòa
- Dự án thí điểm khu bảo tồn biển Rạn Trào, Vạn Ninh, Khánh Hòa
- Dự án quản lý nguồn lợi thủy sản ven bờ dựa vào cộng đồng tại Phù Long,
Cát Bà, Hải Phòng.
- Dự án quy hoạch tổng thể quản lý khai thác thủy sản đầm phá Thừa Thiên
Huế
- Dự án quản lý tổng hợp vùng bờ vịnh Hạ Long
- Đề tài nghiên cứu Khoa học và Phát triển công nghệ nghiên cứu chế tạo thiết
bị thoát cá con nhằm tăng tính chọn lọc của ngư cụ.
- Mô hình chuyển đổi nghề te, xiệp sang nghề thích hợp khác không gây xâm
hại nguồn lợi làm cơ sở khoa học cho việc nhân rộng ra các địa phương ven biển.
Giảm áp lực khai thác vùng biển ven bờ, nơi được đánh giá là nguồn lợi đã bị khai
thác quá mức. Tuy nhiên đề tài cũng mới chỉ tiến hành xây dựng mô hình ở một số
địa phương, cho nên việc nhân rộng mô hình là khó khăn do đặc thù riêng về nghề
nghiệp và điều kiện phát triển các ngành nghề khác tại các địa phương khác nhau.
21
[Type text]
Tất cả những giải pháp nêu trên còn mang tính đơn lẻ ở từng địa phương. Và
vấn đề sinh kế của ngư dân chưa được giải quyết triệt để và chưa có cơ sở khoa học
thuyết phục việc phải hạn chế phát triển số lượng tàu thuyền.
Để có cơ sở khoa học cho việc đề ra các giải pháp nhằm phát triển bền vững
nghề KTHS của một tỉnh. Điều quan trọng chúng ta phải đánh giá được tiềm năng
khai thác, mức độ phát triển của nghề, xác định được các loại nghề có hiệu quả kinh
tế cao nhưng phải mang tính chọn lọc và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội,
phong tục tập quán của từng địa phương. Các giải pháp phải mang tính đồng bộ,
thực tế và khả thi.
3. Tình hình nghiên cứu về PTBV nghề KTHS trên thế giới.
Sản lượng khai thác hải sản trên toàn thế giới giảm 2% trong giai đoạn 2000 -
2002. Một số quốc gia có sản lượng khai thác giảm nhưng bù lại là sản lượng nuôi
trồng thủy sản tăng. Sản lượng khai thác trên thế giới năm 2002 đạt 93,2 triệu tấn.
Tuy nhiên nếu tính trên đầu người thì lượng thực phẩm khai thác giảm nhẹ từ
10,8kg (1997) xuống còn 9,8kg (2002) (FAO,2004).
Theo thống kê của FAO, trong giai đoạn 1970 - 2000 trữ lượng cá giảm từ 10 -
25%. Việc khai thác quá mức vẫn còn diễn ra ở nhiều nước, do đó các chương trình
khôi phục trữ lượng và ngăn chặn việc khai thác quá mức cần phải thực hiện nhanh
chóng ở mỗi quốc gia (FAO,2004).
FAO thống kê từ 12 trong 16 vùng nghiên cứu cho thấy ít nhất 70% trữ lượng
cá đã bị khai thác hoàn toàn hay khai thác quá mức. Điều này cho thấy chúng ta đã
khai thác vượt ngưỡng tối đa và cần có những biện pháp quản lý để hạn chế việc
khai thác nhằm phục hồi nguồn lợi.
Để hướng đến phát triển bền vững có sự tham gia của cộng đồng, thông qua
FAO và hội nghị thượng đỉnh phát triển bền vững thế giới tổ chức tại Nam Phi năm
2002, các quốc gia đang xúc tiến mở rộng chính sách và quản lý tập trung vào việc
bảo vệ nguồn lợi và hệ sinh thái. Các vấn đề quản lý quan trọng nhất cần đề cập đến
là ảnh hưởng của nghề cá đến sinh cảnh, quần thể và mối tương tác sinh thái học
22
[Type text]
cũng như các hoạt động trong đất liền và sự thay đổi khí hậu. Đa số các loại ngư cụ
khai thác không có tính chọn lọc đã làm gia tăng việc loại bỏ các loài khai thác chưa
đạt kích cỡ thương phẩm trên biển. Do việc loại bỏ cá này đã làm gia tăng áp lực
khai thác lên nguồn lợi có thể dẫn đến việc khai thác quá mức, ảnh hưởng tới một
số loài đang có nguy cơ bị đe dọa (FAO, 2004).
Theo báo cáo của Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA), hơn 2/3 nguồn lợi hải
sản trên thế giới bị khai thác quá mức. Đến năm 2025, dân số thế giới đạt 9,3 tỷ
người thì nhu cầu thực phẩm thủy sản ngày càng gia tăng. Điều này có thể làm cho
hoạt động nghề cá chuyển sang quy mô lớn hơn và việc sử dụng các ngư cụ hủy diệt
cũng gia tăng nhằm khai thác cá triệt để. Theo chương trình bảo vệ môi trường của
Liên hợp quốc, các phương pháp khai thác hủy diệt là mối đe dọa lớn nhất vì nó
không những làm cho nguồn lợi suy giảm một cách nhanh chóng nhất mà còn tàn
phá hệ sinh thái cần thiết cho sinh trưởng, tồn tại và sinh sản của các loài sinh vật.
Các phương pháp khai thác hủy diệt nguy hiểm nhất phải kể đến là thuốc nổ, chất
độc, xung điện mạnh và một số nghề như lưới kéo đáy, tác hại của nghề lưới kéo
đáy là làm hư hại nền đáy và đe dọa đến đa dạng sinh học.
Khai thác bằng chất độc Cyanua rất phổ biến ở các nước Đông Nam Châu á.
Các phương pháp khai thác này tập trung vào các loài cá rạn san hô có giá trị kinh
tế cao như: cá Mó (Cheilinus undulatus) và cá mú chuột (Cromoleptis altevi,
Epinephelus lanceolatus) để bán cho Hồng Công. Năm 1997 Hồng Công đã nhập
khẩu khoảng 32.000tấn cá rạn tươi sống. Trong đó 2 loài cá này đang nằm trong
danh mục những loài quý hiếm đang có nguy cơ đe dọa nằm trong sách đỏ của
IUCN. Mặc dù việc nghiêm cấm khai thác hai loài cá này ở một số quốc gia như
Philippines, Indonesia và Maldives, nhưng các loài cá này vẫn được tìm thấy trên
thị trường Hồng Công.
Khai thác thủy sản cũng là sinh kế chính cho các nước Châu Á (Charles,
2001). FAO (2002) ước tính có khoảng 27 triệu người hoạt động trong khai thác
thủy sản trên thế giới, trong đó Châu Á có 22 triệu người.
23
[Type text]
Trước nguy cơ nguồn lợi suy giảm, hệ sinh thái bị tàn phá. Một số phương
pháp khai thác và bảo vệ nguồn lợi hợp lý đang được áp dụng trên thế giới như sau:
3.1. Giảm số lượng tàu thuyền khai thác và chuyển đổi nghề nghiệp
Năm 2004, tổng số tàu thuyền trên thế giới khoảng 4,1 triệu chiếc. Số lượng
thuyền khai thác tập trung nhiều nhất ở châu á (85%). Tiếp theo là Châu Âu (8,9%),
Bắc và Trung Mỹ (4,5%) (FAO, 2004).
Trước sự gia tăng số lượng và công suất tàu thuyền, một số nước đã thực hiện
nghiêm túc việc cắt giảm số lượng tàu thuyền dư thừa. Việc giảm số lượng tàu
thuyền công suất lớn là rất cần thiết, tuy nhiên việc khai thác xa bờ luôn luôn đòi
hỏi phải dùng tàu công suất lớn mới đảm bảo an toàn trong điều kiện thời tiết xấu.
Ngoài ra các tàu công suất lớn thì khai thác cá nổi ngoài biển khơi hiệu quả hơn. Do
đó theo dự báo thì số lượng tàu cỡ lớn sẽ gia tăng trong vòng 10 năm tới (FAO,
2004)
Tuy nhiên, ở một số nước đang thực hiện chương trình cắt giảm số lượng tàu
cỡ lớn. Trung Quốc đang nỗ lực giảm kích thước thuyền, số lượng người tham gia
khai thác nhằm hạn chế việc khai thác quá mức. Dự kiến đến năm 2007 số lượng
lao động khai thác giảm 2% và có khoảng 4% được chuyển qua làm các nghề khác .
Trung Quốc cố gắng loại bỏ một số thuyền cũ, kém hiệu quả và tăng cường tập
huấn cho họ về nuôi trồng thủy sản. Kết quả là số người nuôi trồng thủy sản tăng
6% năm 2002 so với năm 2000 và nguồn lợi dần được khôi phục.
Xu hướng chuyển đổi lực lượng lao động khai thác sang NTTS cũng được tiến
hành ở nhiều quốc gia khác nhau. Các nước công nghiệp, đặc biệt là Nhật Bản và
một số nước châu Âu, lực lượng lao động KTHS giảm qua các năm vừa qua. Đây là
kết quả của các chương trình cắt giảm cường lực khai thác và áp dụng khoa học
công nghệ tiên tiến (FAO, 2004).
Năm 2003, một số quốc gia đã giảm một lượng lớn tàu 100 tấn. Nhật Bản là
nước đàu tiên với số lượng giảm là 140 chiếc. Hơn 90% tàu Nhật Bản có công suất
24
[Type text]
dưới 5 tấn. Số lượng loại này giảm từ giữa năm 1997 - 2000. Đặc biệt số tàu trên 50
tấn giảm 20%.
Khối liên minh châu Âu cắt giảm 2% tàu khai thác hàng năm. Số lượng tàu
thuyền của liên minh châu Âu giảm từ 96.000 chiếc năm 2000 xuống còn 88.701
chiếc năm 2003. Trong đó 13% là lưới kéo, 6% lưới rùng, 3% lưới rê, 16% câu còn
lại là các nghề khai thác khác.
Theo thống kê của FAO thì tàu khai thác cá ngừ vượt quá công suất cho phép.
Do đó việc đóng tàu công suất lớn cần phải tạm ngưng, đồng thời di chuyển một số
tàu khai thác xa bờ vào vùng ven bờ (FAO, 2004).
Iceland giảm 8% lượng tàu khai thác năm 2002 và 10% trong 5 năm trước đó
(FAO,2004).
Ở Nauy có 9.569 chiếc tàu khai thác đăng ký đến thời điểm tháng 12/2002. So
với năm 2000 thì số lượng tàu đã giảm 48% (FAO, 2004)
Như vậy việc cắt giảm số lượng tàu thuyền đã góp phần đáng kể đến việc khôi
phục nguồn lợi ở một số quốc gia.
3.2. Áp dụng các mô hình toán trong quản lý khai thác thủy sản
Cùng với sự gia tăng số lượng tàu thuyền một cách nhanh chóng, một số mô
hình toán về quản lý nguồn lợi đã được sử dụng nhằm quản lý nguồn lợi thủy sản.
Các mô hình này là sự kết hợp giữa sinh học và kinh tế (Hannesson, 1978). Sự phát
triển mô hình động học quần thể của Beverton và Holt (1957) đã góp phần quan
trọng trong khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Trong các mô hình này có sự kết
hợp kinh tế - xã hội và nguồn lợi tự nhiên đã đưa đến khái niệm mới trong nghiên
cứu nguồn lợi: mô hình kinh tế sinh học. Mô hình động học quần thể của Beverton
và Holt, Gordon Schaefer và Fox là những mô hình đang được sử dụng rộng rãi
trong phân tích kinh tế thủy sản, đặc biệt là đối với các nước nhiệt đới, nơi có nghề
cá đa loài khó dự báo trữ lượng chính xác (Gordon, 1954). Các mô hình cho phép
tính toán hiệu quả kinh tế và sinh học trong thủy sản, khả năng dự báo, lập kế hoạch
và điều chỉnh số lượng tàu thuyền cũng như cường lực một cách tốt hơn.
25
[Type text]
3.3. Áp dụng hệ thống quản lý nghề cá có trách nhiệm
Mặc dù việc khai thác quá mức ở châu Âu được xem xét trong hơn 20 năm
qua, nhưng Liên minh châu Âu chưa thực hiện thành công quản lý thủy sản bền
vững. Nhà nước hỗ trợ hàng triệu Euro vào ngành công nghiệp khai thác làm cho số
lượng tàu công suất lớn gia tăng rất nhanh. Việc xây dựng hệ thống quản lý mới là
giảm số lượng tàu thuyền và nâng cao trách nhiệm giữa những người quản lý và
người dân trong việc khôi phục nguồn lợi và hệ thống này cần phải khẩn trương
thực hiện nhanh chóng (Steffen Hentrich, Markus Salomon, 2005). Hệ thống quản
lý mới là chuyển quyền khai thác có trách nhiệm cho người dân, trong đó mọi người
dân xem nguồn lợi thủy sản là tài sản chung của mọi người và cần phải được bảo
vệ. Với hệ thống quản lý này cho thấy có những thành công lớn trong việc bảo vệ
và phục hồi nguồn lợi. Các thành viên EU đã thực hiện hiệu quả việc khôi phục trữ
lượng, giảm áp lực khai thác và đem lại lợi ích kinh tế cao cho ngành công nghiệp
khai thác của mình
Từ 1990, số lượng thuyền thuộc khối EU gia tăng một cách nhanh chóng. Dựa
trên số liệu thống kê, EU dự báo số thuyền khai thác ở EU cao hơn 40% so với đăng
ký thực tế. Kết quả là khai thác quá mức vànguồn lưọi bị suy giảm. Đầu những năm
1990, EU đã thỏa thuận hiệp định cơ bản về khai thác hạn ngạch, giới hạn cường
lực khai thác và xây dựng các khu bảo tồn biển. Theo hiệp định này, nghề khai thác
phải được quản lý sao cho trữ lượng nguồn lợi hiện có phải cân bằng với tốc độ tử
vong của từng loài. Thế nhưng theo hội đồng bảo vệ môi trường biển Đông bắc Đại
Tây Dương thì 2/3 trữ lượng cá ở vùng này vẫn không được quản lý một cách bền
vững (OSPAR, 2000)
3.4. Áp dụng hệ thống quản lý khai thác theo hạn ngạch
Đầu những năm 1980, do nguồn lợi thủy sản ngày càng ít trong khi đó số
lượng thuyền khai thác quá nhiều. Ngành công nghiệp khai thác Newzealand và
chính phủ nhận thấy rằng cần phải có một hệ thống quản lý mới trong khai thác hải
sản. Vào tháng 10/1986, sau 2 năm lập kế hoạch và thẩm định, hệ thống quản lý
theo hạn ngạch được áp dụng. Nguyên tắc của khai thác hạn ngạch là các cá nhân