Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm he chân trắng (litopenaeus vannamei) thương phẩm tại tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.05 KB, 101 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG





HỒ THỊ THÚY THANH




ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA NGHỀ NUÔI TÔM HE CHÂN TRẮNG
(Litopenaeus vannamei) THƯƠNG PHẨM
TẠI TỈNH KHÁNH HÒA




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC





Khánh Hòa - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG





HỒ THỊ THÚY THANH


ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA NGHỀ NUÔI TÔM HE CHÂN TRẮNG
(Litopenaeus vannamei) THƯƠNG PHẨM
TẠI TỈNH KHÁNH HÒA

Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh
Mã số: 60 34 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Xuân Thủy
Th.S Thái Ninh


Khánh Hòa - 2013


i


LỜI CAM ĐOAN



Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.








































ii


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy TS. Phạm Xuân Thủy, Th.S Thái Ninh.
Nếu không có những lời nhận xét, giải thích quý giá của Thầy để xây dựng cấu trúc
luận văn và sự hướng dẫn nhiệt tình, tận tâm của thầy trong suốt quá trình nghiên cứu
thì luận văn này đã không hoàn thành. Tôi cũng học được rất nhiều từ thầy về kiến
thức chuyên môn, tác phong làm việc và những điều bổ ích khác.
Cảm ơn các anh chị Sở Nông nghiệp và phát triển Nông Thôn tỉnh Khánh Hòa,
vì đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong quá trình thu thập số liệu và những lời khuyên bổ ích
trong suốt thời gian viết luận văn này.
Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn tới tất cả các Thầy, Cô giảng viên đã dạy tôi trong
suốt khóa học này. Các Thầy, Cô đã đem đến cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm
hết sức quý báu cho cuộc đời của tôi.

Khánh Hòa, tháng 12 năm 2013







iii


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 4
1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế 4
1.1.1. Các quan điểm truyền thống về hiệu quả kinh tế 4
1.1.2. Các quan điểm mới về hiệu quả kinh tế 7
1.2. Bản chất và tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế 10
1.2.1. Bản chất của hiệu quả kinh tế 10
1.2.2. Tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế 13
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế 15
1.3.1. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế 15
1.3.1.1. Doanh thu 16
1.3.1.2. Chi phí 16
1.3.1.3. Lợi nhuận 18
1.3.2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế 19
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội 19

1.4. Các quan điểm đánh giá hiệu quả 20
1.5. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài 21
1.5.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 21
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
2.1. Tình hình nuôi tôm he chân trắng trên trên thế giới 22


iv

2.2. Tình hình nuôi tôm he chân trắng ở Việt Nam 25
2.2.1. Tình hình nuôi tôm he chân trắng ở Việt Nam 25
2.2.2. Một số công trình nghiên cứu về tôm he chân trắng tại Việt Nam 31
2.3. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu nuôi tôm he chân trắng thương phẩm tại
tỉnh Khánh Hòa 32
2.3.1. Đặc điểm của đối tượng và địa bàn nghiên cứu 32
2.3.1.1. Đặc điểm của đối tượng 32
2.3.1.2. Giới thiệu chung về tỉnh Khánh Hòa 32
2.3.2. Tình hình nuôi tôm he chân trắng tại Khánh Hòa 33
2.4. Phương pháp nghiên cứu 37
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu 37
2.4.2. Thu thập số liệu 37
2.4.2.1. Số liệu thứ cấp 37
2.4.2.2. Số liệu sơ cấp 38
2.4.2.3. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế- xã hội 38
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 39
3.1. Thông tin chung về nghiên cứu 39
3.1.1. Những thông tin chung về chủ hộ 39
3.1.2. Các thông số kỹ thuật về tôm he chân trắng tại Khánh Hòa 45
3.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Khánh Hòa 48

3.2.1. Đánh giá kết quả kinh tế 48
3.2.1.1. Tỉnh Khánh Hòa 48
3.2.1.2. Phân theo các huyện 49
3.2.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế 52
3.2.2.1. Tỉnh Khánh Hòa 52
3.2.2.2. Phân theo các huyện 53
3.2.3. Đánh giá hiệu quả xã hội 60
3.3. Đánh giá chung về hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm he chân trắng tại
tỉnh Khánh Hòa 62


v

3.3.1. Thành tựu và hạn chế của nghề nuôi tôm he chân trắng tỉnh Khánh Hòa 62
3.3.2. Một số nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả các hộ nuôi tôm he
chân trắng tại tỉnh Khánh Hòa 64
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 70
4.1. Kết luận 70
4.2. Kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội đối với nghề nuôi tôm he
chân trắng tại Khánh Hòa 71
4.2.1. Đối với người nuôi 71
4.2.2. Đối tỉnh Khánh Hòa 72
4.3. Hạn chế của đề tài 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHỤ LỤC 79













vi


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Sản lượng NTTS quốc gia đứng đầu thế giới năm 2005 [20] 23
Bảng 2 : Sản lượng tôm nuôi trên thế giới giai đoạn 2001 – 2005 [20] 24
Bảng 3 : Sản lượng tôm nuôi của Việt Nam theo khu vực từ năm 2006 - 2010 [17] .26
Bảng 4: Tiềm năng diện tích nuôi trồng thủy sản tỉnh Khánh Hòa [3] 34
Bảng 5: Chỉ tiêu quy hoạch nuôi trồng thủy sản tỉnh Khánh Hòa đến năm 2015 có tính
đến 2020 [10] 35
Bảng 6: Chỉ tiêu quy hoạch về sản xuất giống tôm tỉnh Khánh Hòa đến năm 2015 có
tính đến 2020 [10] 35
Bảng 7: Diện tích và sản lượng nuôi tôm Khánh Hòa giai đoạn 2005 – 2010 36
Bảng 8: Phân bố mẫu theo giới tính 40
Bảng 9: Phân bố mẫu theo độ tuổi 40
Bảng 10: Phân bố mẫu theo số lao động thường xuyên tham gia nuôi tôm 41
Bảng 11: Phân bố mẫu theo tỷ lệ thu nhập từ việc nuôi tôm 42
Bảng 12: Phân bố mẫu theo kinh nghiệm nuôi tôm 43
Bảng 13: Phân bố mẫu theo kỹ thuật nuôi tôm của chủ hộ 43
Bảng 14: Phân bố mẫu theo trình độ học vấn 44
Bảng 15: Phân bố mẫu theo diện tích nuôi tôm 44
Bảng 16: Các thông số kỹ thuật về tôm he chân trắng tại Khánh Hòa, 2010 45

Bảng 1: Thống kê mô tả mật độ theo từng huyện tỉnh Khánh Hòa, 2010 45
Bảng 18: Thống kê mô tả hệ số thức ăn theo từng huyện tỉnh Khánh Hòa, 2010 46
Bảng 19: Thống kê mô tả độ trong theo từng huyện tỉnh Khánh Hòa, 2010 46
Bảng 20: Thống kê mô tả độ mặn theo từng huyện tỉnh Khánh Hòa, 2010 46
Bảng 21: Thống kê mô tả tỷ lệ đạm của thức ăn theo từng huyện 47
Bảng 22: Thống kê mô tả năng suất tôm nuôi theo từng huyện 47
Bảng 23: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại tỉnh Khánh Hòa 48
Bảng 24: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Cam Ranh, 2010 49
Bảng 25: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Nha Trang, 2010 50
Bảng 26: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Ninh Hòa, 2010 51
Bảng 27: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Vạn Ninh, 2010 51


vii

Bảng 28: Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại tỉnh Khánh Hòa 52
Bảng 29: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Cam Ranh, 2010 53
Bảng 30: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Nha Trang, 2010 54
Bảng 31: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Ninh Hòa, 2010 55
Bảng 32: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng tại Vạn Ninh, 2010 56
Bảng 33: So sánh hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng của các huyện,
thành phố tại Khánh Hòa, 2010 57






DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ



Hình 1: Tôm he chân trắng 32
Hình 2: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 37



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nghề nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên thế giới, nuôi tôm là một trong
những nghề phát triển mạnh nhất. Nhiều loài tôm có giá trị kinh tế cao đã được đưa
vào nuôi với nhiều hình thức khác nhau như: nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến,
bán thâm canh và thâm canh. Tại một số quốc gia trên thế giới nghề nuôi tôm đã phát
triển đạt đến trình độ cao, thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư, các nhà nghiên cứu,
người lao động và thực tế đã mang lại rất nhiều lợi ích to lớn cho các quốc gia này.
Việt Nam có 3.260 km bờ biển, 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông và
hàng ngàn đảo lớn nhỏ trên biển, có tiềm năng lớn về mặt nước với khoảng 1,7 triệu
ha. Điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn lao động dồi dào, sản phẩm thủy sản thu được
dễ tiêu thụ, có giá trị xuất khẩu cao đã làm cho nghề nuôi tôm phát triển mạnh, trở
thành một nghề sản xuất chính ở tất cả các tỉnh, thành ven biển từ Bắc vào Nam [2]
Tôm he chân trắng (Penaeus vannamei Boone, 1931) là loài tôm nhiệt đới có
nguồn gốc từ Nam Mỹ, được nuôi phổ biến ở các nước châu Mỹ La tinh. Đây là đối
tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, có thị trường lớn và sản lượng không ngừng gia tăng.
Tôm có thịt ngon, giàu dinh dưỡng, tỷ lệ phần thịt nhiều, sinh trưởng nhanh, mùa vụ
sinh sản tương đối dài và có thể thành thục đẻ nhiều lần. Thức ăn cho tôm he chân
trắng yêu cầu tỷ lệ đạm trong thức ăn thấp hơn tôm sú. Tôm he chân trắng có thể chịu
được sự thay đổi của môi trường và đặc biệt có thể nuôi được trong các thủy vực nước
mặn, nước ngọt và nước lợ. Một số nước châu Á như Đài Loan, Trung Quốc bắt đầu di
nhập nuôi thử nghiệm đối tượng này vào những năm của thập niên 70. Tại Việt Nam

tôm tôm he chân trắng được đưa vào nuôi thử nghiệm từ năm 2001. Đến nay loài tôm
này đã trở thành đối tượng nuôi phổ biến ở nhiều địa phương trên cả nước [2]
Trong những năm gần đây điều kiện thời tiết không thuận lợi. Môi trường các
vùng nuôi tôm sú ven biển ngày càng ô nhiễm, cơ sở vật chất phục vụ nuôi tôm của
các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ chưa được đầu tư đồng bộ, phần lớn các hộ nuôi
tôm phát triển tự phát thiếu quy hoạch, nên việc nuôi tôm sú đang đối mặt với nhiều
yếu tố rủi ro: ô nhiễm môi trường, dịch bệnh…giá cả bấp bênh, hiệu quả kinh tế thấp.
Để từng bước khắc phục tình trạng nuôi độc canh tôm sú bằng việc đa dạng hóa đối
tượng nuôi, có thể đưa các đối tượng mới vào để cải tạo, như thay bằng tôm he chân


2

trắng, cua, ghẹ, rô phi đơn tính…nhằm tận dụng tối đa diện tích mặt nước, giúp nông
dân các vùng nông thôn ven biển góp phần xoá đói, giảm nghèo. Trong các đối tượng
trên, tôm he chân trắng là đối tượng cần được ưu tiên phát triển vì tôm he chân trắng là
đối tượng rộng muối, rộng nhiệt, dễ nuôi, ở giai đoạn dưới 20g/con tôm he chân trắng
có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh, có giá trị kinh tế cao và cũng là nguồn nguyên
liệu quan trọng phục vụ cho xuất khẩu.
Khánh Hòa là địa phương có tốc độ tăng diện tích nuôi tôm he chân trắng nhanh
đến chóng mặt. Năm 2008, diện tích nuôi tôm he chân trắng ở đây chỉ có 900 ha thì
sang năm 2009 đã tăng đến 3.100 ha [9]. Do lợi nhuận từ nghề nuôi tôm he chân trắng
mang lại khá cao nên diện tích nuôi ngày càng phát triển không theo quy hoạch của địa
phương, của ngành. Diện tích nuôi gia tăng tỷ lệ thuận với mức độ ô nhiễm môi
trường, dịch bệnh bùng phát và lây lan. Đây cũng chính là hệ quả của việc quản lý
chưa chặt chẽ, trình độ của người nuôi còn hạn chế, nhất là kỹ thuật quản lý môi
trường, phòng ngừa dịch bệnh trên tôm nuôi làm cho nghề nuôi tôm he chân trắng
chưa thật sự phát triển bền vững. Hiệu quả kinh tế mang lại tuy có cao nhưng thiếu
tính ổn định, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ. Khánh Hòa năm 2009 thả nuôi 2.360
ha tôm he chân trắng thì bị thiệt hại đến 1.500 ha làm cho nhiều ngư dân điêu đứng, nợ

nần chồng chất [9]. Trước thực trạng trên, việc tìm hiểu hiện trang và đánh giá hiệu
quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm he chân trắng tại tỉnh Khánh Hòa trong thời
gian qua là rất cần thiết, nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc quy hoạch vùng nuôi của
địa phương, giúp cho nghề nuôi tôm he chân trắng phát triển ổn định và bền vững.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế- xã
hội nghề nuôi nuôi tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei) thương phẩm tại tỉnh
Khánh Hòa” là cần thiết.
2. Mục tiêu của đề tài
Xác định hiệu quả kinh tế - xã hội của các hộ nuôi tôm he chân trắng tại tỉnh
Khánh Hòa nói chung và tại các thành phố Cam Ranh, thành phố Nha Trang, thị xã
Ninh Hòa, huyện Vạn Ninh nói riêng.
Đưa ra một số kiến nghị cho người nuôi và chính quyền địa phương nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho nghề nuôi tôm he chân trắng.


3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của các hộ nuôi tôm
he chân trắng thương phẩm tại tỉnh Khánh Hòa.
Phạm vi nghiên cứu
Các hộ nuôi tôm he chân trắng tại thành phố Nha Trang, thành phố Cam Ranh,
thị xã Ninh Hòa, huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa. Thu thập tình hình nuôi tôm he
chân trắng thương phẩm tại tỉnh Khánh Hòa vào tháng 9 năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra thống kê: thống kê mô tả, thống kê phân tích và thống kê
so sánh.
5. Đóng góp của đề tài
Cung cấp số liệu, dữ liệu về thực trạng và các đánh giá về hiệu quả kinh tế - xã

hội nghề nuôi tôm he chân trắng thương phẩm tại hành phố Nha Trang, thành phố Cam
Ranh, thị xã Ninh Hòa, huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa.
Những kết luận của đề tài sẽ là một tài liệu hỗ trợ cho người nuôi và các cơ
quan chức năng trong việc lập kế hoạch và quy hoạch để nghề nuôi tôm he chân trắng
có hiệu quả và bền vững.
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho người nuôi tôm he chân trắng có những định
hướng và giải pháp đúng đắn nhằm phát triển nghề nuôi một cách hiệu quả, bền vững.
Luận văn còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho những nghiên cứu tiếp theo về
hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm he chân trắng.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận – kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
đề tài gồm:
Chương 1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu và phương
pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu





4

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế
1.1.1. Các quan điểm truyền thống về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả hiểu theo nghĩa phổ thông, phổ biến trong cách nói của mọi người:
‘’Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại hiệu quả” [15].

Xét góc độ thuật ngữ chuyên môn, hiểu hiệu quả theo nghĩa kinh tế nó là “Mối
quan hệ giữa đầu vào các yếu tố khan hiếm với đầu ra hàng hoá và dịch vụ, có thể
được đo lường theo hiện vật gọi là hiệu quả kỹ thuật hoặc theo chi phí thì được gọi là
hiệu quả kinh tế. Khái niệm hiệu quả kinh tế được dùng như một tiêu chuẩn để xem
xét các tài nguyên được thị trường phân phối như thế nào” [7]
Ngày nay, người ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về hiệu quả. Ở mỗi
góc độ, lĩnh vực khác nhau thì hiệu quả cũng được xem xét nhìn nhận khác nhau và
thông thường khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì chúng ta xem xét vấn
đề hiệu quả trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng ta có 3 phạm trù:
hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế: Nếu xét trên phạm vi từng khía cạnh, từng yếu tố, từng ngành thì
chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế. Có thể hiểu hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết quả
thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Kết quả thu về đề cập trong khái niệm này
có thể là doanh thu, lợi nhuận, tổng sản phẩm công nghiệp… Hiệu quả kinh tế thể hiện
trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả chính trị, xã hội: Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế
quốc dân thì ta có hai phạm trù hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Hai phạm trù này
phản ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đối với việc giải quyết những
yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Và hai loại hiệu quả này có
vị trí quan trọng trong việc phát triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Hiệu
quả chính trị, xã hội phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ
tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân.
Phải luôn có sự cân đối giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị, xã hội. Đây
là một nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia một cách liên tục và
lâu dài. Bất kỳ một sự mất cân đối nào sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.


5

Mặc dù đã có sự thống nhất rằng phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh phản

ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn chưa có sự thống
nhất trong quan niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các nhà kinh tế và thống kê có
nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh do điều kiện lịch sử và
giác độ nghiên cứu là không giống nhau.
"Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu trong tiêu
thụ hàng hóa” [14]. Theo quan điểm này thì hiệu quả là tốc độ tăng của kết quả đạt
được như: Tốc độ tăng của doanh thu, của lợi nhuận. Như vậy hiệu quả được đồng
nhất với các chỉ tiêu kết quả hay với nhịp độ tăng của các chỉ tiêu ấy. Quan điểm này
thực sự không còn phù hợp với điều kiện ngày nay. Kết quả sản xuất có thể tăng lên do
tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất (đầu vào của quá trình sản xuất).
Nếu hai doanh nghiệp có cùng một kết quả sản xuất tuy có hai mức chi phí khác nhau,
theo quan điểm này thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của chúng là như nhau.
"Hiệu quả được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm mà xã hội hoặc thu
nhập quốc dân” [14]. Xét trên phạm vi của doanh nghiệp, theo quan điểm này thì hiệu
quả sản xuất kinh doanh và nhịp độ tăng giá trị tổng sản lượng là một. Nhìn trên một
góc độ nào đó thì quan điểm này cũng gần giống như quan điểm trên. Nó cũng không
đề cập tới chi phí bỏ ra để đạt được giá trị tổng sản lượng đó. Nếu tốc độ tăng của chi
phí sản xuất được các nguồn lực được huy động tăng nhanh hơn nhịp độ tăng giá trị
tổng sản lượng thì sao. Hơn nữa, việc chọn năm gốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả
so sánh. Với mỗi năm gốc khác nhau chúng ta lại
có mức hiệu quả khác nhau của cùng một năm nghiên cứu.
"Hiệu quả sản xuất diễn ra khi sản xuất không thể tăng sản lượng một loại hàng
hóa mà không cắt giảm sản xuất của một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu
quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó” [11]. Nhìn nhận quan điểm
này dưới giác độ doanh nghiệp thì tình hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi nằm
trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó. Giới hạn khả năng sản xuất của doanh
nghiệp được xác định bằng giá trị tổng sản lượng tiềm năng, là giá trị tổng sản lượng
cao nhất có thể đạt được ứng với tình hình công nghệ và nhân công nhất định. Theo
quan điểm này thì hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và mức "tối đa" về sản
lượng. Tỷ lệ so sánh càng gần 1 càng có hiệu quả. Mặt khác ta thấy quan điểm này

tuy đã đề cập đến các yếu tố đầu vào nhưng lại đề cập không đầy đủ.


6

"Hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm được
sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải là giá trị” [14]. Theo tác giả
của quan điểm này, mức độ thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ
thể chứ không phải giá trị trừu tượng nào đó. Tuy nhiên quan điểm này gặp phải trở
ngại là khó tính được tính hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra. Và nếu vậy thì
chúng ta không thể so sánh được tính hữu ích giữa các sản phẩm, do đó cũng không
đánh giá được tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
"Hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của đại
lượng kết quả và chi phí” [5]. Quan điểm này phản ánh hiệu quả chưa đầy đủ và trọn
vẹn. Nó chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm bằng cách so sánh giữa phần gia
tăng của kinh doanh sản xuất và phần gia tăng của chi phí sản xuất chứ chưa đề cập
toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Xét trên quan điểm triết học
Mác Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng đều có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau
chứ không tồn tại một cách riêng lẻ, độc lập. Sản xuất kinh doanh không nằm ngoài
quy luật này, các yếu tố "tăng thêm" giảm đi có liên hệ với các yếu tố sẵn có. Chúng
trực tiếp hoặc gián tiếp các động tới kết quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất
kinh doanh luôn là kết quả tổng hợp của toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Quan điểm này chỉ đề cập đến phần tăng thêm trong khái niệm hiệu
quả là chưa đầy đủ, thiếu chính xác.
"Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra
để đạt được kết qủa đó” [5]. Quan điểm này cho rằng, nói đến hiệu quả kinh tế tức là
nói đến phần còn lại của kết quả sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ chi phí. Nó được
đo bằng các chi phí và lời lãi. Và cũng nhiều tác giả cho rằng, hiệu quả kinh tế được
xem như là tỷ lệ giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra, hay ngược lại là chi phí trên
một đơn vị sản phẩm hay giá trị sản phẩm. Những chỉ tiêu hiệu quả này thường là giá

thành sản phẩm hay mức sinh lời của đồng vốn. Nó chỉ được tính toán khi kết thúc một
quá trình sản xuất kinh doanh.
"Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc một quá trình kinh tế) phản ánh
trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác
định” [13].
Như vậy ta nhận thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phản
ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn kết quả của quá


7

trình sản xuất kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận) thì phản ánh số lượng của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Vậy khi xem xét, đánh giá hoạt động của một doanh nghiệp thì
phải quan tâm cả kết quả cũng như hiệu quả của doanh nghiệp đó. Quan điểm này đã
đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện "động" của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể thực hiện
được trong sự vận động và biến đổi không ngừng của hoạt động sản xuất kinh doanh,
không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Theo Hoàng Hùng (2001): Các quan điểm truyền thống chưa thật toàn diện khi
xem xét hiệu quả kinh tế: Thứ nhất, nó coi quá trình sản xuất kinh doanh trong trạng thái
tĩnh, chỉ xem xét hiệu quả sau khi đã đầu tư. Trong khi đó hiệu quả là chỉ tiêu rất quan
trọng không những cho phép chúng ta biết được kết quả đầu tư mà còn giúp chúng ta
xem xét trước khi ra quyết định đầu tư tiếp và nên đầu tư bao nhiêu, đến mức độ nào. Trên
phương diện này, quan điểm truyền thống chưa đáp ứng đầy đủ được. Thứ hai, nó
không tính yếu tố thời gian khi tính toán thu và chi cho một hoạt động sản xuất
kinh doanh. Do đó, thu và chi trong tính toán hiệu quả kinh tế theo quan điểm này thường
chưa tính đủ và chính xác. Thứ ba, hiệu quả kinh tế theo quan điểm truyền thống chỉ bao
gồm hai phạm trù cơ bản là thu và chi. Hai phạm trù này chủ yếu liên quan đến yếu tố tài
chính đơn thuần như chi phí về vốn, lao động, thu về sản phẩm và giá cả. Trong khi đó,
các hoạt động đầu tư và phát triển lại có những tác động không chỉ đơn thuần về mặt kinh

tế mà còn cả các yếu tố khác nữa. Và có những phần thu lợi hoặc những khoản chi phí
lúc đầu không hoặc khó lượng hoá được nhưng nó là những con số không phải là
nhỏ thì lại không được phản ánh ở cách tính này [6].
1.1.2. Các quan điểm mới về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh sử
dụng các nguồn lực sẵn có của đơn vị cũng như của nền kinh tế để thực hiện mục tiêu
đặt ra. Nó không chỉ là thước đo chất lượng phản ánh thực trạng tổ chức quản lý kinh
doanh của một doanh nghiệp, mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có
liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều mặt của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp như: lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, nên doanh
nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất


8

kinh doanh. Gần đây các nhà kinh tế đã đưa ra các quan niệm mới về hiệu quả kinh tế,
nhằm khắc phục những điểm thiếu của các quan điểm truyền thống:
Hiệu quả là sự liên quan giữa nguồn lực đầu vào khan hiếm (như lao động, vốn,
máy móc…) với kết quả trung gian hay kết quả cuối cùng. Hiệu quả là một phạm trù
được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Hiểu theo
nghĩa rộng, hiệu quả thể hiện mối tương quan giữa các biến số đầu ra thu được
(outputs) so với các biến số đầu vào đã được sử dụng để tạo ra những kết quả đầu ra
đó (inputs)
Theo Hoàng Hùng (2001) [6]: quan điểm mới khi tính hiệu quả kinh tế phải căn
cứ vào tổ hợp các yếu tố:
Trạng thái động của mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra. Về mối quan hệ này,
cần phân biệt rõ ba phạm trù: Hiệu quả kỹ thuật (Technical efficiency); hiệu quả phân
bổ các nguồn lực (Allocative efficiency) và hiệu quả kinh tế (Economic efficiency).
Hiệu quả kỹ thuật là số sản phẩm (O) thu thêm trên một đơn vị đầu vào (I) đầu tư

thêm. Tỷ số D O/ D I được gọi là sản phẩm biên. Hiệu quả phân bổ nguồn lực là giá trị
sản phẩm thu thêm trên một đơn vị chi phí đầu tư thêm. Thực chất nó là hiệu quả kỹ
thuật có tính đến các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu vào. Nó đạt tối đa khi doanh thu
biên bằng chi phí biên. Hiệu quả kinh tế là phần thu thêm trên một đơn vị đầu tư thêm.
Nó chỉ đạt được khi hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả sử dụng nguồn lực là tối đa.
Yếu tố thời gian, các nhà kinh tế hiện nay đã coi thời gian là yếu tố trong tính
toán hiệu quả. Cùng đầu tư một lượng vốn như nhau và cùng có tổng doanh thu bằng
nhau nhưng hai dự án có thể có hiệu quả khác nhau
Hiệu quả tài chính, xã hội và môi trường: Theo quan điểm toàn diện, hiệu
quả kinh tế nên được đánh giá trên ba phương diện: Hiệu quả tài chính, xã hội
và hiệu quả môi trường. Hiệu quả tài chính mà trước đây ta quen gọi là hiệu quả
kinh tế thường được thể hiện bằng những chỉ tiêu như lợi nhuận, giá thành, tỷ lệ nội
hoàn vốn, thời gian hoàn vốn
Hiệu quả xã hội của một dự án phát triển bao gồm lợi ích xã hội mà dự án đem
lại như: Việc làm, mức tăng về GDP do tác động của dự án, sự công bằng xã hội, sự tự
lập của cộng đồng và sự được bảo vệ hoặc sự hoàn thiện hơn của môi trường sinh
thái Một số tác giả khác khi đánh giá hiệu quả kinh tế cho rằng cần phân biệt hai
khái niệm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối


9

tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra. Còn hiệu
quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa các lợi ích xã hội thu được và tổng chi phí
bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là
tiền đề của nhau và là phạm trù thống nhất. Việc phân biệt hiệu quả tài chính hay hiệu
quả xã hội là tuỳ theo phạm vi và mức độ của sự phân tích là của cá nhân hay cả xã hội
khi xem xét. Hiệu quả tài chính được phân tích trên quan điểm lợi ích cá nhân của
từng người đầu tư; chỉ tính toán những lời lãi thông thường trong phạm vi tài chính để
cho người đầu tư ra quyết định đầu tư. Hiệu quả xã hội thì được phân tích trên lợi ích

của toàn xã hội để xem xét sự phát triển chung của xã hội như mức tăng trưởng, sự
công bằng xã hội và sự phát triển cộng đồng và cả về vấn đề môi trường Vì vậy,
tuỳ theo phạm vi xem xét là của cá nhân hay toàn xã hội mà có hiệu quả tài chính hay
hiệu quả xã hội.
Hiện nay những dự án sản xuất ra sản phẩm hàng hoá, các nhà đầu tư
thường chú ý nhiều tới hiệu quả tài chính. Thế nhưng ở những dự án phát triển như
những dự án xoá đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn thì hiệu quả của
dự án chủ yếu tập trung vào hiệu quả xã hội. Chính vì vậy các dự án đầu tư hiện nay
hiệu quả đem lại chưa cao. Các dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn cần hướng
đồng thời vào ba mục tiêu sau: Một là đảm bảo lợi ích tài chính (tăng số lượng, chất
lượng và chủng loại sản phẩm, hiệu quả sử dụng nguồn lực ). Hai là đảm bảo mục
tiêu xã hội (tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các vùng, các cộng đồng, các tầng
lớp cư dân, giữ gìn bản sắc văn hoá, ). Ba là sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên, hạn chế suy thoái môi trường, Ba mục tiêu trên luôn luôn được tính toán một
cách kỹ lưỡng trong xây dựng và thực hiện các dự án phát triển nông thôn. Một dự án
phát triển được coi là đạt hiệu quả chỉ khi đồng thời cùng một lúc đáp ứng được cả
mục tiêu tài chính, xã hội và môi trường…
Coi việc đánh giá dự án thông qua việc so sánh giữa lợi ích và chi phí. Quan
điểm đánh giá hiệu quả gắn với việc xem xét quá trình phát triển và tăng trưởng cho
phép đưa ra một cách nhìn tổng quát hơn về hiệu quả kinh tế. Một mặt, quan điểm này
phù hợp với quan điểm truyền thống về đánh giá hiệu quả kinh tế ở chỗ nó cũng nhằm
so sánh chi phí bỏ ra và lợi ích thu được. Mặt khác, quan điểm này có cách nhìn nhận
rộng hơn về khái niệm chi phí và lợi ích.


10

Về chi phí, các quan niệm truyền thống chỉ chú ý chủ yếu vào các yếu tố tiền
bạc, vật chất, công sức bỏ ra cho một dự án đầu tư. Quan điểm mới cho rằng ngoài yếu
tố chi phí trên còn phải tính đến các chi phí phi vật chất và gián tiếp như các tác

động bất lợi của dự án đầu tư đến môi trường (ô nhiễm môi trường, thay đổi bất lợi
cho hệ sinh thái,vv ) và đến xã hội như khoảng cách giàu và nghèo, công bằng
trong phân phối
Về lợi ích, quan điểm mới tính đến ba phạm trù: Lợi ích tài chính, xã hội và lợi
ích về môi trường. Lợi ích tài chính bao gồm việc đạt được kết quả, năng suất cao cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Ở các dự án đầu tư nông nghiệp và
nông thôn thì lợi ích kinh tế chính là sự tăng lên của năng suất vật nuôi, cây trồng, sự
đa dạng hoá nền sản xuất nông nghiệp và chủng loại sản phẩm nông nghiệp dựa trên
lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái khác nhau. Lợi ích xã hội thể hiện ở khả năng
đảm bảo công bằng trong phân phối các nguồn lực và phúc lợi xã hội giữa các vùng,
giữa các cộng đồng dân cư trong cùng một vùng Đồng thời đảm bảo sự bền
vững của dự án thông qua các cơ chế tham gia của người hưởng lợi dự án vào các
quá trình đầu tư và sử dụng thành quả đầu tư, thực hiện được mục tiêu ổn định xã hội.
Lợi ích môi trường là khả năng bảo tồn và phát triển tài nguyên môi trường (đất, nước,
đa dạng sinh học ).
Quan niệm mới về hiệu quả đầu tư cho phép đánh giá toàn diện hơn các tác
động do dự án đầu tư mang lại, phù hợp với xu thế thời đại và chiến lược tăng trưởng
và phát triển bền vững của các quốc gia ngày nay.
1.2. Bản chất và tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế
1.2.1. Bản chất của hiệu quả kinh tế
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động
kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc,
tiền, nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Bản chất của
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự thực hiện yêu cầu của quy luật
tiết kiệm thời gian.
Các Mác đã cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng
đặc biệt. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quản lý đó. Con người tạo
ra của cải vật chất bằng sức lao động. Lao động được đo lường bằng thời gian. Với
một mục tiêu nhất định con người phải thực hiện trong một thời gian lao động ít nhất,
hay nói một cách khác thì trong một thời gian lao động nhất định kết quả đạt được

phải cao nhất.


11

Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết
quả tối đa với chi phí tối thiểu (thời gian hao phí lao động thấp nhất). Điều này có
nghĩa là với mức chi phí nhất định thì doanh nghiệp phải đạt kết quả tối đa hoặc ngược
lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động
sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết
quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý luận cũng như thực tiễn đã
tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh, khi đó đã coi kết quả là mục đích và coi hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh là mục tiêu. Từ quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp
luận giải quyết vấn đề, đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả
và rõ ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây
là quan niệm sai lầm và cần phải được thay đổi.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh
doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp
có thể là những đại lượng có thể cân, đo, đong đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi
loại, doanh thu, lợi nhuận… và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất
lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm…
Như thế, kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó trong
khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả
(đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản kinh doanh.
Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí
đều có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng
đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải khó khăn là giữa

“đầu vào” và “đầu ra” không có cùng một đơn vị đo lường, còn việc sử dụng đơn vị
giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường tiền tệ.
Vấn đề được đặt ra là hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu hay phương tiện
của kinh doanh? Trước tiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh việc thực hiện
mục tiêu của doanh nghiệp đạt được ở trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh
tế không chỉ dừng ở đó mà thông qua đó có thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho
phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể có các giải pháp nhằm đạt


12

mục tiêu của doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với chi phí về nhân tài, vật lực và tiền
vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu
cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để
nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
Như đã đề cập trên, bản chất hiệu quả hoạt động kinh doanh là hiệu quả của lao
động xã hội, được so sánh giữa chất lượng kết quả lợi ích thu được với lượng hao phí
lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả hoạt động kinh doanh là tối đa hóa kết quả
hoặc tối thiểu hóa chi phí trên nguồn vốn sẵn có. Hiệu quả kinh doanh chỉ có thể đạt
được trên cơ sở nâng cao năng suất lao động và chất lượng công tác. Để đạt hiệu quả
ngày càng cao và vững chắc, đòi hỏi các nhà kinh doanh không những nắm chắc các
tiềm năng tiềm ẩn về lao động, vốn, kỹ thuật… mà còn phải nắm vững tình hình cung
cầu hàng hóa trên thị trường, đối thủ cạnh tranh…hiểu được thế mạnh thế yếu
của doanh nghiệp để khai thác hết mọi tiềm năng hiện có, tận dụng được những
cơ hội vàng của thị trường, ngoài ra phải nghiên cứu và nhận thức một cách đầy đủ
bản chất và các quan điểm đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ việc đánh giá
đúng hiệu quả, cho phép doanh nghiệp phát hiện khả năng và tìm đúng biện pháp để
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Thứ nhất, cần phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa kết quả kinh tế với
hiệu quả kinh tế. Về hình thức, hiệu quả kinh tế luôn là một phạm trù so sánh thể hiện

mối tương quan giữa cái phải bỏ ra và cái thu về được. Kết quả kinh tế chỉ là yếu tố
cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả kinh tế. Tự bản thân mình, kết quả chưa
thể hiện được nó tạo ra ở mức nào và với chi phí bao nhiêu [12]
Thứ hai, phân biệt hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà
doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả xã hội phản
ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất định.
Các mục tiêu xã hội thường là: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
trong phạm vi toàn xã hội, phạm vi từng khu vực, nâng cao trình độ văn hóa, nâng cao
mức sống, đảm bảo vệ sinh môi trường… Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp còn thể
hiện ở đóng góp của doanh nghiệp vào việc đạt mục tiêu kinh tế xã hội của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân như đóng góp vào ngân sách, vào sự tăng trưởng kinh tế,


13

Hiệu quả kinh tế là tiền đề vật chất của hiệu quả xã hội. Nếu hiệu quả kinh tế
của doanh nghiệp giảm tức là doanh nghiệp mất đi khả năng cạnh tranh thiếu sức sống
và trở thành gánh nặng cho nhà nước. Vì thế doanh nghiệp không thể đạt được mục
tiêu xã hội.
Về mặt định lượng: biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được so với
chi phí bỏ ra, chênh lệch giữa kết quả thu về và chi phí đã bỏ ra càng lớn thì hiệu quả
kinh tế càng cao và ngược lại.
Về mặt định tính: mức độ hiệu quả kinh tế cao thu được phản ánh sự cố gắng,
nỗ lực, trình độ và năng lực quản lý ở các khâu, các cấp quản lý và sự gắn bó của việc
giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và mục tiêu chính trị
xã hội [12].
Khi xem xét bản chất hiệu quả kinh tế, không được phép đồng nhất giữa kết quả
và hiệu quả. Vì kết quả chỉ mới làm cơ sở để tính toán hiệu quả.
1.2.2. Tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế

Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là cơ sở để đánh giá mức độ hiệu quả của
các phương án khác nhau và chọn phương án có hiệu quả kinh tế cao. Trong thực tế,
nếu thiếu một tiêu chuẩn thống nhất sẽ không có căn cứ xác đáng để đưa ra những
quyết định hợp lý, nhất là trong điều kiện giải quyết một nhiệm vụ đòi hỏi thực hiện
tổng hợp các biện pháp, mà ảnh hưởng của chúng đến kết quả cuối cùng không đồng
nhất hoặc không đồng hướng như nhau.
Cần phải có một tiêu chuẩn chung để đánh giá hiệu quả kinh tế. Tiêu chuẩn
hiệu quả kinh tế phải thể hiện mối tương quan giữa thu và chi theo hướng cực đại cái
thu được và cực tiểu cái phải chi ra. Tiêu chuẩn ấy nhất thiết phải thể hiện được mục
đích của sản xuất trong điều kiện nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn cụ
thể. Mục đích của chủ nghĩa xã hội, suy đến cùng, là nâng cao mức sống vật chất, tinh
thần và sự phát triển toàn diện của mọi công dân trong xã hội. Để thực hiện mục
đích đó, phải sử dụng hợp lý tất cả chi phí và dự trữ sản xuất để tạo nên kết quả cao
nhất. Nghĩa là, phải tăng năng suất lao động xã hội.
Như vậy, theo nghĩa tổng quát có thể coi tăng năng suất lao động xã hội như
tiêu chuẩn chung của hiệu quả kinh tế dưới chủ nghĩa xã hội. Theo ý nghĩa trực tiếp,
tăng năng suất lao động xã hội là giảm hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra đơn
vị sản phẩm hoặc tăng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Theo ý


14

nghĩa rộng hơn, tăng năng suất lao động dưới chủ nghĩa xã hội còn là việc phát triển
sản xuất, mở mang ngành nghề, trên cơ sở đó thu hút thêm lao động vào việc tạo ra
của cải vật chất, tạo thêm việc làm cho người lao động. Tăng năng suất lao động xã
hội tạo ra điều kiện vật chất để tăng thu nhập quốc dân, tăng quỹ tích lũy và quỹ tiêu
dùng xã hội. Đó là những điều kiện không thể thiếu để cải thiện mức sống vật chất,
tinh thần và sự phát triển toàn diện của mọi công dân trong xã hội.
Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế phải đảm bảo tính toàn diện. Trước hết, đó là sự
gắn bó và ước định lẫn nhau giữa giá trị và giá trị sử dụng: một mặt, giảm chi phí lao

động xã hội sản xuất hàng hóa; mặt khác, bảo đảm chất lượng sản phẩm và không
ngừng mở rộng mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Thứ
hai, tính toàn diện của tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế đòi hỏi cùng lúc vừa phải giải quyết
những vấn đề kinh tế-kinh doanh, vừa giải quyết những vấn đề xã hội của đất
nước. Thứ ba, tính toàn diện của tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế yêu cầu phải xem xét
mỗi giải pháp, mỗi phương án một cách toàn diện về không gian và thời gian, làm
sao để hiệu quả của từng phần tử, từng phân hệ có tác động tích cực đến việc nâng cao
hiệu quả của toàn bộ hệ thống, nâng cao hiệu quả hiện tại và lâu dài của cả nền kinh tế
quốc dân.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đối với mọi tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, việc tạo ra và không
ngừng làm tăng lợi nhuận là hết sức cần thiết. Nhưng không được đơn giản coi lợi
nhuận như là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá hiệu quả kinh tế. Điều quan trọng là phải
xem xét lợi nhuận đạt được bằng cách nào và được phân phối sử dụng như thế nào.
Mọi tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân,
sự vận động của nó phải nằm trong quỹ đạo chung và góp phần thực hiện mục tiêu
chung của cả hệ thống. Do đó, lợi nhuận mà mọi tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh thu được phải thể hiện sự gắn bó của họ đối với sự vận động của thị trường, vừa
phải thể hiện sự tuân thủ pháp luật Nhà nước, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, lợi nhuận cũng phải được phân
phối theo hướng kết hợp hài hòa các loại lợi ích khác nhau: lợi ích cá nhân người lao
động, lợi ích người chủ sở hữu, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội [12].


15

1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế (HQKT) của các tiến bộ kỹ thuật, các phương án sản xuất hoặc
các mô hình kinh tế (gọi tắt là các mô hình) … được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu.
Các chỉ tiêu này chịu tác động của những nhân tố khác nhau và vớ những cường

lực không giống nhau. Thậm chí cùng một loại nhân tố nhưng thời kỳ này tác động
mạnh, thời kỳ khác lại có thể yếu hơn. Mặt khác, có loại chỉ tiêu trị sốcàng lớn càng
tốt (được gọi là chỉ tiêu thuận), lại có chỉ tiêu trị số càng nhỏ càng tố (được gọi là
chỉ tiêu nghịch). Trong đánh giá HQKT không thể sử dụng một chỉ tiêu mà phải sử
dụng một hệ thống chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này lại không trực tiếp cộng lại được với
nhau và mỗi chỉ tiêu biểu hiện HQKT ở một khía cạnh riêng biệt, do đó cũng không
thể sử dụng một chỉ tiêu làm đại diện để so sánh.
Xác định kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm he chân trắng là xác định những chi
phí bỏ ra cho các yếu tố đầu vào, như: Chi phí cố định: Chi phí khấu hao của giá trị
đầu tư xây dựng trại, chi phí sửa chữa lớn, chi phí trả lãi vay và thuế. Các khoản chi
phí biến đổi, gồm: Chi phí mua con giống; chi phí thức ăn, chi phí thuốc phòng trừ
dịch bệnh, vi sinh, vi lượng; chi phí năng lượng; chi phí tiền lương công nhân; chi phí
sửa chữa nhỏ; các khoản chi phí giao dịch khác. Và đồng thời xác định doanh thu từ
nghề nuôi tôm he chân trắng. Cuối cùng là việc xác định lợi nhuận, lợi nhuận được
tính bằng Tổng doanh thu trừ (-) tổng chi phí, và sử dụng chỉ tiêu này để xác định tỷ
suất sinh lợi của nghề nuôi tôm he chân trắng mang lại cao hay thấp [14].
1.3.1. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế
Với mục tiêu nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào xác định hiệu quả
kinh tế của hoạt động nuôi tôm he chân trắng tại tỉnh Khánh Hòa, nên tác giả chủ yếu
tập trung xây dựng các chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh tế. Từ cơ sở trên các chỉ tiêu
được sử dụng để đánh giá kết quả kinh tế nghề nuôi tôm he chân trắng tại tỉnh Khánh
Hòa được trình bày trong luận văn này bao gồm:
- Doanh thu
- Chi phí
- Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận


16

1.3.1.1. Doanh thu

Doanh thu = Sản lượng x Giá bán
Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế hộ nông dân thu được trong kỳ kế
toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của hộ nông dân,
góp phần làm phát triển vốn chủ sở hữu ”.
Doanh thu từ hoạt động nuôi tôm he chân trắng thương phẩm là tổng giá trị các
lợi ích kinh tế mà các hộ nuôi thu được từ việc nuôi tôm he chân trắng và tiêu thụ nó.
Doanh thu của các cơ sở nuôi được thay đổi theo sản lượng tôm thương phẩm mà các
cơ sở nuôi đạt được. Sản lượng tôm thương phẩm càng lớn thì mức doanh thu càng cao
(giả sử cố định giá). Tuy nhiên, sản lượng tôm thương phẩm phải đạt được mức độ
đồng đều và cỡ (size) phải đạt chuẩn thì mức doanh thu mới càng cao, và phải đảm
bảo khi thu hoạch để bán trọng lượng trên mỗi con tôm thương phẩm [13].
1.3.1.2. Chi phí
Chi phí của hộ nông dân là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống, hao
phí lao động vật hoá và chi phí cần thiết khác mà hộ nông dân đã bỏ ra để tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định”. Như vậy chi phí gồm rất
nhiều hoạt động chi tiêu khác nhau, chi mua nguyên vật liệu, thuê lao động Các
khoản chi phí có thể phân thành 2 loại: Chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Chi phí cố định là các khoản chi phí không thay đổi tùy thuộc vào quy mô sản
xuất hoặc mức doanh số như tiền thuê nhà, thuế tài sản, tiền bảo hiểm hoặc chi trả lãi
vay.
Chi phí bất biến không thay đổi cùng với thay đổi của khối lượng hoạt động.
Xét cho 1 sản phẩm (đơn vị sản phẩm) chi phí bất biến có quan hệ tỉ lệ nghịch với khối
lượng hoạt động. Chi phí bất biến của các cơ sở nuôi cá chẽm thương phẩm chủ
yếu bao gồm: Chi phí khấu hao TSCĐ, Chi phí sửa chữa lớn, chi phí tiền lương, chi
phí trả lãi vay và thuế.
Chi phí khấu hao: Là khoản chi phí bù đắp sự giảm dần giá trị của tài sản cố
định do quá trình sử dụng, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ của kỹ thuật…Chí phí
khấu hao là giá trị phân bổ của nguyên giá tài sản cố định qua thời gian sử dụng. Khấu
hao TSCĐ đối với nghề nuôi tôm he chân trắng thương phẩm bao gồm khấu hao của
tất các máy móc, cống hộc cấp thoát nước, nhà xưởng phục vụ cho việc nuôi tôm he

chân trắng. Để khấu hao chính xác cần xác định giá trị (theo nguyên giá - giá lúc mua,

×