Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

giải pháp marketing với việc khắc phục tính mùa vụ của hoạt động du lịch biển cửa lò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 97 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG





LÊ VĂN BIỂN




GIẢI PHÁP MARKETING VỚI VIỆC KHẮC PHỤC
TÍNH MÙA VỤ CỦA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
BIỂN CỬA LÒ



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH








NHA TRANG, 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG





LÊ VĂN BIỂN




GIẢI PHÁP MARKETING VỚI VIỆC KHẮC PHỤC
TÍNH MÙA VỤ CỦA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
BIỂN CỬA LÒ


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60 34 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH


Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS VŨ TRÍ DŨNG







NHA TRANG, 2013
i


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đề tài “Giải pháp marketing với việc khắc phục
tính mùa vụ du lịch đến hoạt động du lịch biển Cửa Lò” là công trình nghiên
cứu của bản thân tôi và chưa được công bố trên bất kỳ phương tiện thông tin nào. Mọi
sự giúp đỡ để hoàn thành đề tài nghiên cứu này đã được cảm ơn đầy đủ, các thông tin
trích dẫn trong nghiên cứu này đều đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả đề tài

Lê Văn Biển



ii


LỜI CẢM ƠN

Với tất cả sự chân thành, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến PGS.TS. Vũ Trí Dũng
người thầy hướng dẫn khoa học đã dành thời gian và tâm huyết hướng dẫn tôi một
cách nhiệt tình giúp tôi hoàn thành luận văn này một cách tốt nhất.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tôi đã tham khảo, học tập kinh nghiệm từ
các kết quả nghiên cứu liên quan, các báo cáo, tạp chí chuyên ngành của nhiều tác giả
trường Đại học, các tổ chức nghiên cứu…
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Kinh tế, Khoa đào tạo sau đại

học Trường Đại học Nha Trang, cùng toàn thể các thầy cô giáo đã tận tình truyền đạt
những kiến thức quý báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt
là sự hợp tác của các khách du lịch, đồng thời là sự giúp đỡ, tạo điều kiện về vật chất
và tinh thần của Ban giám hiệu trường Cao đẳng nghề Du lịch – Thương mại Nghệ
An, sự giúp đỡ và động viên từ phía gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp nơi tôi đang
công tác.
Tuy đã có nhiều cố gắng và nghiêm túc trong quá trình nghiên cứu, nhưng chắc
chắn luận văn còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Tôi kính mong Quý thầy cô, các chuyên
gia, bạn bè đồng nghiệp và tất cả những ai quan tâm đến đề tài tiếp tục góp ý, giúp đỡ
để luận văn ngày càng được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, xin trân trọng cảm ơn !
Tác giả đề tài

Lê Văn Biển

iii


MỤC LỤC
Trang

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ vi

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH MÙA VỤ DU LỊCH 4
1.1. Khái niệm 4

1.2. Bản chất và đặc điểm của tính mùa vụ du lịch 4
1.2.1. Bản chất 4
1.2.2. Các đặc điểm của tính mùa vụ du lịch 5
1.3. Các nhân tố gây nên tính mùa vụ du lịch 6
1.3.1. Điều kiện khí hậu 7
1.3.2. Thời gian rỗi 7
1.3.3. Phong tục tập quán 8
1.3.4. Các nhân tố khác 9
1.4. Những ảnh hưởng bất lợi của tính mùa vụ đến hoạt động du lịch 11
1.4.1 Ảnh hưởng đến việc khai thác tài nguyên và môi trường du lịch 12
1.4.2. Ảnh hưởng đến công tác tổ chức quản lý và hiệu quả kinh doanh 13
1.4.3. Ảnh hưởng đến việc sử dụng nguồn nhân lực 14
1.4.4. Ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của du khách 15
1.4.5. Những ảnh hưởng khác 16
1.5. Một số kinh nghiệm hạn chế ảnh hưởng bất lợi của tính mùa vụ lên hoạt động du
lịch. 16
1.6. Một số chính sách marketing du lịch. 19
1.6.1. Chính sách sản phẩm. 19
1.6.2. Chính sách giá trong kinh doanh du lịch 22
1.6.3. Chính sách phân phối trong kinh doanh du lịch 24
1.6.4. Chính sách xúc tiến hỗn hợp 28
Tiểu kết chương 1 29
iv

Chương 2: DU LỊCH BIỂN CỬA LÒ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TÍNH MÙA VỤ
ĐẾN HOẠT ĐỘNG DU LỊCH BIỂN CỬA LÒ 30
2.1. Giới thiệu khái quát về Cửa Lò 30
2.2. Khái quát tài nguyên du lịch biển của Cửa Lò 31
2.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên 31
2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 34

2.3. Biểu hiện của tính mùa vụ trong hoạt động du lịch tại khu du lịch biển Cửa Lò 36
2.4. Ảnh hưởng của tính mùa vụ trong hoạt động du lịch 38
2.4.1. Ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 38
2.4.2. Ảnh hưởng đến việc khai thác tài nguyên và môi trường du lịch biển Cửa
Lò 43
2.4.3. Ảnh hưởng đến nguồn nhân lực du lịch Cửa Lò 44
2.4.4. Ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của khách du lịch đến Cửa Lò 47
2.4.5. Ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác 48
2.5. Nguyên nhân của tính mùa vụ du lịch biển Cửa Lò 50
2.6. Thực trạng của hoạt động làm giảm tính thời vụ du lịch biển Cửa Lò 55
2.6.1. Phía doanh nghiệp 55
2.6.2. Về phía chính quyền 58
Tiểu kết chương 2 61
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MARKETING NHẰM GIẢM THIỂU TÁC
ĐỘNG BẤT LỢI CỦA TÍNH MÙA VỤ DU LỊCH ĐẾN HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
BIỂN CỬA LÒ 62
3.1. Mục tiêu phát triển du lịch 62
3.1.1. Mục tiêu chung phát triển du lịch của tỉnh Nghệ An 62
3.1.2. Mục tiêu phát triển du lịch Cửa Lò 62
3.2. Định hướng phát triển du lịch biển Cửa Lò 64
3.3. Các giải pháp nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của tính mùa vụ du lịch 64
3.3.1. Các giải pháp điều tiết cầu 65
3.3.2. Các giải pháp điều tiết về cung 73
3.4. Khuyến nghị 84
3.4.1. Đối với các cấp quản lý 84
3.4.2. Đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch 85
3.4.3. Đối với cộng đồng địa phương 86
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
v



DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 2.1. Sự biến động số lượng du khách theo các tháng trong các năm từ 2007 -
2011 37
Bảng 2.2. Lượng khách đến Cửa Lò theo các thời điểm trong năm 2010 và năm 2011 38
Bảng 2.3. Doanh thu hàng tháng từ kinh doanh du lịch năm 2010 và 2011 39
Bảng 2.4. Tình trạng kinh doanh của các cơ sở lưu trú ở Cửa Lò năm 2011 41
Bảng 2.5. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến mùa vụ du lịch biển 52
Bảng 3.1. Dự trù kinh phí dành cho hoạt động MKT đến năm 2015 73
vi


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ, HÌNH

Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ tương quan giữa cung – cầu về dịch vụ lưu trú hàng tháng năm 2011 40
Biểu đồ 2.2. Nhân lực du lịch - dịch vụ trong cơ cấu lao động năm 2009 45
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu trình độ lao động theo từng lĩnh vực trong ngành du lịch 45
Biểu đồ 2.4. Biến đổi cơ cấu lao động trong và ngoài mùa du lịch 46
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ số lượng khách đến Cửa Lò hàng tháng từ 2009- 2011 51
Biểu đồ 2.6. Tỷ lệ số lượng khách đến Vũng Tàu hàng tháng từ 2010- 2011 51

Sơ đồ 3.1. Quy trình thực hiện các nội dung tuyên truyền quảng bá du lịch 72
Sơ đồ 3.2. Quy trình nội dung cơ bản nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 80

Hình 2.1. Một góc phía Đông Bắc trung tâm du lịch Cửa Lò 32
Hình 2.2. Hình ảnh khách du lịch tại bãi biển Cửa Lò vào mùa vụ 43








1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cửa Lò là một vùng đất có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời và thật
may mắn Cửa Lò được thiên nhiên ban tặng bãi tắm và danh thắng đẹp đến ngỡ
ngàng. Từ xứ biển nghèo, mang dáng dấp của một làng chài, Cửa Lò rũ cát đứng lên
thành một đô thị du lịch trẻ trung tràn đầy sức sống như hôm nay. Cửa Lò đang lớn lên
và ngày càng duyên dáng, hấp dẫn, không những là nơi hội tụ hồn thơ, điệu nhạc mà
còn là điểm hẹn lý tưởng của du khách gần xa, của các nhà đầu tư trong nước và ngoài
nước. Chính những lý do này đã chắp cánh cho Cửa Lò ngày càng phát triển.
Thị xã Cửa Lò cách thành phố Vinh 16km về phía Đông, thủ đô Hà Nội gần
300km về phía Bắc và thành phố Hồ Chí Minh 1.400km về phía Nam. Sở hữu một bờ
biển dài trên 10km và các điểm du lịch sinh thái, du lịch tâm linh, Cửa Lò đang trở
thành điểm đến của những du khách trong và ngoài nước. Vào mùa vụ du lịch, từ
tháng 4 đến tháng 8 hàng năm, Cửa Lò đã đón hàng triệu lượt khách đến tham quan,
nghỉ ngơi, tắm biển,…
Tuy nhiên, hoạt động du lịch tại bãi biển Cửa Lò chỉ diễn ra ồ ạt, sôi động vào
mùa vụ nên đã gây ra một số tác động bất lợi đến nhiều lĩnh vực như kinh tế - xã hội,
cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tài nguyên du lịch, khách du lịch. Chẳng hạn, vào mùa
vụ du lịch từ tháng 4 đến tháng 8, lượng du khách tập trung tại bãi biển vượt quá sức
chứa, công suất sử dụng buồng, phòng khách sạn đạt 100%, thậm chí vào những ngày
cuối tuần, du khách rất khó để tìm được chỗ nghỉ ngơi ưng ý. Thế nhưng, ngoài thời
gian này, bãi biển Cửa Lò lại hết sức vắng vẻ, các khách sạn, nhà hàng đóng cửa

thường xuyên. Nhìn chung, tính mùa vụ trong du lịch tại bãi biển Cửa Lò có tác động
đến tiến trình hoạt động của ngành du lịch thị xã trong thời gian một năm.
Hoạt động kinh doanh du lịch biển Cửa Lò bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tính mùa
vụ du lịch. Điều này đang làm đau đầu các nhà quản lý, hoạch định chính sách và các
doanh nghiệp trên địa bàn. Tuy nhiên, cho tới thời điểm này, các nghiên cứu về tính
mùa vụ của hoạt động du lịch biển Cửa Lò chỉ dừng lại ở một số bài viết trên các tạp
chí hoặc những cố gắng riêng lẻ của các doanh nghiệp mà chưa có một nghiên cứu
chuyên sâu nào để đưa ra những luận cứ khoa học về bản chất, nguyên nhân hình
thành, hướng tác động cũng như các giải pháp nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của
tính mùa vụ du lịch. Việc xác định được những yếu tố chính của hiện tượng này sẽ làm
2

cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực của tính mùa vụ
đến hoạt động kinh doanh du lịch tại bãi biển Cửa Lò. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
tính mùa vụ du lịch không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn đối với
hoạt động phát triển du lịch tại bãi biển Cửa Lò. Với lý do như vậy, tác giả đã quyết
định lựa chọn đề tài: “Giải pháp marketing với việc khắc phục tính mùa vụ của hoạt
động du lịch biển Cửa Lò”. Và trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu sự ảnh hưởng bất lợi của tính mùa vụ lên hoạt động du lịch để tìm ra các
giải pháp nhằm giảm thiểu tác động bất lợi đó.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng bất lợi của tính mùa vụ du lịch đến hoạt động du lịch
biển tại bãi biển Cửa Lò.
- Đề xuất những giải pháp marketing nhằm giảm thiểu sự tác động bất lợi của
tính mùa vụ du lịch đến hoạt động kinh doanh du lịch tại bãi biển Cửa Lò.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục tiêu đề ra, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tổng quan lý luận về tính mùa vụ du lịch.
- Thu thập phân tích các số liệu về hoạt động kinh doanh du lịch tại bãi biển

Cửa Lò, mức độ ảnh hưởng bất lợi của tính mùa vụ du lịch đến hoạt động kinh doanh
du lịch tại địa phương.
- Nghiên cứu đề xuất một số biện pháp hạn chế ảnh hưởng bất lợi của tính mùa
vụ du lịch trong hoạt động kinh doanh du lịch tại bãi biển Cửa Lò trong điều kiện Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tính mùa vụ du lịch và ảnh hưởng bất lợi của
tính mùa vụ đến hoạt động kinh doanh du lịch tại bãi biển Cửa Lò.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trong phạm vi này, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
ảnh hưởng bất lợi của tính mùa vụ du lịch để đưa ra các giải pháp marketing nhằm
giảm thiểu các tác động bất lợi đó đến hoạt động du lịch biển chủ yếu trong phạm vi
thị xã Cửa Lò Nghệ An.
3

- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu tiến hành trong thời gian 5 năm từ năm 2007
đến năm 2011. Các nghiên cứu được tiến hành nghiêm túc, đảm bảo tính cập nhật và
khách quan của số liệu và tư liệu thu thập.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong quá trình thực hiện
luận văn bao gồm:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và nghiên cứu hệ thống: Đây là phương
pháp cơ bản được sử dụng phổ biến trong hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học.
Phương pháp này được sử dụng có hiệu quả trong nghiên cứu những đối tượng có mối
quan hệ đa chiều và biến động trong không gian và thời gian.
- Phương pháp tiếp cận thống kê: Đây là phương pháp không thể thiếu trong
quá trình nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt chất của các hiện
tượng và quá trình, đối chiếu biến động, phát triển trong hoạt động du lịch.
- Phương pháp điều tra thực địa: Phương pháp này được thực hiện nhằm điều

tra bổ sung hoặc kiểm tra chỉnh lại những thông tin quan trọng cần thiết cho quá trình
phân tích xử lý thực hiện đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Ngoài các phương pháp trên, phương pháp chuyên
gia có vai trò quan trọng trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
5. Bố cục của luận văn
Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết
luận, nội dung luận văn được cấu trúc thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tính mùa vụ du lịch
Chương 2: Du lịch biển Cửa Lò và tác động của tính mùa vụ đến hoạt động du
lịch biển Cửa Lò
Chương 3: Một số giải pháp marketing nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của
tính mùa vụ du lịch đến hoạt động du lịch biển Cửa Lò
4

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH MÙA VỤ DU LỊCH

1.1. Khái niệm
Hiện tượng có hoạt động du lịch lặp đi lặp lại khá đều đặn vào một số thời điểm
trong năm được gọi là mùa hay thời vụ du lịch. Theo nghĩa này thì mùa vụ du lịch
đồng nhất với thời vụ du lịch. Trong phạm vi luận văn, tác giả xin sử dụng chữ mùa vụ
du lịch theo nghĩa là thời vụ du lịch.
Tính mùa vụ du lịch cản trở tiến trình bình thường của hoạt động du lịch trong
năm và gây ra hàng loạt những ảnh hưởng tiêu cực về kinh tế, xã hội, tổ chức và kỹ
thuật. Vấn đề tính mùa vụ du lịch thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
khoa học, các cơ quan và tổ chức kinh tế, các tổ chức quốc gia và quốc tế.
Tính mùa vụ du lịch tại một đơn vị lãnh thổ nào đó là tập hợp các biến động có
tính chu kỳ theo thời gian trong năm của cung và cầu du lịch.
Tính mùa vụ trong hoạt động du lịch được xác định bởi số thời gian thích hợp
nhất trong năm của các điều kiện khí hậu và thời tiết đối với sức khỏe của du khách và

số thời gian trong năm thuận lợi nhất cho việc triển khai các hoạt động du lịch. Tính
mùa vụ của tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến hướng khai thác đầu tư quy
hoạch kinh doanh du lịch được đánh giá cho tài nguyên tự nhiên và nhân văn.
Một điểm du lịch có thể có một hoặc nhiều mùa vụ du lịch tuỳ thuộc vào khả
năng đa dạng hoá các loại hình du lịch ở đó :
Mùa du lịch chính : Là khoảng thời gian có cường độ tiếp nhận khách du lịch
lớn nhất, trong giai đoạn này số lượng khách khá ổn định.
Thời kỳ đầu mùa và cuối mùa chính : là thời kỳ có cường độ du lịch nhỏ hơn
ngay trước mùa chính (đầu mùa) và ngay sau mùa chính (cuối mùa)
Ngoài mùa hay ngoài mùa du lịch chính: là khoảng thời gian có cường độ thu
hút khách du lịch thấp nhất.
1.2. Bản chất và đặc điểm của tính mùa vụ du lịch
1.2.1. Bản chất
Tính mùa vụ du lịch ở một khu vực là sự dao động có tính chu kỳ trong năm
của mối quan hệ cung và cầu du lịch xẩy ra dưới tác động của cùng một nhóm các yếu
tố tác động.
5

Trên thực tế, tính mùa vụ du lịch của mỗi trung tâm du lịch nhất định và ở mỗi
quốc gia là tập hợp các dao động theo mùa giữa cung và cầu trong quá trình tổ chức
các loại hình du lịch. Sự khác biệt của thời gian tác động và các chỉ số về sự xuất hiện
của mỗi loại là nguyên nhân dẫn đến sự dao động trong toàn bộ các hoạt động du lịch.
Sự phát triển của tính mùa vụ du lịch trong các thập kỷ cuối thế kỷ XX cho thấy
rằng, độ dài của mùa du lịch có sự thay đổi. Ban đầu, đối với giới quý tộc châu Âu thì
mùa đông kéo dài chính là mùa giải trí và mùa hè ngắn hơn là mùa chữa bệnh. Với sự
xã hội hoá du lịch, phát triển thêm sự nghỉ ngơi của mùa hè ở vùng núi. Sau năm 1910,
khi hình thành khu nghỉ biển ở Địa Trung Hải thì việc đi nghỉ biển mùa hè ở Địa
Trung Hải trở thành mốt thời thượng ở châu Âu. Sau đó bắt đầu sự phát triển của các
môn thể thao mùa đông, cùng với mùa hè đã bắt đầu du lịch mùa ®ông nhưng chủ yếu
ở các khu vực núi.

Sự phát triển bùng nổ của du lịch sau đại chiến thế giới lần thứ 2, sự gia tăng
bột phát số lượng khách du lịch của tầng lớp trung lưu và dân chúng đã thúc đẩy sự ra
đời hàng loạt khu nghỉ biển ở Nam Âu. Các loại hình du lịch mới được hình thành và
được thực hiện chủ yếu trong mùa thu và mùa xuân, đó là các loại hình du lịch như du
lịch hội nghị, hội thảo, du lịch tham quan, khảo sát,…
1.2.2. Các đặc điểm của tính mùa vụ du lịch
Tính mùa vụ du lịch là một tồn tại khách quan, nó xuất hiện khắp mọi nơi trên
thế giới và có những đặc điểm chính:
- Tính mùa vụ du lịch xuất hiện ở tất cả các quốc gia và các vùng.
- Đặc trưng của tính mùa vụ du lịch (cường độ, độ dài, tần số) chịu ảnh hưởng
của các yếu tố tự nhiên (địa hình, khí hậu, sinh vật…) và kinh tế - xã hội (thói quen,
thời gian rỗi, phong tục tập quán, tín ngưỡng, thu nhập,…).
- Cường độ của mùa du lịch được hiểu là độ tập trung khách trong một khoảng
thời gian ở mùa du lịch. Độ tập trung khách trong mùa du lịch càng lớn thì cường độ
mùa du lịch càng mạnh và ngược lại, độ tập trung khách càng nhỏ thì thì cường độ
mùa du lịch càng yếu.
- Độ dài của mùa du lịch là khoảng thời gian mà ở đó số lượng khách đến còn
đủ để duy trì công suất sử dụng buồng phòng trên mức tối thiểu đối với khu du lịch.
- Tần số của mùa du lịch là số lần xuất hiện của mùa du lịch ở một lãnh thổ nào
đó trong một năm. Số lần xuất hiện mùa du lịch ở một lãnh thổ trong một năm càng
6

nhiều thì tần số của mùa du lịch càng lớn. Thông thường thì trong một năm, ở một
lãnh thổ chỉ có một đến hai mùa du lịch.
- Cường độ và độ dài của các mùa du lịch trong một năm của một lãnh thổ
thường không trùng nhau. Mùa du lịch có cường độ và độ dài lớn nhất được coi là mùa
chính, mùa du lịch có cường độ và độ dài nhỏ hơn được coi là mùa phụ. Do có sự tập
trung cao về khách và hoạt động kinh doanh nên thời gian mùa du lịch còn gọi là mùa
cao điểm và ngược lại, thời gian ngoài mùa du lịch được gọi là mùa thấp điểm.
- Ở các nước du lịch phát triển thông thường mùa du lịch dài hơn và cường độ

mùa du lịch chính yếu hơn. Ở các nước mới phát triển mùa du lịch ngắn hơn nhưng
diễn ra với cường độ mạnh hơn.
- Cường độ và độ dài của mùa du lịch là không tương đồng cho các loại hình du
lịch. Du lịch chữa bệnh có thời gian kéo dài hơn nhưng cường độ yếu hơn trong mùa
du lịch chính. Du lịch nghỉ dưỡng được đặc trưng bởi cường độ cao hơn và thời gian
ngắn hơn.
- Cường độ và thời gian của mùa du lịch phụ thuộc vào cấu trúc của khách du
lịch lưu trú trong các vùng riêng biệt. Trung tâm du lịch thanh niên có mùa du lịch
ngắn và sôi động hơn với các trung tâm du lịch phục vụ khách du lịch lứa tuổi trung
niên.
- Cường độ và thời gian của mùa du lịch phụ thuộc vào cơ sở lưu trú; ở vùng có
nhiều cơ sở lưu trú chính như khách sạn, motel thì mùa du lịch kéo dài còn ở những
vùng có các camping, nhà riêng cho thuê thì cường độ ngắn hơn.
Việc nghiên cứu về tính mùa vụ du lịch cho thấy rằng: cường độ, độ dài và tần
số của mùa du lịch ở một lãnh thổ nào đó có sự thay đổi theo thời gian. Sự khác biệt về
cường độ, độ dài và tần số của mùa du lịch sẽ dẫn đến sự khác biệt về mức độ ảnh
hưởng của mùa vụ du lịch đối với hoạt động du lịch.
1.3. Các nhân tố gây nên tính mùa vụ du lịch
Mùa vụ du lịch hình thành do nhiều nguyên nhân rất đa dạng với cơ chế tác
động phức tạp: Có nguyên nhân tự nhiên, có nguyên nhân kinh tế - xã hội, tổ chức kỹ
thuật, có nguyên nhân mang tính cá nhân. Một số nguyên nhân tác động chủ yếu lên
cầu du lịch, số khác tác động chủ yếu vào cung, có những nguyên nhân tác động lên cả
cung và cầu du lịch. Có thể phân các yếu tố hình thành nên tính mùa vụ du lịch như
sau:
7

1.3.1. Điều kiện khí hậu
Thay đổi khí hậu theo mùa làm hoạt động du lịch trong năm thay đổi, nhiều khi
làm cản trở đến hoạt động du lịch. Khí hậu là nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong việc
hình thành tính mùa vụ du lịch. Nó tác động lên cả cung và cầu du lịch. Ảnh hưởng

của nhân tố khí hậu thể hiện rõ nét ở các loại hình du lịch nghỉ biển, nghỉ núi và mức
độ nhất định trong du lịch chữa bệnh. Thường vùng biển thu hút khách du lịch đến
mùa hè nhiều hơn mùa đông. Ngược lại, vùng núi cao có điều kiện phát triển du lịch
mùa đông tốt hơn.
Đối với loại hình du lịch biển, các yếu tố của tài nguyên du lịch như khí hậu
(cường độ ánh sáng, số ngày mưa, lực và hướng gió), địa hình (độ sâu nước biển, độ
lớn của bãi tắm,…) quyết định điều kiện thuận lợi cho việc tắm biển và phơi nắng.
Mặc dù, tiêu chuẩn đánh giá mức độ thuận lợi đối với khách của loại hình du lịch biển
của các nước khác nhau (ví dụ, đối với khách du lịch các nước Bắc Âu thì nhiệt độ
nước biển lý tưởng chỉ khoảng từ 15 - 20
0
C, trong khi đối với khách du lịch thuộc các
nước có khí hậu nhiệt đới thì nhiệt độ phù hợp phải trên 20
0
C). Điều này cho thấy, giới
hạn của mùa du lịch được xác định bởi yếu tố khí hậu có thể mở rộng hay hạn chế phụ
thuộc vào sở thích, nhu cầu của khách du lịch với những tiêu chuẩn và mục đích sử
dụng tài nguyên du lịch khác nhau.
1.3.2. Thời gian rỗi
Thời gian nhàn rỗi là nhân tố ảnh hưởng đến sự phân bố không đồng đều của
nhu cầu du lịch, con người chỉ có thể đi du lịch vào thời gian nhàn rỗi. Tác động của
thời gian nhàn rỗi lên tính thời vụ trong du lịch phải nói đến 2 đối tượng chính trong
xã hội
- Thời gian nghỉ phép năm được trả tiền sẽ tác động đến độ dài và thời gian sử
dụng.
- Các kỳ nghỉ của học sinh bao gồm cả nghỉ hè và nghỉ đông sẽ tác động đến
thời gian rỗi của học sinh và quyết định việc đi du lịch của bản thân và gia đình. Các
kỳ nghỉ hè giữ vai trò quyết định đối với sự lựa chọn thời gian đi nghỉ của những bậc
phụ huynh có con ở lứa tuổi từ 6 - 15. Tuy nhiên, sự tác động ở đây cũng cần nhìn
nhận theo 2 khía cạnh: độ dài của kỳ nghỉ và mối quan hệ với sự phân bố trong năm.

Độ dài của kỳ nghỉ của học sinh phụ thuộc trước hết vào quãng thời gian không
thích hợp cho việc học hành và cũng rất khác biệt ở các nước khác nhau. Ví dụ, ở
8

CHLB Đức là 64 ngày, Anh và Hà Lan 75 ngày, Hungari, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha
là 120 ngày, Nam Tư là 140 - 150 ngày, Italia là 152 ngày,…
Về nguyên tắc các kỳ nghỉ của học sinh ở châu Âu không chỉ trong các tháng
mùa hè mà còn cả mùa thu đông. Ví dụ, ở Thuỵ Sĩ trong 87 ngày nghỉ của học sinh có
41 ngày nghỉ hè, 13 ngày nhân dịp năm mới, nghỉ mùa thu 19 ngày và mùa xuân là 14
ngày. Trên thực tế, học sinh ở các nước này và các bậc bố mẹ của chúng có thể đi du
lịch trong tất cả các mùa của năm.
Các chuyên gia gặp nhiều khó khăn khi xác định ảnh hưởng của các kỳ nghỉ
của học sinh đối với sự tập trung cầu du lịch. Khó khăn ở đây liên quan đến cấu trúc
khác biệt của dân cư của mỗi nước riêng biệt về lứa tuổi và trạng thái hôn nhân. Trong
thời gian gần đây, mối quan hệ này được thấy ở 2 khuynh hướng: một là, càng ngày
lớp trẻ càng thích đi du lịch độc lập và giảm giới hạn trên của lứa tuổi học sinh đi du
lịch cùng gia đình; hai là, mức sống bình quân được nâng cao càng làm giảm tỷ trọng
của gia đình có nhiều con ở lứa tuổi đi học trong cấu trúc chung của dân cư.
Trong những năm cuối, các chuyên gia du lịch thường quan tâm hơn đến một
bộ phận dân cư không liên quan đến các kỳ nghỉ phép năm cũng như kỳ nghỉ của học
sinh, đó là nhóm người thuộc lứa tuổi về hưu.
Đánh giá cao ảnh hưởng của thời gian rỗi đối với việc tập trung của cầu du lịch,
nhiều tác giả hướng sự chú ý của mình vào các kỳ nghỉ năm và nghỉ hè nhưng không
thấy sự tìm kiếm mối liên hệ giữa thời gian rỗi với nhu cầu nghỉ của các tầng lớp nhân
dân.
Như vậy, yếu tố thời gian rỗi chịu hàng loạt sự thay đổi tích cực. Chế độ làm
việc 40 giờ/1 tuần, sự gia tăng của thành phần thuộc lứa tuổi về hưu là thành phần có
sự lựa chọn tự do về thời gian đi nghỉ. Cũng thời gian đó giảm bớt số gia đình có con ở
lứa tuổi đi học. Trong cấu trúc của các nhóm công nhân, phục vụ tồn tại những dự trữ
đáng kể cho việc mở rộng thời gian sử dụng kỳ nghỉ, hay nói cách khác cùng với các

điều kiện thuận lợi trong những năm gần đây đã giảm tác động của yếu tố này lên cầu
du lịch.
1.3.3. Phong tục tập quán
Ở Việt Nam, tác động của nhân tố phong tục truyền thống lên tính mùa vụ du
lịch rất mạnh mẽ và rõ nét. Du lịch lễ hội thường tập trung từ tháng 12 đến tháng 4 âm
9

lịch. Một số vùng có lễ hội tổ chức vào thời gian khác của năm nhưng tựu chung các lễ
hội truyền thống từ Bắc chí Nam được tổ chức vào mùa xuân là nhiều nhất.
Một trong số các lễ hội đó là: lễ hội đền Hùng diễn ra vào ngày 10-03 âm lịch,
những năm gần đây cũng là ngày cả nước được nghỉ, từ tháng một đến tháng ba có lễ
hội chùa Hương ở Hà Tây nay thuộc Hà Nội, ngày mười ba tháng một có hội Lim ở
Bắc Ninh, tháng ba hội đam trâu ở Buôn Ma Thuật – Đăklăk, ngày mông chín tháng tư
có hội Gióng – Hà Nội
1.3.4. Các nhân tố khác
* Sự quần chúng hoá trong du lịch : Làm tăng tính thời vụ vốn có trong du
lịch, nó được hình thành bởi sự xã hội hoá của dòng khách du lịch mà kết quả là có sự
gia tăng đột biến của các tầng lớp có mức thu nhập trung bình và ít khi đi du lịch.
Những khách du lịch thuộc nhóm này thường tập trung vào các khu du lịch biển vào
mùa chính. Họ làm như vậy do 3 lý do chính:
- Mặc dù giá vận chuyển và lưu trú cao ở mùa du lịch nhưng lợi thế được giảm
giá do đi tập thể, chi phí tổ chức chuyến đi là thấp nhất do đi theo đoàn nên đa số
khách có khả năng thanh toán hạn chế thường đi nghỉ biển tập thể.
- Họ không nắm được đầy đủ thông tin về các điều kiện thực hiện du lịch theo
các tháng trong năm nên thường chọn các tháng thuộc mùa vụ du lịch chính truyền
thống của năm (tháng 6, 7, 8), vì như vậy sự mạo hiểm do gặp các bất lợi từ phía các
điều kiện khí hậu là rất ít.
- Ảnh hưởng của yếu tố tâm lý trong việc lựa chọn thời điểm đi du lịch của du
khách do những người mới đi du lịch thường có ít kinh nghiệm và hiểu biết về các
điều kiện của điểm du lịch nơi họ dự định đến. Do vậy họ lựa chọn thực hiện chuyến

đi của mình dựa vào thời gian mà người dân thường hay đi nghỉ.
Theo cách này một số ít những khách du lịch có kinh nghiệm cũng tập trung
cầu du lịch vào các tháng của mùa vụ du lịch chính.
* Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch: Là nhân tố ảnh hưởng đến độ dài thời vụ
du lịch thông qua khả năng cung cấp dịch vụ.
Khả năng chuẩn bị đón tiếp và phục vụ khách du lịch được coi là điều kiện
quan trọng và cần thiết nhất cho sự phát triển du lịch. Có làm tốt khâu này thì quá trình
đón tiếp và phục vụ khách du lịch mới có chất lượng và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
10

+ Sự chuẩn bị về mặt tổ chức đón tiếp khách: được thực hiện bởi các tổ chức và
cơ sở kinh doanh du lịch: có chiến lược và chiến thuật phát triển du lịch trong phạm vi
từng địa phương và trong cả nước, có kế hoạch bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử
văn hoá, bảo vệ môi trường thiên nhiên, có kế hoạch quảng cáo tuyên truyền du lịch
trong và ngoài nước
+ Chuẩn bị về mặt kỹ thuật: Chuẩn bị về cơ sở vật chất kỹ thuật để đón tiếp
khách, bao gồm: các cơ sở hạ tầng chung của xã hội được sử dụng trong du lịch như
giao thông, mạng lưới điện nước, thông tin liên lạc, y tế và các cơ sở vật chất kỹ thuật
của ngành du lịch như các cơ sở lưu trú, các cơ sở phục vụ ăn uống, dịch vụ bổ sung,
các phương tiện chuyên chở khách Nếu được chuẩn bị tốt về mọi mặt sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho khách ăn nghỉ, đi lại vui chơi giải trí.
+ Chuẩn bị về lao động: Phải đảm bảo có một đội ngũ lao động đủ về số lượng,
đảm bảo về chất lượng để sẵn sàng phục vụ khách
* Tác động của tài nguyên du lịch đến việc hình thành tính mùa vụ du lịch
Tài nguyên du lịch bao gồm các yếu tố liên quan đến các điều kiện tự nhiên,
điều kiện lịch sử - văn hoá, kinh tế - xã hội vốn có trong tự nhiên hoặc do con người
tạo dựng nên. Các yếu tố này luôn luôn tồn tại và gắn liền với môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội đặc thù của mỗi địa phương, mỗi quốc gia tạo nên những điểm đặc
sắc cho mỗi địa phương, mỗi quốc gia đó. Khi các yếu tố này được phát hiện, được
khai thác và sử dụng cho mục đích phát triển du lịch thì chúng sẽ trở thành tài nguyên

du lịch.
Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Tài nguyên
du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn,
công trình sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn cầu du lịch; là
yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du
lịch.
Tài nguyên du lịch tác động đến tính mùa vụ du lịch dưới 2 khía cạnh: tài
nguyên du lịch vừa là yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch vừa là điều kiện thực hiện các
hoạt động du lịch.
Tài nguyên du lịch là yếu tố cấu thành sản phẩm du lịch:
Tài nguyên du lịch là yếu tố quyết định sự phát triển của các loại hình du lịch ở
mỗi một điểm hay khu du lịch cụ thể. Các loại hình du lịch này lại có khả năng đáp
11

ứng được những loại cầu du lịch nhất định, nhưng do chính tác động của các yếu tố
cấu thành của tài nguyên du lịch (ví dụ, yếu tố khí hậu hay phong tục tập quán) nên
các loại hình du lịch này đều bị ảnh hưởng của tính mùa vụ du lịch. Đối với mỗi loại
hình du lịch khác nhau, ảnh hưởng của tài nguyên du lịch thể hiện không đồng đều. Ví
dụ, các hang động có thể phục vụ cho nhu cầu tham quan, thám hiểm quanh năm nên
tính mùa vụ thể hiện ít hơn so với các loại hình du lịch khác, còn du lịch lễ hội lại chỉ
diễn ra trong quãng thời gian có tổ chức các lễ hội.
Tài nguyên du lịch là điều kiện thực hiện các hoạt động du lịch:
Yếu tố quan trọng của tài nguyên du lịch có ảnh hưởng đến tính mùa vụ du lịch
là yếu tố khí hậu. Đối với du lịch nghỉ dưỡng biển núi, thể thao mùa đông thì khí hậu
xác định thông số tối ưu của mùa du lịch. Đối với các loại hình du lịch khác, khí hậu
giữ vai trò điều chỉnh sự cân bằng lượng khách đến và mức độ sử dụng tài nguyên du
lịch.
Bên cạnh đó, vị trí địa lý, khoảng cách đến các trung tâm phân phối khách, điều
kiện địa hình cũng là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến điều kiện thực hiện các
hành động du lịch.

Ngoài ra còn rất nhiều các yếu tố dưới đây cũng ảnh hưởng tới hoạt động du
lịch như: Tổ chức các sự kiện (thi sao mai, Fesival ở các tỉnh), phân năm du lịch cho
các tỉnh để tập trung đầu tư trọng điểm, cơ chế chính sách để thu hút đàu tư nước
ngoài vào Việt Nam đói với lĩnh vực du lịch. (Ví dụ: xây dụng các khu resort, các khu
vui chơi giải trí…) hay tao điều kiện cho các tập đoạn tổ chức khai thác và kinh doanh
các tài nguyên du lịch. (Ví dụ: Khu du lịch Tràng An – Ninh Bình (tập đoàn Xuân
Trường), động Thiên Đường ở Quảng Bình (Tập đoàn Trường Thịnh)
1.4. Những ảnh hưởng bất lợi của tính mùa vụ đến hoạt động du lịch
Tính mùa vụ thường có ảnh hưởng tiêu cực đối với ngành du lịch nói chung và
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của các địa phương - nơi có hoạt động du
lịch diễn ra nói riêng.
Tính mùa vụ tác động đến tất cả các thành phần của quá trình hoạt động du lịch
như tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, lao động trong du lịch
và cả khách du lịch. Mùa du lịch ngắn là nguyên nhân của việc phần lớn các cơ sở vật
chất kỹ thuật cũng như lao động chuyên ngành chỉ được sử dụng có hiệu quả trong
một quãng thời gian nhất định trong năm, dẫn đến việc tăng chi phí cố định và giá
12

thành của hàng hoá, dịch vụ. Điều này làm giảm khả năng xây dựng một chính sách
giá mềm dẻo, gây khó khăn cho công tác tổ chức và giảm khả năng cạnh tranh. Không
những thế, nó còn hạn chế các khả năng của du khách trong việc tìm ra một chỗ nghỉ
thích hợp trong thời gian mong muốn. Tính mùa vụ còn đem lại sự tập trung cao của
du khách trong một thời gian nhất định đối với các phương tiện vận chuyển, gây ách
tắc giao thông ở các điểm du lịch, làm mất đi sự tiện lợi trong quá trình di chuyển, lưu
trú, làm giảm chất lượng phục vụ và tạo nên sức ép về môi trường đối với các tài
nguyên du lịch.
1.4.1 Ảnh hưởng đến việc khai thác tài nguyên và môi trường du lịch
Sức chứa của các đối tượng du lịch có hạn. Nếu tập trung một lượng khách lớn
trong một khoảng thời gian tại một điểm (một đối tượng) thì sẽ xảy ra hiện tượng quá
tải. Sự quá tải khiến cho du khách không thể cảm nhận và hưởng thụ hết giá trị của đối

tượng du lịch. Sự quá tải còn gây những tác hại tới đối tượng du lịch như làm giảm giá
trị thẩm mỹ, phá hoại cảnh quan, xuống cấp di tích và nhất là những tác động tiêu cực
tới môi trường làm giảm uy tín với du khách và về lâu dài làm giảm giá trị du lịch của
đối tượng. Hoạt động du lịch luôn gắn liền với việc khai thác các tiềm năng tài nguyên
môi trường tự nhiên như cảnh đẹp hùng vĩ của núi, rừng, sông, biển… và các giá trị
văn hoá nhân văn. Trong quá trình phát triển, mối quan hệ nhân quả giữa môi trường
và hoạt động du lịch rất chặt chẽ. Sự suy giảm chất lượng của môi trường sẽ dẫn đến
sự giảm sức hút của hoạt động du lịch.
Thời gian vắng khách là thời gian để tu bổ, tôn tạo lại hay nói một cách chung
hơn là thời gian “hồi” lại sau một thời gian tập trung khai thác của các đối tượng du
lịch. Có những đối tượng có thể tự phục hồi được nguyên trạng hoặc gần như nguyên
trạng sau thời gian khai thác, ví dụ như các bãi biển, các hang động và thác nước,…
Nhưng cũng có các đối tượng khả năng tự phục hồi rất kém thậm chí có đối tượng
không thể tự phục hồi như các khu bảo tồn thiên nhiên, các di tích lịch sử,… đặc biệt
là các đối tượng bị khai thác quá mức. Như vậy, tính mùa vụ du lịch gây ra các ảnh
hưởng bất lợi ở hai khía cạnh : thứ nhất gây ra sự quá tải vào mùa du lịch chính, thứ
hai gây ra sự lãng phí vào ngoài vụ hay còn gọi là mùa chết. Chính vì vậy, việc xác
định sức chứa của các đối tượng du lịch cũng như việc kiên quyết thực hiện ngừng
phục vụ khi đối tượng du lịch đã quá tải là việc làm hết sức cấp thiết để phát triển du
lịch bền vững mà trong thực tế, hầu như chưa khu du lịch nào làm được.
13

Vào những ngày cao điểm, du khách đông, lượng rác thải gia tăng khiến cho
công tác vệ sinh môi trường nhiều khi trở thành vấn đề nan giải vì vừa phải đảm bảo
thu gom rác thải kịp thời, tránh ô nhiễm môi trường và mất mỹ quan, vừa phải đảm
bảo việc tôn trọng du khách.
1.4.2. Ảnh hưởng đến công tác tổ chức quản lý và hiệu quả kinh doanh
Tính mùa vụ gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động kinh doanh của ngành du
lịch. Lượng khách tăng lên đột ngột với số lượng lớn trong mùa du lịch đồng nghĩa với
việc các nhu cầu cần được đáp ứng của du khách tăng lên với số lượng lớn hơn và đa

dạng hơn rất nhiều. Các nhà quản lý gặp nhiều khó khăn từ khâu xây dựng các tour,
dịch vụ vận chuyển khách, lưu trú, ăn uống,… cho đến kiểm soát giá cả, chất lượng
của các sản phẩm và dịch vụ. Tình trạng mất cân đối nghiêm trọng cung - cầu thường
dẫn đến việc khách phân tán vào các nhà nghỉ tư nhân - nơi mà công tác quản lý theo
ngành còn nhiều khó khăn và bất cập. Ở loại hình dịch vụ nhà hàng ăn uống, khi lượng
du khách quá lớn thì công tác quản lý, kiểm soát về giá cả, về an toàn thực phẩm,…
gặp những trở ngại rất lớn. Đối với công tác quản lý môi trường và bảo đảm an ninh
cho du khách cũng vấp phải những khó khăn tương tự trong thời điểm mùa du lịch.
Tình trạng cầu vượt quá cung thường gắn liền với sự tăng giá các dịch vụ,
giảm sút chất lượng và như thế làm giảm uy tín của khu du lịch, dẫn đến việc giảm
lượng khách trong thời gian tiếp theo. Chưa kể đến, ở một số khu du lịch dịch vụ ăn
uống đắt đỏ với chất lượng không cao sẽ khiến cho du khách tự chuẩn bị đồ ăn uống
mang theo, làm giảm doanh thu trong lĩnh vực ăn uống, nhà hàng. Thêm vào đó là
lượng rác thải từ một số du khách thiếu ý thức sẽ góp phần tác động làm ô nhiễm môi
trường, gây khó khăn cho công tác quản lý môi trường trong các khu du lịch.
Kết cấu hạ tầng là yếu tố quan trọng để thực hiện hoạt động du lịch cần được
các địa phương và ngành quan tâm đầu tư trước nhất. Nhưng do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan nên không phải ở khu du lịch nào kết cấu hạ tầng cũng được
đầu tư một cách đúng mức. Mặc dù vậy, do sức hút của đối tượng du lịch mà du khách
vẫn đổ dồn đến các khu du lịch, lượng khách tập trung đông, đặc biệt trong mùa du
lịch làm cho kết cấu hạ tầng vốn chưa được tốt lắm lại càng bị xuống cấp nhanh chóng
do sử dụng quá tải. Lượng khách lớn dồn dập trong một vài tháng của năm với lưu
lượng xe ô tô, xe máy rất lớn gây nên tình trạng ách tắc giao thông, mặt đường hư hại
rất nhanh, hệ thống cung cấp nước sạch tới các điểm tham quan, dừng chân trong khu
14

du lịch cũng như hệ thống thu gom nước thải, rác thải đều bị quá tải dẫn đến tình trạng
thiếu nước sạch và ô nhiễm môi trường trầm trọng, đặc biệt là trong mùa du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật ở các khu du lịch được sử dụng với công suất lớn trong
mùa du lịch và để lãng phí trong thời gian vắng khách dẫn tới tình trạng mất cân đối

giữa cung và cầu. Nếu để đáp ứng đủ cầu vào mùa du lịch mà đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật thì lại gây sự lãng phí vào mùa chết nên hiệu quả đầu tư không cao,
còn không đầu tư hoặc đầu tư ít thì lại gây ra tình trạng thiếu trầm trọng vào mùa vụ.
Nhưng không chỉ có thế, việc sử dụng quá mức các cơ sở vật chất kỹ thuật trong mùa
du lịch cũng dẫn đến việc xuống cấp nhanh chóng, nghiêm trọng, gây khó khăn và tốn
kém trong việc tôn tạo, tu bổ các công trình. Tình trạng này càng khiến cho chi phí
khấu hao tăng lên, giá cả dịch vụ tăng theo và làm giảm đi khả năng cạnh tranh trong
kinh doanh. Để giảm thiểu chi phí, các đơn vị kinh doanh phải sử dụng nhiều biện
pháp khác nhau. Một trong các biện pháp thường được sử dụng để giảm chi phí ở khối
các khách sạn là cho một số lao động nghỉ việc không hưởng lương và giảm lương của
số lao động còn lại, mặc dù số lao động cố định trong các công ty này đã được tính
toán hạn chế ở mức thấp nhất. Biện pháp này gây tác động xấu đối với đời sống vật
chất và tinh thần của người lao động trong doanh nghiệp. Tác động này cũng tương tự
đối với khối nhà hàng. Ở các nhà hàng tư nhân quy mô nhỏ và các dịch vụ khác, mùa
vắng khách thu nhập sẽ giảm hẳn nếu không muốn nói là không có việc làm. Hiện
tượng này đồng nghĩa với việc “làm một tháng, ăn cả năm” và dễ dẫn đến tâm lý làm
ăn kiểu “chộp giật” trong mùa du lịch. Tâm lý kinh doanh này thường dẫn đến việc
tăng giá hàng hoá và dịch vụ bừa bãi, ép giá đối với du khách và tranh giành khách lẫn
nhau gây mất trật tự, mỹ quan khu du lịch và mất thiện cảm với du khách.
1.4.3. Ảnh hưởng đến việc sử dụng nguồn nhân lực
Mùa du lịch ngắn là nguyên nhân sử dụng không hiệu quả của cơ sở vật chất kỹ
thuật và lực lượng lao động được đào tạo cơ bản có tay nghề cao, gây nên sự lãng phí
lao động, làm giảm mối quan tâm của nhiều người lao động trong việc rèn luyện nâng
cao tay nghề của mình
Công việc theo tính chất mùa vụ, không ổn định trong năm thường tác động lớn
đến tâm lý của người lao động vì vậy hiệu quả lao động không cao. Mùa hè khối lượng
công việc quá nhiều gây sự mệt mỏi và quá tải cho người lao động, mùa đông lại
không có việc hoặc có việc để làm nhưng mức lương rất thấp do các cơ sở kinh doanh
15


du lịch hầu như không có khách, đóng cửa. Điều này dẫn đến hiện tượng người lao
động phải chuyển đổi việc làm ngoài mùa vụ hoặc bỏ việc, thất nghiệp.
Đây cũng là vấn đề rất khó đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, để đáp
ứng được công việc vào mùa vụ các cơ sở cần tuyển dụng một lượng lớn lao động
nhưng ngoài mùa vụ không có việc cho người lao động buộc họ phải giảm thải lao
động.
1.4.4. Ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của du khách
Tính mùa vụ du lịch không chỉ cản trở hoạt động của các doanh nghiệp mà còn
gây nên nhiều phiền toái cho phần lớn các du khách: Việc đăng ký buồng phòng ở các
khu nghỉ vào những thời điểm thích hợp gặp nhiều khó khăn, có khi khách phải đăng
ký trước hàng tháng hoặc phải lưu trú tại các khách sạn, nhà nghỉ không phù hợp sở
thích với giá cả đắt đỏ. Khi khách tập trung đông thì nhu cầu về dịch vụ và hàng hoá
tăng cao, nhiều khi quá khả năng đáp ứng dẫn đến hiện tượng giá cả hàng hoá và dịch
vụ tăng vọt khiến cho chi phí chuyến đi của du khách tăng lên thậm chí có những nhu
cầu của du khách không được đáp ứng. Ngoài ra, khách quá đông tạo ra sự quá tải cho
đội ngũ lao động, gây ức chế vì vậy mà chất lượng phục vụ khách vào mùa cao điểm
không cao, ảnh hưởng rất lớn đến mức độ hài lòng của du khách.
Hiện tượng tập trung cao lượng khách trong mùa du lịch trên một không gian
hạn hẹp đã làm giảm đi các cơ hội để cho mọi du khách có thể cảm nhận và hưởng thụ
hết giá trị của các đối tượng du lịch. Lượng khách tăng cao dẫn đến lượng rác thải từ
mọi nguồn gia tăng theo, gây ô nhiễm môi trường, làm giảm giá trị của đối tượng du
lịch và ảnh hưởng đến sức khoẻ của du khách.
Lượng khách quá lớn tập trung trong một thời gian ngắn khiến cho việc đảm
bảo an toàn cho du khách gặp nhiều khó khăn. Hơn thế nữa, khi khách du lịch tập
trung với mật độ cao thì các tệ nạn xã hội nhằm vào du khách như trộm cắp, cướp giật
cũng gia tăng, các rủi ro trong du lịch mà nạn nhân là các khách du lịch là một hiện
thực.
Ngược lại với mùa du lịch, ở thời gian ngoài mùa du lịch chính thì đa số các cơ
sở kinh doanh cầm chừng, thu hẹp phạm vi các loại hình dịch vụ, giảm lao động, khiến
cho du khách đi du lịch trong thời gian này khó có thể có được những dịch vụ đáp ứng

các nhu cầu của mình nhất là nhu cầu đối với các dịch vụ bổ sung.

16

1.4.5. Những ảnh hưởng khác
Vào mùa du lịch, khi lượng khách tăng lên với số lượng lớn thì nhu cầu về
lương thực, thực phẩm, sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ, dịch vụ,… cũng tăng theo.
Điều này sẽ dẫn đến hiện tượng tăng vọt của giá cả các loại hàng hoá và dịch vụ đó.
Hậu quả của việc tăng giá đó không chỉ tác động trực tiếp vào du khách mà còn ảnh
hưởng tới cả dân cư trong vùng, khiến họ phải chịu một giá cả sinh hoạt đắt đỏ nhiều
khi đến bất hợp lý. Một bộ phận dân cư trong vùng tham gia vào hoạt động du lịch với
tư cách dịch vụ hoặc thương mại thì kiếm lợi trong thời gian này. Còn đại đa số người
dân phải chịu hậu quả dẫn đến tâm lý không tốt đối với khách du lịch nói riêng và
hoạt động du lịch nói chung. Tâm lý này, trong nhiều trường hợp đã dẫn đến những
hành động thiếu ý thức đối với việc bảo vệ tài nguyên du lịch của người dân địa
Tuy nhiên, không chỉ có các tác động một cách tiêu cực mà tính mùa vụ còn có
các tác động tích cực đến đời sống kinh tế xã hội của địa phương. Vào mùa du lịch, khi
lượng khách tăng lên một cách đáng kể ở các khu du lịch thì các nhu cầu về hàng hoá
và dịch vụ cũng tăng lên rất cao. Điều đó có nghĩa là các cơ sở kinh doanh cả nhà nước
và tư nhân ở khu du lịch đó có rất nhiều cơ hội để mở rộng sản xuất kinh doanh, điều
này buộc họ phải tuyển thêm lao động, mở nhiều loại hình dịch vụ đa dạng mà kết quả
là làm đa dạng các loại hình dịch vụ, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập. Như
vậy, trong mùa du lịch các cơ sở kinh doanh ở các khu du lịch đã đóng góp nghĩa vụ
cho ngân sách nhà nước một khoản đáng kể. Mùa du lịch ở các khu du lịch tạo ra
"Cầu" tương đối về lương thực, thực phẩm và hàng hoá đã thúc đẩy các ngành kinh tế
khác phát triển và giải quyết thêm nhiều công ăn việc làm cho các lực lượng lao động
gián tiếp khác.
1.5. Một số kinh nghiệm hạn chế ảnh hưởng bất lợi của tính mùa vụ lên hoạt
động du lịch.
* Khả năng kéo dài mùa du lịch

Đánh giá cao các tác động tiêu cực bởi ảnh hưởng của tính mùa vụ đối với hoạt
động du lịch, các nhà quản lý, các nhà hoạt động du lịch ở các nước phát triển đã tiến
hành cuộc đấu tranh có hệ thống để kéo dài mùa du lịch. Kết quả của các nỗ lực, các
chương trình này trong 15-20 năm cuối đã đạt được những kết quả khả quan.
Tác động nhiều hướng của tính mùa vụ đòi hỏi phải có hướng đi thích hợp
trong việc giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đối với ngành du lịch và các cơ sở của
17

ngành. Điều cốt lõi là phải thiết kế và áp dụng 1 chương trình toàn diện cho việc kéo
dài mùa du lịch một cách rộng khắp trên phạm vi toàn lãnh thổ, cho các loại hình du
lịch, trong mỗi khu du lịch.
Điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất cho việc thực hiện thành công chương
trình này là tạo lập các khả năng kéo dài mùa du lịch.
Sự phát triển đồng thời của một vài loại hình du lịch trong đất nước bắt buộc
phải xác định chính xác đâu là những điều kiện khách quan thuận lợi nhất đối với:
- Giá trị và khả năng khai thác các nguồn tài nguyên du lịch,
- Thị trường khách hiện tại và thị trường khách tiềm năng,
- Khả năng tiếp nhận của cơ sở vật chất kỹ thuật,
- Nguồn nhân lực của vùng,
- Kinh nghiệm tổ chức quản lý,
- Khả năng phối hợp với các loại hình du lịch khác.
Bảng đánh giá tổng hợp đối với các yếu tố kể trên cho phép xây dựng kế hoạch
của khu nghỉ dưỡng biển.
Thành tựu khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong việc
phát triển du lịch nghỉ dưỡng biển đã đưa ra 3 khả năng kéo dài mùa du lịch:
- Đạt mức tương ứng giữa sự kéo dài của mùa du lịch và khả năng khai thác các
nguồn lực sẵn có phục vụ cho sự kéo dài này,
- Làm sống động các hoạt động ở các khu du lịch nghỉ biển và nâng cao sức hấp
dẫn của chúng vào trước và sau mùa du lịch.
- Sử dụng có hiệu qủa các tài nguyên du lịch chữa bệnh và tăng khả năng khai

thác quanh năm của một phần cơ sở vật chất kỹ thuật ngành.
Bằng phương pháp tương tự có thể tìm ra các khả năng kéo dài mùa du lịch đối
với các loại hình du lịch khác ở các trung tâm du lịch .
* Khả năng tạo mùa du lịch thứ 2
Điều kiện quan trọng khác để giảm thiểu tác động tiêu cực của tính mùa vụ đối
với các trung tâm du lịch là tạo ra mùa du lịch thứ 2. Điều này đòi hỏi phải tạo ra các
loại hình du lịch mới và phát triển nó trong các khu du lịch. Đánh giá trong trường hợp
này cần phải được thực hiện trên cơ sở các tiêu chuẩn sau:
- Tính hấp dẫn của các tài nguyên du lịch ngoài mùa du lịch chính,
- Khả năng khai thác các nguồn tài nguyên du lịch chưa được khai thác,

×