Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong khu bảo tồn biển vịnh nha trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 92 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



ĐÀM HẢI VÂN



GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ KHAI
THÁC VÀ BẢO VỆ NGUỒN LỢI THỦY SẢN TRONG KHU BẢO
TỒN BIỂN VỊNH NHA TRANG



LUẬN VĂN THẠC SĨ
















Khánh Hòa - 2013



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



ĐÀM HẢI VÂN


GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ KHAI
THÁC VÀ BẢO VỆ NGUỒN LỢI THỦY SẢN TRONG KHU BẢO
TỒN BIỂN VỊNH NHA TRANG



Chuyên ngành : Công nghệ Khai thác Thủy sản
Mã số : 60.62.80



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐỨC SĨ











Khánh Hòa - 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi,
số liệu sử dụng trong Luận văn là trung thực. Các số liệu phỏng vấn thu mẫu thống kê về
năng suất, sản lượng kinh tế nghề cá, điều tra thực địa trên ngư trường là kết quả tham gia
của tôi thực hiện trong các chuyến điều tra và kết hợp trong các chuyến kiểm tra trên biển.
Các số liệu về tàu thuyền, nghề nghiệp khai thác, các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh
vực hải sản, công tác quản lý Nhà nước về thuỷ sản sản tại địa phương được thu thập tại Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Khánh
Hòa và phòng chuyên môn, các huyện và thành phố có quản lý khai thác thuỷ sản .
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về các nội dung nghiên cứu trong Luận văn này.


Người cam đoan



Đàm Hải Vân













1

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai thực hiện luận văn này, tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm
của Ban Giám hiệu Trường Đại học Nha Trang, Viện Khoa học và Công nghệ Khai thác Thuỷ
sản và các phòng ban của Trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt quá trình
học tập;
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến: Tiến sĩ Nguyễn Đức Sĩ - Trưởng Bộ môn Hàng
Hải -Viện Khoa học và Công nghệ Khai thác Thuỷ sản Trường Đại học Nha Trang, đã trực
tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này; Tiến sĩ Hoàng Văn Tính;
Tiến sĩ Trần Đức Phú; Tiến sĩ Hoàng Hoa Hồng và các thầy giáo giảng dạy lớp cao học
Công nghệ Khai thác Thủy sản, khóa học 2011-2013 đã tận tình giảng dạy để tôi hoàn
thành khóa học, nâng cao nhận thức chuyên môn để hoàn thành luận văn này;
Tôi xin chân thành cảm ơn đến Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Khai
thác Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Khánh Hòa; Viện Hải dương học Nha Trang, Cục Khai thác
và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, các phòng chuyên môn, các huyện, thị xã và thành phố có
quản lý thuỷ sản và các bạn đồng nghiệp trong và ngoài cơ quan, đã tạo điều kiện cho tôi thu
thập số liệu cần thiết để hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn tới toàn thể cán bộ công chức,
viên chức Ban quản lý Vịnh Nha Trang đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học cao học và làm đề tài luận văn thạc sĩ.







2

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG 5
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ 6
MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 12
1.1. Các nghiên cứu về KBTB trên thế giới và ở Việt Nam. 14
1.1.1. Các nghiên cứu về KBTB trên thế giới 14
1.1.2. Các khu bảo tồn biển và ven biển tại Việt Nam 15
1.2. Khái quát về khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang 18
1.2.1. Vị trí địa lý 19
1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội 19
1.2.3. Hiện trạng môi trường và đa dạng sinh học trong KBTB 21
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Nội dung nghiên cứu 26
2.1.1. Thực trạng hoạt động khai thác thủy sản trong KBTB vịnh Nha Trang 26
2.1.2. Thực trạng công tác quản lý khai thác, bảo vệ nguồn lợi và đa dạng sinh học trong
KBTB vịnh Nha Trang. 26
2.1.3. Thực trạng công tác quản lý KBTB vịnh Nha Trang 26
2.1.4. Đề xuất giải pháp 26
2.2. Phương pháp nghiên cứu 27
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 27

2.2.1.1. Thu thập số liệu thứ cấp 27
2.2.1.2. Thu thập số liệu sơ cấp 27
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29
3.1. Thực trạng khai thác thủy sản trong khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang 29
3.1.1. Tàu thuyền các loại nghề khai thác 29
3.1.2. Thực trạng hoạt động đánh bắt của tàu thuyền trên vịnh Nha Trang 31
3.2.2. Sự tham gia của các bên liên quan 42
3.2.3. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức. 45
3.2.4. Công tác tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm về BV NLTS 47
3.2.5. Công tác phát triển cộng đồng 50
3.3. Thực trạng công tác quản lý khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang 51

3

3.3.1. Công tác chỉ đạo quản lý KBTB vịnh Nha Trang 51
3.3.2. Mô hình tổ chức quản lý khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang 52
3.3.3. Thiết lập các tổ chức cộng đồng và huy động sự tham gia của cộng đồng vào quá trình
quản lý KBTB 58
3.3.4. Đánh giá hiệu quả quản lý KBTB vịnh Nha Trang 61
3.4. Đề xuất giải pháp 64
3.4.1. Các giải pháp chung về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản 64
3.4.2. Giải pháp nâng cao năng lực quản lý đối với các cơ quan hữu quan và nâng cao nhận
thức của cộng đồng 67
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 73
1. Kết luận 73
2. Kiến nghị 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
PHỤ LỤC 78



- 4 -


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ĐDSH Đa dạng sinh học
HST Hệ sinh thái
NLTS Nguồn lợi thủy sản
BVNLTS Bảo vệ nguồn lợi thủy sản
BV&PTNLTS Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
KT&BVNLTS Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản
NTTS Nuôi trồng thủy sản
KTTS Khai thác thủy sản
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ĐQL Đồng quản lý
ĐQLNC Đồng quản lý nghề cá
QLDVCĐ Quản lý dựa vào cộng đồng
QLNCDVCĐ Quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng
BTB Bảo tồn biển
KBTB Khu bảo tồn biển
VNT Vịnh Nha Trang
DTSQTG Dự trữ sinh quyển thế giới
UBND Ủy ban nhân dân
KT-XH Kinh tế - xã hội
NGO - NGOs Tổ chức phi chính phủ - Các tổ chức phi chính phủ
DANIDA Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch
DCE Chương trình hợp tác phát triển Đan Mạch – Việt Nam trong lĩnh
vực môi trường
LMPA Hợp phần sinh kế bền vững bên trong và xung quanh các khu bảo
tồn biển (thuộc DCE) - Bộ NN&PTNT

IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới
WWF Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên
WAP Liên minh đất ngập nước quốc tế
UNESCO Tổ chức Văn hóa-Khoa học-Giáo dục Liên hiệp quốc

- 5 -


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Phân bố số lượng tàu thuyền theo nghề (< 90CV) 29
Bảng 3.2: Thống kê các phường có tàu hoạt động nghề lưới kéo trong vịnh Nha Trang 31
Bảng 3.3: Tỷ trọng trung bình các nhóm thương phẩn trong một mẻ lưới kéo 33
Bảng 3. 4: Phân bố số lượng tàu thuyền nghề lưới rê hoạt động trong vịnh Nha Trang 34
Bảng 3.5: Tỷ trọng trung bình các nhóm thương phẩn trong một mẻ lưới rê 35
Bảng 3.6: Chiều dài trung bình của một số đối tượng chính của nghề lưới rê 36
Bảng 3. 7: Thống kê nghề pha xúc hoạt động quanh khu bảo tồn biển Hòn Mun 36
Bảng 3.8: Ngư trường đánh bắt nghề pha xúc 37
Bảng 3. 9: Tỷ trọng trung bình các nhóm thương phẩm trong từng mẻ lưới nghề pha xúc 37
Bảng 3. 10: Thống kê nghề mành hoạt động quanh KBTB Hòn Mun 38
Bảng 3. 11: Tỷ trọng trung bình các nhóm thương phẩn trong một mẻ lưới rê 39
Bảng 3. 12: Tóm tắt đối tượng, mùa vụ, vùng khai thác theo nghề. 39
Bảng 3.13: Tổng hợp số vụ vi phạm quy chế KBTB vịnh Nha Trang về KTTS các năm 49
Bảng 3. 14: Kế hoạch phân vùng và mục tiêu của mỗi vùng trong KBTB Hòn Mun [1] 55
Bảng 3. 15: Những lợi ích quan trọng nhất của KBTB vịnh Nha Trang 59
Bảng 3. 16: Các chỉ tiêu về hiệu quả quản lý khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang 62
Bảng 3. 17: Phân tích SWOT hiện trạng quản lý trong KBTB vịnh Nha Trang 62











- 6 -


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.1: Phân bố rạn san hô trong Vịnh Nha Trang 9
Hình 1.2: Vịnh Nha Trang 19
Hình 1.3: Độ phủ cao của san hô sống Porites(cận cảnh) và Montipora spp., Đông Bắc
Hòn Tre [30] 22
Hình 1.4: Thảm cỏ biển đơn loài Halophila ovalis tại Đầm Tre 23

Hình 3. 1: Biến động số lượng tàu thuyền theo nghề 30
Hình 3. 2: Ngư trường đánh bắt nghề lưới kéo 32
Hình 3. 3: Tỷ lệ trung bình nhóm thương phẩm trong một mẻ lưới của nghề lưới kéo 33
Hình 3. 4: Ngư trường đánh bắt nghề lưới rê 35
Hình 3. 5: Tỷ lệ trung bình các nhóm thương phẩm trong đánh bắt nghề lưới rê 36
Hình 3. 6: Ngư trường đánh bắt nghề Mành 38
Hình 3. 7: Tỷ lệ nhóm thương phẩm chính của nghề Mành 39
Hình 3. 8: Pa nô tuyên truyền về KBTB vịnh Nha Trang ở Hòn Mun 45
Hình 3. 9: Giáo dục về bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học trong trường học
ở KBTB vịnh Nha Trang 46
Hình 3. 10: Hội trại bảo vệ môi trường, bảo tồn ĐDSH biển vịnh Nha Trang 47
Hình 3. 11: Thu gom rác ở Hòn Một và trồng rừng ngập mặn ở Đầm Bấy 47
Hình 3. 12: Canô tuần tra của đội tuần tra KBTB vịnh Nha Trang tại Hòn Mun 48

Hình 3. 13: Số lượng các vụ vi phạm KTTS trong KBTB qua các năm 49
Hình 3. 14: Bản đồ phân vùng quản lý KBTB vịnh Nha Trang 56
Hình 3. 15: Hệ thống phao neo tàu thuyền KBTB vịnh Nha Trang 57
Hình 3. 16: Sơ đồ phối hợp giữa BQL KBTB với các cơ quan liên quan 58
Hình 3. 17: Tỷ lệ người dân đánh giá về hiện trạng nguồn lợi 60
Hình 3. 18: Người dân các khóm đảo tham gia bắt sao biển gai 60
Hình 3. 19: Tỷ người tham gia giáo dục cộng đồng 61
Hình 3. 20: Phụ nữ các khóm đảo tham gia chương trình giáo dục bình đẳng giới và
diễn văn nghệ chào mừng ngày quốc tế phụ nữ 61




- 7 -


MỞ ĐẦU
Vịnh Nha Trang có diện tích 249,65 km
2
; trong đó diện tích mặt biển là 211,85
km
2
và diện tích các đảo nằm trong vịnh là 37,8 km
2
[18], có hệ thống sinh thái rất đa
dạng, là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật biển. Các nhà khoa học đã phát hiện được
trên 26 loài cá có giá trị thương mại, trên 200 loài cá sống ở tầng đáy, 30 loài cá sống
nổi ven bờ, 33 loài cá sống ở cửa sông và 176 loài cá sống ở các rạn san hô. Nhưng
quan trọng hơn cả là phát hiện được trên 350 loài san hô sống trong ranh giới Khu bảo
tồn biển [29]. Vịnh Nha Trang là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới, được Bộ Văn

hoá Thông tin xếp hạng Di tích quốc gia, là danh lam thắng cảnh theo Quyết định số
14/2005/QĐ-BVHTT ngày 25/3/2005.
Vịnh Nha Trang có 9 hòn đảo lớn, nhỏ với 5 cụm dân cư đó sinh sống lâu đời tại
đây: Trí nguyên, Vũng Ngán, Hòn Một, Đầm Bấy, Bích Đầm với tổng dân số hiện nay
khoảng 5.168 người và 1.138 hộ. Trong đó, cụm dân cư Trí Nguyên có dân số đông
nhất với số dân 3.253 người và 730 hộ [3].
Thành phố Nha Trang có 3.128 tàu thuyền đánh bắt thủy sản, trong đó khai thác
trong Vịnh Nha Trang trên 2.000 chiếc, số còn lại đánh bắt các ngư trường ngoài tỉnh.
Các ngành nghề đánh bắt trong Vịnh Nha Trang gồm nghề lưới rê, nghề câu, nghề lưới
vây rút chì, mành trũ, lưới cước, lưới quét… Trong đó, loại tàu có công suất nhỏ hơn
20cv chiếm khoảng trên 35%. Lực lượng này thường xuyên khai thác và khai thác quá
mức ở vùng ven bờ, và đây là nguyên nhân làm suy giảm nguồn lợi thủy sản vùng ven
bờ Vịnh Nha Trang [4 ].
Nghề nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên Vịnh Nha Trang được hình thành và phát
triển từ những năm 1990 và tồn tại đến ngày nay. Theo số liệu thống kê của phòng Kinh
tế TP Nha Trang, hiện nay trên vịnh có 250 hộ nuôi gồm 261 bè với 6.850 lồng nuôi
NTTS. Trong đó, chủ yếu nuôi tôm hùm và nuôi cá (cá bớp, cá hồng, cá chim, cá bè).
Đa số nuôi tập trung tại Hòn Miếu, Vũng Ngán, Hòn Một, Đầm Bấy và Bích Đầm.
Ngoài ra, Vịnh Nha Trang có nhiều đơn vị, cá nhân tổ chức các dịch vụ du lịch
trên Vịnh như: Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Vinpearl trên đảo Hòn Tre,
Công ty Cổ phần Du lịch Biển Hòn Tằm Nha Trang trên đảo Hòn Tằm, Công ty TNHH
du lịch Trí Nguyên- Nha Trang, Công ty TNHH Nhà nước MTV Yến Sào Khánh Hòa,
Công ty Cổ phần Đại Hòa (khu du lịch ở Đầm Bấy) trên đảo Hòn Tre…và trên 15 Câu

- 8 -


lạc bộ bơi, lặn …, trên 200 tàu thuyền du lịch cả canô làm dịch vụ đưa đón khách du
lịch đi tham quan trên các tuyến đảo và nhiều dịch vụ nhà hàng, khách sạn trên các đảo
và ven bờ bên trong và xung quanh Vịnh Nha Trang [3]. Các dịch vụ du lịch này rất

phong phú, nhiều loại hình dịch vụ vui chơi như: du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng,
du lịch khám phá, du lịch tham quan, các trò chơi mạo hiểm, cảm giác mạnh.
Vịnh Nha Trang nói chung và Hòn Mun nói riêng có tính đa dạng sinh học khá
cao. Một trong những hệ sinh thái nổi bật và quan trọng nhất là hệ sinh thái rạn san hô.
Kết quả khảo sát đa dạng sinh học và nơi sinh cư khu bảo tồn biển cho thấy, Hòn Mun
là nơi có rạn san hô phong phú và đa dạng nhất Việt Nam. Nó có tầm vóc quốc tế vì có
số loài tương tự như ở trung tâm thế giới về đa dạng san hô ở khu vực Ấn Độ - Thái
Bình Dương, người ta đã tìm thấy 65 giống san hô cứng, 350 loài rạn san hô trong tổng
số hơn 800 loài san hô cứng trên thế giới (chiếm 40% tổng số loài san hô thế giới). Do
địa thế của đảo Hòn Mun nói riêng và cụm đảo Vịnh Nha Trang nói chung rất gần với
dòng hải lưu nóng từ phía xích đạo đưa tới nên thích hợp với điều kiện phát triển của
san hô và nhiều loại sinh vật biển nhiệt đới, đáy biển vùng Hòn Mun là một tập hợp
quần thể sinh vật biển phong phú, đa dạng, là nơi quan sát, nghiên cứu rất lý thú, bổ ích
cho các nhà nghiên cứu sinh vật biển, hải dương học và du khách muốn tìm hiểu về
biển [7].
Các rạn san hô và dải san hô có chức năng để chắn sóng tự nhiên, bảo vệ các vùng
bờ thấp tránh xói mòn. Các rạn san hô cũng góp phần vào việc bồi tích đất thông qua
việc bồi đắp thêm cát vào các bãi biển. Bên cạnh đó, các rạn san hô cũng là môi trường
tốt để các loài thủy sinh sinh sản và phát triển như cá rạn, tôm, tôm hùm, hải sâm, v.v.
Ngoài ra, với vẻ đẹp tự nhiên, sự phong phú về mặt sinh học, đa dạng về màu sắc, vùng
nước trong lành là những đặc điểm tốt để chúng trở thành các khu vực giải trí được ưu
chuộng thu hút du khách trong và ngoài nước tới khám phá.

- 9 -



Hình 1.1: Phân bố rạn san hô trong Vịnh Nha Trang

Rạn san hô và các sinh vật biển là những loài vốn rất nhạy cảm với những thay đổi

của môi trường nước. Tuy nhiên, hiện đang có những vấn đề ảnh hưởng đáng kể tới
chất lượng nước trong vịnh Nha Trang như hàm lượng các trầm tích, chất phù dưỡng và
các chất thải rắn. Các chất thải này phần lớn từ các con sông và các hoạt động phát triển
trên đất liền. Đây thực sự là vấn đề cần phải được quan tâm một cách toàn diện. Bên
cạnh đó, rạn san hô đang phải đối diện với nhiều mối đe dọa bởi việc sử dụng quá mức
các nguồn lợi trong vịnh, chẳng hạn như đánh bắt quá mức, thả neo lên rạn san hô, phát
triển du lịch và các mối đe dọa từ đất liền cũng như từ các vùng đảo trong vịnh.
Vịnh Nha Trang là nơi tập trung nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế cảng và
giao thông biển; nuôi trồng và đánh bắt thủy sản; du lịch và kinh tế đảo. Trong những
năm qua, những thế mạnh đặc thù của Vịnh, trong đó có du lịch, đã và đang được khai
thác có hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Về chủ trương quy hoạch, vịnh Nha Trang chỉ dành riêng phục vụ cho du lịch biển
và các dịch vụ vui chơi giải trí, thể thao trên biển. Tuy nhiên về cơ chế quản lý, quy chế
phối hợp chưa được phê duyệt.
Nhiều tàu thuyền khai thác thủy sản ở các địa phương lân cận vào vịnh Nha Trang
đánh bắt vẫn chưa được kiểm soát. Vùng vịnh Nha Trang là nơi có giá trị đa dạng sinh
học cao, số lượng loài san hô và độ che phủ cao nhất ở nước ta nhưng hiện nay chưa
được bảo vệ tốt thường xuyên bị các tàu thuyền đánh cá xâm hại đặc biệt là các mùa
cao điểm của lưới mành, trũ và giã cào, có ngày tập trung đến 3- 4 chiếc tại một khu
vực nhỏ.

- 10 -


Hiện nay mặt nước trong vịnh Nha Trang, đặc biệt trong vùng nhạy cảm vẫn bị
người dân địa phương và người dân từ bên ngoài đến khai thác quá mức, áp lực đánh
bắt cá hiện nay lớn hơn rất nhiều so với mức sinh thái bền vững.
Trong vịnh và ven vịnh Nha Trang xuất hiện những hiện tượng đáng lo ngại ảnh
hưởng đến đa dạng sinh học, đó là: Khai thác, vận chuyển san hô để bán làm quà lưu
niệm, làm hòn non bộ vẫn còn diễn ra tại một số nơi; làm bẫy nhử tôm hùm con thả

khắp vịnh. Tình trạng du khách giẫm đạp lên san hô, tàu thuyền đánh cá bằng lưới trũ,
lưới kéo trên rạn san hô gây gẫy vỡ.
Sự gia tăng cường lực khai thác quá mức bao gồm sự tăng nhanh số lượng và công
suất tàu thuyền ở vùng ven bờ là một trong những nguyên nhân chủ yếu. Thêm vào đó,
cơ cấu nghề nghiệp khai thác bất hợp lý, khai thác mang tính hủy diệt cùng với hàng
loạt vấn đề bất cập, hạn chế về thể chế, khung pháp luật; cơ chế và khả năng tổ chức
quản lý, giám sát; đầu tư cho bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; trình độ dân trí,
điều kiện kinh tế xã hội của ngư dân vùng ven biển đang là những vấn đề đặt ra một
cách cấp thiết trong lĩnh vực quản lý nghề cá hiện nay. Trong đó, việc tìm ra phương
thức quản lý nghề cá phù hợp với điều kiện nghề cá quy mô nhỏ của Việt Nam hiện nay
đã và đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho các nhà khoa học, các nhà quản lý từ Trung
ương đến các địa phương nghề cá.
Năng lực của cơ quan quản lý và sức mạnh phối hợp các bên liên quan còn chưa đủ
để quản lý một không gian rộng lớn và một nghề cá quy mô nhỏ hết sức đặc thù của khu
bảo tồn biển. Trong khi đó, phương thức quản lý chưa hình thành rõ ràng để huy động một
nguồn sức mạnh to lớn của cộng đồng. Vì vậy, kết quả quản lý, bảo tồn biển chưa đạt
được như mong muốn, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Với thực tế đó, việc
vận dụng và phát triển các phương thức quản lý nghề cá hợp pháp mới có hiệu lực hơn,
khả thi hơn, ít tốn kém hơn, phù hợp với điều kiện thực tế của KBTB vịnh Nha Trang là
vấn đề hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cho đến nay một kế hoạch quản lý tổng hợp, bảo vệ
phát triển vịnh Nha Trang còn chưa được thực hiện và điều này sẽ là một yếu tố ảnh
hưởng đến phát triển bền vững vịnh. Bên cạnh đó một số văn bản còn chồng chéo, chưa
sát với tình hình thực tế tạo khoảng hở trong công tác quản lý, làm cho công tác quản lý
gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Chính vì vậy, vấn đề cơ bản đặt ra đó là cần có giải pháp quản lý hiệu quả đối với
phát triển bền vững vịnh Nha Trang, và là cơ sở cho những nghiên cứu đề xuất các giải
pháp phù hợp, góp phần hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy những tác động
tích cực trong quá trình phát triển

- 11 -



Xuất phát từ yêu cầu thực tế đã nêu, tôi chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác quản lý khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Khu bảo tồn biển
vịnh Nha Trang”.
Kết cấu của Luận văn gồm các phần sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp quản lý,
định hướng phát triển bền vững KBTB vịnh Nha Trang, góp phần bảo tồn đa dạng sinh
học, phục hồi và phát triển nguồn lợi thủy sản tại KBTB, phục vụ phát triển bền vững ở
địa phương.




















- 12 -


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Hiện nay, có nhiều tổ chức đưa ra các định nghĩa khác nhau về khu bảo tồn biển.
Theo Tổ chức Bảo tồn thế giới (IUCN) 1988, một khu bảo tồn biển được định nghĩa
như sau: “ Một khu vực nào đó thuộc vùng triều hoặc dưới triều, cùng khối nước phía
trên và các khu hệ động, thực vật, các đặc điểm lịch sử và văn hóa đi kèm được bảo hộ
bởi pháp luật hoặc các biện pháp tích cực nhằm bảo vệ một phần hoặc toàn bộ môi
trường tại đó” [6].
Khu bảo tồn biển bao gồm một vùng biển (thường gồm những vùng đất và những
vùng ven biển) được quản lý thông qua một hệ thống pháp lý và những phương tiện
quản lý hiệu quả khác nhằm bảo vệ và bảo tồn đa dạng sinh học hoặc nguồn lợi tự
nhiên và các giá trị về văn hóa trong vùng [20].
Theo Nghị định 27/2005/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thủy sản, KBTB được định nghĩa như sau: “Khu bảo tồn biển là
vùng biển được xác định (kể cả đảo có trong vùng biển đo) có các loài động vật, thực
vật, có giá trị và tầm quan trọng quốc gia hoặc quốc tế về khoa học, giáo dục, du lịch,
giải trí được bảo vệ và quản lý theo quy chế của khu bảo tồn” [22].
Khu bảo tồn biển trong Quy chế tạm thời quản lý KBTB Hòn Mun được hiểu: Là
một vùng biển mà đa dạng sinh học cùng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các đặc
điểm lịch sử, văn hóa đi kèm được quản lý, duy trì và bảo vệ theo quy định của pháp
luật [1].
Các khu bảo tồn biển được thành lập nhằm đạt được rất nhiều những mục tiêu

khác nhau. Mục tiêu chung chủ yếu hiện nay là:
Bảo tồn đa dạng sinh học là một mục tiêu của các khu bảo tồn biển, nếu không xét
đến sự mở rộng đặc biệt về giải trí của chúng [20].
Bảo tồn đa dạng gen: Các khu bảo tồn biển và ven bờ có thể giúp duy trì các ngân
hàng gen theo một số cách. Chúng bảo vệ những loài bị nguy hiểm, bị đe dọa, loài
hiếm, loài có giá trị như những nguồn gen đã tuyệt chủng của địa phương. Bảo tồn gen
là quan trọng nhằm duy trì sự phù hợp của loài, với tất cả các quan hệ mật thiết về kinh
tế và xã hội. Bảo tồn đa dạng là quan trọng như nhau đối với việc duy trì các loài bản
xứ, giúp để duy trì tính toàn vẹn của các quần xã sinh vật [20].
Bảo vệ những loài có giá trị về mặt thương mại: Một trong những điều quan trọng
là duy trì năng suất cho ngành thủy sản- một ví dụ rõ ràng của một quá trình sinh thái

- 13 -


trực tiếp hỗ trợ cho phúc lợi kinh tế của con người. Các hệ sinh thái có khả năng sản
xuất tự nhiên, như các rạn san hô và vùng của sông, cung cấp miễn phí những gì mà
nghề nuôi hải sản tốn kém nhưng hiếm khi có thể đáp ứng được sản lượng cá liên tục. Ở
nhiều nơi trên thế giới, hải sản cung cấp phần lớn protein động vật và sinh kế cho người
dân. Ở Châu Phi, nghề thủy sản thủ công cung cấp số lượng lớn cá cho người dân địa
phương, những thủy sản này được xem là bị khai thác một cách đầy đủ, với một số
đang bị khai thác bên ngoài mức bền vững mà không có giới hạn nào để nuôi sống dân
số ngày càng tăng. Vì nhu cầu ngày càng tăng với sự phát triển kinh tế và sự gia tăng
dân số, thủy sản không được quản lý một cách tiêu biểu cho sự bền vững; sự đóng góp
của chúng đối với thực phẩm quốc gia và thu nhập là đang giảm và có lẽ sẽ tiếp tục
giảm. Các KBTB có thể giúp làm bền vững những ngành thủy sản như thế. Việc bảo vệ
những nơi cư trú nguy cấp có thể cần thiết để duy trì nguồn lợi thủy sản hoặc ngăn chặn
“sự tuyệt chủng về mặt kinh tế” của các loài quan trọng về mặt thương mại. Nhiều loài
có giá trị về mặt thương mại hiện không còn bị đe dọa với sự tuyệt chủng sinh học
nhưng vì bị khai thác một cách nặng nề nên chúng có thể bị “đe dọa về mặt thương

mại”[20].
Bảo vệ khỏi những rủi ro thiên nhiên: Một chức năng quan trọng thường bị đánh
giá thấp của những hệ sinh thái dọc theo những bãi ngang là sự bảo vệ ven bờ khỏi
những thảm họa thiên nhiên. Sự bảo vệ này là đặc biệt quan trọng ở các nơi rạn san hô
viền bờ, rạn san hô chắn và rừng ngập mặn giúp bảo vệ những cánh đồng trũng ven bờ,
những thảm thực vật, và những ngôi làng nhỏ khỏi sự tàn phá của bão nhiệt đới. Cũng
quan trọng đối với những vùng ven bờ cao năng được đặc trưng bởi những đụn cát
được làm ổn định bởi những thảm thực vật đất đặc trưng phù hợp với môi trường đụn
cát khắc nghiệt. Những đảo chắn và những đảo cát là những ổ sinh thái động bảo vệ các
quần xã ven bờ khỏi sóng, bão- hình dạng và vị trí của chúng xác định bởi hướng gió
thịnh hành, dòng chảy, sóng và những ảnh hưởng ổn định của rạn và thảm thực vật. Sự
can thiệp với các quá trình xây dựng đảo và sự ổn định có thể dẫn đến sự mất mát giá trị
bảo vệ đó. Những KBTB có thể giúp bảo vệ an toàn những môi trường nhạy cảm như
thế [20].
Giải trí và du lịch: Nơi nào có ngành du lịch trong những KBTB thì dành riêng những
khu vực du lịch đặc biệt cho bơi lội, lặn ống thở, và những môn thể thao dưới nước khác.
Điều này sẽ khuyến khích khách du lịch và làm giảm tối thiểu xung đột với những hình

- 14 -


thức sử dụng khác như đánh cá. Đồng thời nó còn có thể tách riêng những người sử dụng
ngành du lịch xung đột với nhau như những người bơi lội và tàu cao tốc [20].
1.1. Các nghiên cứu về KBTB trên thế giới và ở Việt Nam.
1.1.1. Các nghiên cứu về KBTB trên thế giới
Trên thế giới, theo thống kê của Graeme et al, 1995 có khoảng 1.306 khu bảo tồn
biển [20]. Sự phân bố về mặt số lượng có sự khác nhau lớn giữa các vùng biển; vùng
biển có nhiều khu bảo tồn biển nhất là Úc, New Zealand với 260 KBTB, ít nhất là vùng
biển Trung Tâm Ấn Độ Dương chỉ đạt 15 KBTB.
Về mặt kích thước, cũng có sự khác nhau lớn giữa các KBTB. Kích thước trung

bình trên 100.000 ha. Tuy nhiên, con số này rất mất cân đối bởi số lượng các KBTB
thật sự lớn là tương đối nhỏ, phần lớn là những khu bảo tồn tương đối nhỏ; trung vị là
1.584ha [20].
Dữ liệu về hiệu quả quản lý còn sơ sài. Sự khó khăn của việc có được những
thông tin đó cho thấy sự thiếu vắng chung của việc đánh giá hiệu quả quản lý. Mức độ
quản lý đã được phân loại theo các mức: Cao - KBTB đã đạt được các mục tiêu quản lý
đặt ra; Trung bình - khi KBTB đạt được một phần các mục tiêu quản lý; Thấp - không
đạt được các mục tiêu quản lý [20].
Xét về mức độ quản lý của 383 KBTB được đánh giá thì chỉ có 117 KBTB đạt
hiệu quả quản lý cao, nghĩa là nhìn chung đạt được các mục tiêu quản lý của chúng, 155
KBTB đạt mức trung bình, 111 KBTB không đạt được các mục tiêu và quản lý hiệu
quả thấp [20].
Những lý do mà các KBTB không đạt được các mục tiêu quản lý của chúng thay
đổi giữa các vùng biển. Tuy nhiên, có thể tóm tắt thành một số lý do như sau: Thứ nhất,
các KBTB thiếu nguồn kỹ thuật, nhân viên được huấn luyện và và tài chính để triển
khai và thực hiện các kế hoạch quản lý. Thứ hai, thiếu dữ liệu mà từ đó có thể đưa ra
các quyết định quản lý bao gồm các thông tin về các tác động của việc sử dụng nguồn
lợi và hiện trạng các nguồn lợi về sinh học. Thứ ba, hầu hết các KBTB đều thiếu sự hỗ
trợ của cộng đồng và những người sử dụng không sẵn lòng tuân thủ những qui chế quản
lý, thường là do những người này đã không tham gia một cách đầy đủ đáng kể vào việc
xây dựng những luật lệ này cũng như việc không thực hiện đầy đủ các quy chế của
KBTB. Thứ tư, các tác động từ các hoạt động ở vùng biển và đất bên ngoài ranh giới
các KBTB, bao gồm ô nhiễm, khai thác quá mức và sử dụng không bền vững nguồn lợi

- 15 -


trong KBTB. Cuối cùng là sự thiếu trách nhiệm tổ chức, quản lý rõ ràng và không có sự
hợp tác giữa các cơ quan có trách nhiệm liên quan tới các KBTB. Việc đạt được sự
quản lý có hiệu quả các KBTB đang tồn tại và sự thiết lập các KBTB mới có sự ưu tiên

bằng nhau. Ở phần lớn các khu vực, một số lượng đáng kể các KBTB chỉ tồn tại trên
giấy tờ mà không có kế hoạch quản lý nào và không có hoạt động quản lý nào cả [20].
Một số KBTB được quản lý mang lại hiệu quả tốt trên thế giới: Một ví dụ về
KBTB đa chức năng là KBTB đặc biệt đảo Cousin, một KBT chim đất và biển ở
Seychelles, đồng thời cũng bảo tồn cả rùa biển, rạn san hô và thực vật, và bao gồm cả
nghiên cứu và hạn chế du lịch trong những mục tiêu của nó. Khu bảo tồn Great Barrier
Reef của Úc là KBTB thành công với hiệu quả quản lý tổng hợp. Chính phủ đã thiết lập
một chế độ quản lý đa dụng qua khu vực 300.000km
2
này. Khu vực này được phân
vùng nhằm tách riêng các hoạt động không tương hợp với nhau và bảo tồn những địa
điểm đó nhằm sử dụng chúng một cách đúng đắn nhất. Những khu vực ví dụ là các khu
công viên quốc gia biển, các khu nghiên cứu khoa học, các khu bảo tồn, các khu bổ
sung, và các khu đóng cửa theo mùa [20].
1.1.2. Các khu bảo tồn biển và ven biển tại Việt Nam
Hoạt động bảo tồn thiên nhiên biển được có thể được tính từ năm 1986 khi vườn
quốc gia Cát Bà được thành lập với diện tích phần biển khoảng 5400 ha. Tuy nhiên,
hoạt động bảo tồn ở đây chủ yếu tập trung vào khu vực rừng. Tiếp theo đó, vườn quốc
gia Côn Đảo với phần biển được đưa vào bảo vệ năm 1993. Giống như vườn quốc gia
Cát Bà, vườn quốc gia Côn Đảo chưa được chính thức công nhận là khu bảo tồn biển ở
Việt Nam. Tuy nhiên, vườn quốc gia Côn Đảo với nhiều hỗ rợ của chính phủ, của tỉnh
và các tổ chức quốc tế như WWF, Danida, ADB đã đạt được những kết quả bước đầu.
Nhiều chương trình bảo tồn biển đã và đang được triển khai như bảo tồn rùa biển,
nghiên cứu giám sát rạn san hô và thảm cỏ biển, bảo tồn Du- Gong. Các cán bộ những
vườn quốc gia này cũng được đào tạo về quản lý rừng, giáo dục môi trường và quản lý
tài nguyên biển. Tuy có những hoạt động kể trên, nhưng hệ thống biển và ven biển quan
trọng ở Việt Nam phần lớn chưa được quản lý và hệ thống khu bảo tồn chỉ mới bắt đầu
được hình thành ở tỉnh Khánh Hòa. Cho đến nay, nước ta đã có 5 KBTB được thành lập
và đi vào hoạt động là: Vịnh Nha Trang (Khánh Hòa), Cù lao Chàm (Quảng Nam), Phú
Quốc (Kiên Giang), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Núi Chúa (Ninh Thuận).


- 16 -


Khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang: Tháng 1 năm 2001, chính phủ Việt Nam (Bộ
Thủy sản) và các cơ quan tài trợ (WB / GEF, Danida) và IUCN đã thảo luận thực hiện
dự án trình diễn KBTB Hòn Mun ở vịnh Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa UBND tỉnh
Khánh Hòa đã phê duyệt quy định tạm thời về Ban quản lý KBTB Hòn Mun. Nằm
trong vùng có giá trị ĐDSH hệ sinh thái san hô cao nhất ở Việt Nam (350 loài san hô,
220 loài cá, 106 loài nhuyễn thể, 18 loài da gai và các loài vi tảo ) (Dự án KBTB Hòn
Mun, 2003), cách thành phố Nha Trang khoảng 10 km vùng bảo tồn được dự kiến
khoảng 122 km
2
bao gồm vùng biển bao quanh các đảo Hòn Mun, Hòn Một Hòn Nọc,
Hòn Tre, Hòn Miếu, Hòn Tằm, Hòn Cau, Hòn Vung có tổng diện tích đất là 38 km
2
.
Mục tiêu của dự án là giúp cộng đồng dân cư ở trên đảo cải thiện cuộc sống của họ và
cùng với các đối tác bảo vệ và quản lý có hiệu quả ĐDSH biển tại Hòn Mun để trở
thành mô hình quản lý KBTB tại Việt Nam. Mục tiêu này có thể thành công thông qua
việc thành lập một khu vực đa mục đích và phân vùng phù hợp. Điều này có thể giúp
bảo vệ các hệ sinh thái rạn san hô, rừng ngập mặn và cỏ biển có tầm quan trọng quốc
gia và quốc tế.
Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm: Sau KBTB vịnh Nha Trang, tháng 10 năm 2003
KBTB Cù Lao Chàm, tỉnh Quảng Nam được chính phủ (Bộ Thủy sản) phối hợp với các
bên liên quan và chính phủ Đan Mạch phối hợp thực hiện thành lập. KBTB Cù Lao
Chàm được thành lập theo mô hình của KBTB vịnh Nha Trang. Dự án có nguồn vốn hỗ
trợ là một triệu đô la, thực hiện trong 3 năm, bắt đầu từ tháng 10/ 2003. KBTB Cù Lao
Chàm có diện tích lớn hơn 5000ha, gồm 8 hòn đảo, với 3.500 dân, sống bằng nghề khai
thác thủy sản là chủ yếu. Về đa dạng sinh học có khoảng 250 loài san hô, hơn 200 loài

cá rạn và các hệ sinh thái tiêu biểu như rạn san hô, thảm cỏ biển [28].
Tháng 12/2005, UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quy chế quản lý KBTB Cù
Lao Chàm, quy định cụ thể về phân vùng chức năng KBTB, chế độ pháp lý cụ thể cho
từng vùng cũng như quy định trách nhiệm phối hợp thực hiện của các sở, ban, ngành,
địa phương trong tỉnh. Ban quản lý KBTB Cù Lao Chàm được thành lập, đơn vị sự
nghiệp thuộc UBND tỉnh Quảng Nam. Công tác quản lý của KBTB Cù Lao Chàm được
tiến hành theo hướng đồng quản lý và xây dựng kế hoạch quản lý tổng hợp cho KBTB
[28].
Khu bảo tồn biển Phú Quốc: được thành lập vào tháng 01 năm 2007, KBTB Phú
Quốc nằm trên hai khu vực: khu phía Đông bắc, Đông nam và khu phía Nam quần đảo

- 17 -


An Thới thuộc huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Trong đó, vùng thảm cỏ biển thuộc
hai xã Hàm Ninh và Bãi Thơm, vùng rạn san hô nằm quanh các hòn của quần đảo An
Thới. Diện tích mặt nước của KBTB Phú Quốc là 26.863,17 ha, trong đó vùng bảo vệ
nghiêm ngặt 2.952,45 ha, vùng phục hồi sinh thái rộng 13.592,95 ha và vùng phát triển
10.317,77 ha. Đặc trưng đa dạng sinh học của KBTB: đã thống kê được 1.079 loài thực
vật bậc cao trên cạn, 150 loài động vật hoang dã, 98 loài rong biển, 89 loài san hô cứng,
19 loài san hô mềm, 1 loài thủy tức hình san hô, 132 loài thân mềm, 9 loài giáp xác, 32
loài da gai, 125 loài cá rạn san hô, 6 loài thú biển trong đó có loài bò biển (Dugong), 1
loài rùa biển (đồi mồi Eretmochelys imbicata) [21].
Khu bảo tồn biển Cồn Cỏ: Nhằm mục đích thành lập KBT loài, sinh vật cảnh
gồm: hệ sinh thái rạn san hô và các loài động thực vật quý hiếm. Năm 2009, KBTB
Cồn Cỏ được thành lập với tổng diện tích KBTB là 4.532 ha bao gồm ba phân khu chức
năng (Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái và phân khu phát
triển) , một vùng phát triển cộng đồng và vành đai KBTB Cồn Cỏ. Về đa dạng sinh học,
hiện đã thống kê được 118 loài thực vật trên cạn, 52 loài rong biển (trong đó có 2 loài
mới cho Bắc Việt Nam), 108 loài san hô cứng, 10 loài san hô mềm và 1 loài thủy tức

hình san hô, 108 loài động vật đáy (thân mềm có 89 loài, da gai có 10 loài, giáp xác có
9 loài), 267 loài cá trong đó có 77 loài thuộc nhóm cá rạn san hô. Các rạn san hô ở khu
bảo tồn biển Cồn Cỏ thuộc loại cấu trúc rạn viền bờ khá điển hình theo kiểu nhóm rạn
hở. Rạn san hô ở đây phát triển tốt, thành phần loài phong phú và độ phủ cao [22].
Khu bảo tồn biển Núi Chúa: Thuộc địa phận tỉnh Ninh Thuận, KBTB Núi Chúa
thuộc một phần của vườn quốc gia Núi Chúa thành lập từ năm 2003 theo quyết định của
thủ tướng chính phủ. Tuy nhiên, phải đến năm 2009 KBTB Núi Chúa mới được thành
lập thông qua dự án “tăng cường năng lực cho bảo tồn biển và cải thiện sinh kế”. Vườn
quốc gia Núi Chúa nằm ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ phần gần cuối của dãy
Trường Sơn chuyển tiếp tới vùng Đông Nam Bộ nên khu hệ động, thực vật ở đây có
mối liên hệ chặt chẽ với hệ động, thực vật của dãy Trường Sơn Nam và vùng Đông
Nam Bộ. Ở đây, đã xác định được 330 loài san hô trong đó có 307 loài san hô cứng tạo
thành vùng rạn nhiều màu sắc phong phú, độc đáo, thuộc 49 chi có độ che phủ trung
bình là 42,6%, trong đó có 14 loài mới và là nơi cư trú cho 92 loài thủy sản quý hiếm.
Theo thống kê của Tổ chức Bảo tồn Quốc tế (WWF), tại Vườn Quốc gia Núi Chúa hiện

- 18 -


có năm trong số bảy loại rùa biển trên thế giới (gồm rùa xanh, vích, đồi mồi, rùa đầu to,
rùa da) [22].
Nhìn chung, các KBTB đang hoạt động ở nước ta đều có hệ sinh thái động, thực
vật phong phú với nhiều loài hải sản quý hiếm, đa dạng sinh học cao. Với việc thành
lập các KBTB thì sự đa dạng sinh học, các nguồn gen quý hiếm của các loài động, thực
vật tại đây sẽ được bảo vệ nghiêm ngặt để đáp ứng các mục tiêu bảo tồn. Để bảo vệ đa
dạng sinh học nói chung và các hệ sinh thái biển nói riêng, cùng với cộng đồng quốc tế
trong chiến lược toàn cầu, ngày 26/5/2010 chính phủ đã ban hành quyết định số 742
QĐ TTG phê duyệt Quy hoạch hệ thống KBTB đến năm 2020 với mục tiêu cụ thể chia
làm hai giai đoạn. Giai đoạn 2010-2015: hoàn thiện hệ thống KBTB Việt Nam; xây
dựng quy hoạch chi tiết, thành lập đưa vào hoạt động thêm 11 KBTB, đồng thời rà soát,

điều chỉnh quy hoạch các KBTB đã đi vào hoạt động. Đến năm 2015, có ít nhất 0,24%
diện tích các vùng biển Việt Nam nằm trong các KBTB và khoảng 30% diện tích của
từng KBTB được bảo vệ nghiêm ngặt. Giai đoạn 2016-2020: tiến hành nghiên cứu, đề
xuất quy hoạch phát triển mở rộng hệ thống khu bảo tồn biển; điều tra, khảo sát và thiết
lập, đưa vào hoạt động một số KBTB mới; tổ chức giám sát nguồn lợi thủy sản, đa dạng
sinh học, hệ sinh thái KBTB, phát triển mô hình quản lý cộng đồng cho cộng đồng dân
cư tại địa phương và các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước tham gia xây dựng và
quản lý KBTB nhằm khai thác, sử dụng các KBTB hiệu quả tạo đà phát triển kinh tế
cho cho cộng đồng dân cư, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái biển [22].
Dự kiến đến năm 2015 nước ta sẽ có thêm 11 KBTB mới là Đảo Trần, Cô Tô
(Quảng Ninh), Bạch Long Vỹ, Cát Bà (Hải Phòng), Hòn Mê (Thanh Hóa), Hải Vân-
Sơn Trà (Thừa Thiên Huế-Đà Nẵng), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Nam Yết (Khánh Hòa),
Phú Quý, Hòn Cau (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu) [22].
Nhìn chung, các KBTB đang hoạt động hiện nay ở Việt Nam đều có hệ sinh thái
động, thực vật biển phong phú với nhiều loài hải sản quý hiếm, tính đa dạng cao. Trong
số các KBTB đang hoạt động hiện nay thì KBTB vịnh Nha Trang được xem là KBTB
có tầm vóc quốc tế vì có số loài tương tự ở trung tâm thế giới về đa dạng san hô ở khu
vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Với tổng diện tích 160 km
2
, vịnh Nha Trang là
KBTB đầu tiên của Việt Nam và đã được quỹ Động vật hoang dã thế giới đánh giá là
khu vực có đa dạng sinh học biển phong phú bậc nhất nước ta [34].
1.2. Khái quát về khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang

- 19 -


1.2.1. Vị trí địa lý
Khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang (trước đây là KBTB Hòn Mun) được thành lập
năm 2001 với sự phối hợp của Bộ thủy sản Việt Nam (nay là Bộ Nông nghiệp và phát

triển nông thôn), UBND tỉnh Khánh Hòa và Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới IUCN
phối hợp thực hiện. Khu bảo tồn biển nằm trong vịnh Nha Trang, trải dài từ 109
o
13’
đến 109
o
22’ kinh Đông và từ 12
o
12’ đến 12
o
18’ vĩ Bắc với diện tích trên 16.000 ha gồm
các đảo Hòn Tre, Hòn Miễu, Hòn Tằm, Hòn Một, Hòn Mun, Hòn Rơm, Hòn Nọc, Hòn
Vung (Hòn Dung), Hòn Cau (Hòn Hố) và vùng nước xung quanh. Hòn Tre là đảo lớn
nhất có diện tích 3.250 ha, Hòn Nọc là đảo nhỏ nhất có diện tích khoảng 4 ha. Nhiệt độ
không khí trung bình năm là 26,4
o
C, thấp nhất vào tháng 1,2 (23,8
o
C) và cao nhất là
vào tháng 5,6 (33,2
o
C). Lượng mưa trung bình năm là 1.441 mm chủ yếu tập trung
trong tháng 9 đến 12. Tháng khô nhất là tháng 7,8. Gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ
tháng 11 đến tháng 2 năm sau, và gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 8 [3].
Vịnh Nha Trang nằm trong khu vực biển Việt Nam có hiện tượng nước trồi vào
mùa gió Tây Nam từ tháng 5 tới tháng 9 làm cho nguồn dinh dưỡng trong môi trường
nước tăng lên tạo nguồn thức ăn đa dạng cho các thủy sinh vật [6].

Hình 1.2: Vịnh Nha Trang
1.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội

KBTB Vịnh Nha Trang có 9 đảo, với 5 khóm đảo có dân cư sinh sống trên 3 đảo
lớn là: Bích Đầm, Đầm Báy và Vũng Ngán nằm trên đảo Hòn Tre; Hòn Một nằm trên
đảo Hòn Một; Trí Nguyên nằm trên đảo Hòn Miễu. Tổng số dân trên đảo khoảng 5.168
người và 1.138 hộ dân, tỉ lệ phân bố nam và nữ tương đối cân bằng nhau. Dân cư phân
bố không đồng đều giữa các khóm đảo (Đầm Báy 76 hộ dân, cụm dân cư Trí Nguyên

- 20 -


có dân số đông nhất 3.253 người và 730 hộ). Số nhân khẩu trung bình trong mỗi hộ
không cao (trung bình là 5 người trên mỗi hộ. Số nhân khẩu trung bình của mỗi hộ trên
các khóm đảo tương tự nhau) [3].
Hoạt động kinh tế chính ở các khóm đảo trong KBTB là khai thác thủy sản, 80%
hoạt động sinh kế chính trong gia đình là khai thác thủy sản. Phần lớn các hộ ngư dân
này không làm thêm kinh tế phụ nên thu nhập rất dễ bị ảnh hưởng bởi kết quả của hoạt
động đánh bắt cũng như việc phân vùng khai thác trong KBTB [23].
Nuôi trồng thủy sản trong vịnh Nha Trang đã bắt đầu từ cuối thập niên 80.
Khoảng 30% số hộ gia đình nuôi trồng thủy sản, đối tượng nuôi ban đầu chủ yếu là cá
mú, cá hồng sau đó là tôm hùm. Số lượng lồng nuôi hải sản trong vịnh Nha Trang tăng
lên rất nhanh đến khoảng năm 2007 nhưng sau giảm đáng kể từ khoảng cuối 2007 do
nguồn bệnh làm chết tôm hùm nuôi. Nghề nuôi trồng thủy sản đã góp phần vào việc
xóa đói giảm nghèo cho cộng đồng dân cư các khóm đảo trong vịnh [33].
Ngoài ra, có sự phối hợp hỗ trợ từ dự án KBTB và các tổ chức, chính quyền ủy
ban nhân dân phường Vĩnh Nguyên trong suốt thời gian từ năm 2001 tới nay với các
hoạt động tạo sinh kế phụ, cho vay vốn làm kinh tế hay đào tạo nghề cho con em trong
khóm đảo (lựa chọn con em trong khóm đảo đi đào tạo nghề ở trường Hoa Sữa). Một số
hoạt động sinh kế phụ đã mang lại hiệu quả cho ngư dân khóm đảo như làm mành ốc ở
khóm đảo Bích Đầm, bơi thuyền du lịch ở Hòn Một, đan lưới thể thao ở Trí Nguyên,
nuôi trồng thủy sản ở các khóm đảo Vũng Ngán, Hòn Một, Trí Nguyên, chăn nuôi ở
Đầm Báy [3].

Sau khi KBTB được thành lập, hoạt động du lịch biển tại KBTB Nha Trang đã và
đang tạo ra những tác động tích cực đến đời sống của một số nhóm cộng đồng dân cư,
nhất là nhóm cộng đồng sống bên trong vịnh. Các nhóm chuyên chở khách du lịch bằng
thuyền thúng đáy kính tại Hòn Một và Trí Nguyên là một ví dụ cụ thể. Thành viên
thuộc các nhóm này đã được tập huấn về cách thức hoạt động, kỹ năng cơ bản trong
giao tiếp Đặc biệt là với sự hỗ trợ về mặt pháp lý của chính quyền địa phương, cụ thể
là Ủy ban Nhân dân phường Vĩnh Nguyên, và của Ban quản lý khu BTB vịnh Nha
Trang về các trang thiết bị cần thiết để phục vụ khách du lịch. Các hoạt động này đã tạo
ra các cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho hộ gia đình vốn bị ảnh hưởng bởi việc hình
thành khu bảo tồn biển, đồng thời nó cũng hỗ trợ làm giảm áp lực khai thác và sự phụ
thuộc của con người vào tài nguyên biển giúp bảo vệ các tài nguyên này tốt hơn [23].

- 21 -


Nhìn chung, trình độ học vấn của người lớn chỉ ở mức cơ bản, hầu hết chỉ ở cấp I.
Họ chỉ biết đọc và biết viết. Ở các khóm đảo đều có trường cấp I. Vì thế, tỷ lệ đi học ở
cấp học này khá cao. Càng lên cao, tỷ lệ số trẻ em nghỉ học càng nhiều, số học sinh ở
độ tuổi cấp 3 đi học ở các trường trung học phổ thông rất ít. Tỷ lệ này được thể hiện
qua các con số thống kê: có 64,5% chủ hộ có trình độ học vấn cấp I, 23,7% có trình độ
cấp II, 2,8% số chủ hộ học tới cấp III và chỉ có 0,8% có trình độ sau phổ thông, còn lại
5% chủ hộ không biết chữ [23].
1.2.3. Hiện trạng môi trường và đa dạng sinh học trong KBTB
Phát triển du lịch biển tại vịnh Nha Trang cũng đã tạo ra một số tác động tiêu cực,
đặc biệt vấn đề rác thải và chất thải/nước thải từ con người. Vấn đề nhận thức và hành
vi đối với rác thải của khách du lịch trong một chừng mực nào đó còn hạn chế đã tạo ra
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường biển, nhất là rác thải là vỏ lon nước ngọt/nước giải
khát, bia và túi ny-lon mà phải mất thời gian rất lâu qua nhiều thế hệ mới bị phân hủy.
Vấn đề nữa là chất thải và nước thải từ con người chủ yếu là người dân sống trên các
đảo và một số ít từ khách du lịch. Vấn đề người dân tự xây nhà vệ sinh cá nhân và một

số được sự hỗ trợ của BQL là một nỗ lực rất lớn đáng được ghi nhận và nhân rộng.
Điều đó đã và đang góp phần làm môi trường sinh hoạt và du lịch trở nên vệ sinh và
văn hóa hơn, giúp thu hút khách du lịch hơn. Diện tích đất sử dụng cho các công trình
công cộng vốn đã hẹp cũng là một vấn đề khó khăn cho BQL vịnh và chính quyền địa
phương. Tuy nhiên, việc lắp đặt một số nhà vệ sinh sinh thái trên đảo, nhất là ở Trí
Nguyên là một nỗ lực rất lớn từ BQL vịnh và Ủy ban Nhân phường Vĩnh Nguyên [23].
Các số liệu quan trắc chất lượng nước biển ven bờ vịnh Nha Trang trong 5 năm
(2004 đến 2008) cho thấy chất lượng môi trường nước ven bờ vịnh Nha Trang ngày
càng được cải thiện. Hầu hết, các thông số ô nhiễm đều có xu thế ngày giảm. Đặc biệt
là hàm lượng chất rắn lơ lửng , coliform có xu thế giảm dần qua các năm. Ngoại trừ,
thông số dầu mỡ khoáng trong nước biển có xu thế gia tăng [33].
Nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường ngày càng được nâng cao. Các
biện pháp quản lý đã được các cơ quan liên quan, chính quyền thành phố Nha Trang
thực thi như quy hoạch nuôi trồng thủy sản hợp lý, nuôi các loài thủy sản thân thiện với
môi trường, đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất trên các khóm đảo có khu dân cư, các khu du
lịch trên đảo đã đầu tư xử lý nước thải, chất thải trước khi thải ra môi trường, đã triển
khai các hoạt động thu gom rác thải từ lồng bè nuôi thủy sản, tại các khu dân cư và khu

- 22 -


du lịch trên các đảo đưa về thành phố Nha Trang, quy định các tàu thuyền du lịch phải
có các hoạt động thu gom rác thải, nước thải hợp vệ sinh…. Tất cả những điều đó đã
giúp cho chất lượng môi trường nước trong vịnh Nha Trang ngày càng được cải thiện
Tuy nhiên, các hoạt động du lịch trên các tuyến đảo trong vịnh Nha Trang đã làm gia
tăng số lượng tàu thuyền tham gia vào hoạt động vận chuyển du khách cũng là một
trong những nguyên nhân làm gia tăng hàm lượng dầu mỡ khoáng (HC) trong nước. Số
liệu quan trắc nhiều năm cho thấy sự gia tăng hàm lượng HC trong nước theo thời gian
(khu vực bãi tắm) [33].


Hình 1.3: Độ phủ cao của san hô sống Porites(cận cảnh) và Montipora spp., Đông Bắc
Hòn Tre [30]
Sự đa dạng thủy sinh vật trong khu bảo tồn vịnh Nha Trang bao gồm đa dạng về
phiêu sinh thực vật với 316 loài rong tảo, trong đó có 48% số loài đặc trưng của vùng
biển nhiệt đới. Về đa dạng về phiêu sinh động vật, theo kết quả nghiên cứu của
Poliacova và cộng sự cho thấy ở vịnh Nha Trang có khoảng 100 loài phiêu sinh động
vật. Về khu hệ sinh vật đáy, đã xác định được 441 loài động vật không xương sống
(trong đó 83 loài mới được ghi nhận tại ven biển Việt Nam, 128 loài mới tại khu vực
vịnh), có 21 loài tôm, 17 loài cua, 70 loài hải tiêu. Động vật nhuyễn thể có 298 loài
chân bụng và 14 loài hai mảnh vỏ (Gogolev, 1994 [11]. Đã phát hiện được 62 loài cá

×