Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

nghiên cứu năng suất các yếu tố tổng hợp nhằm phát triển bền vững các doanh nghiệp tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 82 trang )


































BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



ĐẶNG NGUYÊN DUY




NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT CÁC YẾU TỐ TỔNG HỢP
NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC DOANH NGHIỆP
TỈNH KHÁNH HÒA




LUẬN VĂN THẠC SĨ









KHÁNH HÒA - 2014











BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG



ĐẶNG NGUYÊN DUY



NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT CÁC YẾU TỐ
TỔNG HỢP NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CÁC DOANH NGHIỆP TỈNH KHÁNH HÒA


LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60340102




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ KIM LONG


KHÁNH HÒA - 2014
i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nêu trong
luận văn là trung thực. Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng.

Tác giả luận văn


Đặng Nguyên Duy



















ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô
trong khoa Kinh tế trường Đại học Nha Trang đã quan tâm giúp đỡ chỉ bảo tận tình
trong quá trình học tập và thực hiện đề tài. Nhờ đó tôi đã tiếp thu được nhiều ý kiến
đóng góp và nhận xét quý báu của các thầy cô.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Lê Kim Long đã trực tiếp hướng
dẫn, định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất trong quá trình công tác cũng như thực hiện luận văn.
Trên hết tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến gia đình và cơ
quan đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể hoàn thành tốt mọi công việc trong quá
trình thực hiện luận văn. Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn của mình tới bạn bè
và đồng nghiệp, luôn quan tâm, chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện
luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và bạn bè.
Học viên


Đặng Nguyên Duy











iii

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG HÌNH VẼ vi
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.1 Các khái niệm 7
1.1.1 Năng suất 7
1.1.2 Năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) 10
1.1.3 Phát triển bền vững cho doanh nghiệp 11
1.2 Phương pháp tính tốc độ tăng TFP 12
1.2.1 Theo phương pháp hoạch toán. 12
1.2.2 Theo phương pháp dùng hàm Cobb-Douglas. 13
1.3 Các yếu tố chiến lược tác động tới tăng TFP 14
1.4 Vai trò và tác dụng của TFP đối với doanh nghiệp 16
1.5 Bài học kinh nghiệm 17
1.5.1 Kinh nghiệm của doanh nghiệp 17
1.5.2 Kinh nghiệm của địa phương. 19
1.5.3 Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực 19

CHƯƠNG 2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
2.1 Dữ liệu 22
2.1.1 Thu thập dữ liệu GDP và Lao Động(L) 22
2.1.2 Ước lượng dữ liệu Vốn (K). 23
2.1.3 Thống kê mô tả dữ liệu 27
2.2 Phương pháp nghiên cứu 28
2.2.1 Xây dựng mô hình lượng hóa. 28
2.2.2 Quy trình phân tích đánh giá mô hình 29
2.2.2.1 Phương pháp ước lượng α, β 29
2.2.2.3 Thực hiện các kiểm định 29
2.2.3 Xác định đóng góp của từng yếu tố đối với tốc độ tăng trưởng GDP 30
iv

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 32
3.1 Khái quát tình hình phát triển kinh tế tỉnh Khánh Hòa 32
3.1.1 Điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội tỉnh Khánh Hòa 32
3.1.1.1 Một số nét chung của tỉnh Khánh Hòa 32
3.1.1.2 Một số nét đặc thù của tỉnh Khánh Hòa 32
3.1.2 Đánh giá tình hình phát triển kinh tế xã hội tỉnh Khánh Hòa 36
3.1.2.1 Đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế 36
3.1.2.2 Một số thành tựu chủ yếu 39
3.2 Xây dựng hàm sản xuất cho tỉnh Khánh Hòa 42
3.2.1 Ước lượng mô hình. 42
3.2.2 Phân tích các kiểm định 43
3.2.2.1 Kiểm định hệ số hồi quy. 43
3.2.2.2 Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình. 43
2.2.2.3 Kiểm định hiện tượng cộng tuyến của các biến độc lập 44
3.2.2.4 Kiểm định phương sai số dư không đổi 44
3.2.3 Đánh giá kết quả hồi quy 45
3.2.3.1 Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa(Unstandardized Coefficients) 45

3.2.3.2 Hệ số hồi quy chuẩn hóa(Standardized Coefficients). 45
3.3 Đóng góp của các yếu tố cơ bản đối với phát triển kinh tế Khánh Hòa 46
3.3.1 Đóng góp của vốn đối với tăng trưởng kinh tế của Khánh Hòa 46
3.3.2 Đóng góp của lao động đối với tăng trưởng của tỉnh Khánh Hòa 54
3.3.3 Đóng góp của TFP đến sự tăng trưởng của tỉnh Khánh Hòa 56
CHƯƠNG 4. GỢI Ý GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CHO CÁC
DOANH NGHIỆP TỈNH KHÁNH HÒA TRONG DÀI HẠN 59
4.1 Quan điểm phát triển kinh tế của tỉnh Khánh Hòa 59
4.2 Gợi ý giải pháp phát huy các nguồn lực cho phát triển kinh tế 60
4.2.1 Nhóm các giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư 61
4.2.2 Nhóm các giải pháp phát triển nguồn nhân lực 64
4.2.3 Nhóm các giải pháp phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật 66
4.2.4 Nhóm các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp 69
4.3 Một số hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB The Asian Development Bank,Ngân hàng Phát triển châu Á
CPI Consumer Price Index, Chỉ số giá tiêu dùng
DIW Viện nghiên cứu kinh tế của Cộng hoà liên bang Đức
EX Export, Xuất khẩu
GDP Gross Domestic Product, Tổng sản phẩm quốc nội
GNI Gross Nationnal Income, Tổng thu nhập quốc dân
GNP Gross Nationnal Product, Tổng sản phẩm quốc dân
GO Gross Output, Tổng giá trị sản xuất
PCI Provincial Competitiveness Index,Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
FDI Foreign Direct Investment, Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ICOR Incremental capital-output ratio, Tỷ lệ gia tăng vốn trên sản lượng

IM Import, Nhập khẩu
KH&CN Khoa học và công nghệ
SNA The System of National Accounts, Hệ thống tài khoản quốc gia
OEDC Organization for Economic Co-operation and development, Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế
OLS Ordinary Least Square, Phương pháp bình phương nhỏ nhất
ODA Official Development Assistance,Hỗ trợ phát triển chính thức
TFP Total Factor Productivities, Năng suất nhân tố tổng hợp
USD United States Dollar, Đồng Đô la Mỹ
VA Value Added, Giá trị gia tăng
VNĐ Đồng Việt Nam
XNK Xuất nhập khẩu
WB World Bank, Ngân hàng Thế giới
WTO World Trade Organisation, Tổ chức thương mại thế giới
vi

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
Danh mục bảng :
Bảng 2.1: Bảng số lượng lao động và GDP 23
Bảng 2.2: Vốn đầu tư tỉnh Khánh hòa giá so sánh năm 1994 24
Bảng 2.3 : Bảng trữ lượng vốn tỉnh Khánh Hòa giá so sánh năm 1994 26
Bảng 2.4 : Thống kê mô tả dữ liệu 27
Bảng 3.1 : Tốc độ tăng trưởng GDP,K,L theo giá cố định năm 1994 37
Bảng 3.2 : GDP giá so sánh 1994 chia theo ngành kinh tế thời kỳ 2001-2011 37
Bảng 3.3 : Tỷ trọng đóng góp GDP giá so sánh 1994 chia ngành kinh tế thời kỳ 2001-
2011 38
Bảng 3.4 : Kim ngạch xuất nhập khẩu và thu ngân sách nhà nước 40
Bảng 3.8 : Hệ số kiểm định Spearman 45
Bảng 3.9 : Thứ tự đóng góp của các yếu tố 46
Bảng 3.10 : Đóng góp của Vốn, Lao động và Năng suất nhân tố tổng hợp 46

vào tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh Khánh Hòa 46
Hình 3.2 : Biểu đồ phản ảnh đóng góp của Vốn, Lao động, Năng suất nhân tố tổng hợp
vào tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh Khánh Hòa 47
Bảng 3.11: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo khu vực kinh tế 49
Bảng 3.12: Tỷ lệ vốn đầu tư phân theo khu vực kinh tế 49
Bảng 3.13. Tỷ lệ đầu tư(I)/∆GDP của Khánh Hòa 51
Bảng 3.15: Giá trị và tốc độ tăng năng suất lao động giai đoạn 1997-2012 55
Bảng 3.16 : Trung bình đóng góp TFP, K,L vào tăng trưởng GDP 57
Bảng 3.17 : Trung bình tỷ trọng đóng góp TFP, K,L vào tăng trưởng GDP 57









vii

Danh mục hình :
Hình 2.1 : Biểu đồ lao động tỉnh Khánh Hòa 27
Hình 2.2 : Biểu đồ GDP, Vốn đầu tư và trữ lượng vốn tỉnh Khánh Hòa 28
Hình 3.1 : Tỷ trọng đóng góp GDP giá so sánh 1994 chia ngành kinh tế thời kỳ 2001 -
2011 38
Hình 3.3 : Biểu đồ phản ảnh xu hướng đóng góp Vốn vào tốc độ tăng trưởng GDP của
tỉnh Khánh Hòa 48
Hình 3.4 : Cơ cấu vốn đầu tư của các khu vực kinh tế 49
Hình 3.5. Tỷ lệ đóng góp vốn của các khu vực kinh tế 50
Hình 3.6: Hệ số ICOR Việt Nam 51

Hình 3.7 : Biểu đồ phản ảnh xu hướng đóng góp của Vốn, Lao động, TFP vào tốc độ
tăng trưởng GDP của tỉnh Khánh Hòa 56

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Để có tăng trưởng sản xuất, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, doanh
nghiệp cần khai thác triệt để sự tăng giá trị năng suất các yếu tố tổng hợp. Đây là yếu
tố làm tăng trưởng bền vững cho các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp
địa phương chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Theo phân tích, đánh giá của nhiều chuyên
gia kinh tế, nguồn lực hữu hình ở Việt Nam về cơ bản hiện đã được khai thác triệt để :
Vốn đã được huy động sử dụng trong khi lãi suất ngân hàng cao nên lợi nhuận thấp và
chi phí lao động đã giảm tối đa với chi phí nhân công thấp. Nhưng đối với năng suất,
năng suất các yếu tố tổng hợp còn có khả năng giúp nâng cao giá trị sản xuất hàng hoá
cho doanh nghiệp. Việc phân tích và đánh giá năng suất, năng suất các yếu tố tổng hợp
nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thay đổi quá trình tổ chức sản xuất, kinh doanh để đẩy
mạnh sản xuất đem lại giá trị gia tăng cao phục vụ quá trình phát triển kinh tế xã hội
của địa phương.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của mỗi quốc gia hay mỗi địa phương được tạo
ra bởi các đơn vị sản xuất kinh doanh (DMU – Decision Making Units), mà tiêu biểu
là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tiểu thủ công nghiệp, hộ sản xuất. Tăng
trưởng kinh tế đơn giản được xem là sự gia tăng của GDP, hay sự gia tăng số lượng
các đơn vị sản xuất kinh doanh cũng như số lượng và chất lượng các sản phẩm đầu ra
của mỗi đơn vị sản xuất, qua thời gian. Do đó, GDP của địa phương (tỉnh/thành) phản
ảnh đầu ra của các DMU. Việc gia tăng đầu ra trong sản xuất kinh doanh không chỉ
phụ thuộc vào việc tăng thêm về số lượng của đầu vào mà còn phụ thuộc vào cả chất
lượng, hiệu quả sử dụng của các yếu tố đầu vào là vốn và lao động. Cùng với lượng
đầu vào như nhau, lượng đầu ra có thể lớn hơn nhờ vào việc cải tiến chất lượng của lao
động, của vốn và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực này, điều đó được phản ảnh
qua chỉ tiêu năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP). Đối mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh ,

TFP là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và sự tồn tại lâu dài , là cơ sở
để nâng cao thu nhập, tạo môi trường và điều kiện làm việc tốt cho người lao động.
Đối với một địa phương (bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh), gia tăng TFP
giúp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế thông qua sử dụng một cách hiệu quả các
yếu tố đầu vào là “vốn” và “lao động” để gia tăng kết quả đầu ra.


2

Khánh Hòa có vị trí địa kinh tế khá thuận lợi, có tiềm năng lớn về kinh tế biển
đặc biệt là tiềm năng du lịch và dịch vụ vận tải biển. Quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội
tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết
định số 251/2006/QĐ-TTg ngày 31/10/2006. Qua hơn 5 năm thực hiện trong điều kiện
bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều biến động, một số các công trình lớn của quốc
gia đang được đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa (Khu kinh tế Vân Phong,
cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong; sân bay quốc tế Cam Ranh; thành phố Nha
Trang được nâng cấp lên đô thị loại I ) đã và đang tạo ra động lực mới, đặt ra yêu cầu
cần có những điều chỉnh định hướng quy hoạch để Khánh Hòa phát triển tăng tốc hơn
nữa, đạt mục tiêu cao hơn, toàn diện hơn, đưa các doanh nghiệp của Khánh Hòa nói
riêng và tỉnh Khánh Hòa nói chung vươn tới tầm cao mới.
Năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) chỉ tiêu phản ảnh kết quả sản xuất mang
lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động, nhờ vào tác động của các nhân tố
đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao
động…Chỉ tiêu tốc độ tăng TFP phản ảnh toàn diện về chiều sâu của quá trình sản
xuất, kinh doanh. Chỉ có tăng trưởng kinh tế nhờ vào tăng TFP mới là sự tăng trưởng
có tính chất bền vững và ổn định. Nhận thức được tầm quan trọng của TFP, nhiều nhà
kinh tế đã quan tâm nghiên cứu chỉ tiêu này cho các tỉnh trong nước, như: Hưng Yên,
Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ Tuy nhiên, với mỗi tỉnh có những đặc thù kinh tế riêng và
mỗi nghiên cứu sử dụng phương pháp, dữ liệu khác nhau nên cho ra kết quả khác
nhau.

Khánh Hòa là một tỉnh ven biển duyên hải Nam trung Bộ mà nông nghiệp
chiếm vai trò nhỏ, dịch vụ đóng vai trò lớn. Và với đặc trưng riêng về địa lý với bờ
biển dài và nhiều vịnh thuận lợi việc đầu tư và thu hút đầu tư các lĩnh vực dịch vụ du
lịch và khai thác biển. Hiện Khánh Hòa có hơn 7.000 doanh nghiệp, giá trị sản xuất
chiếm khoảng 70% GDP của Khánh Hòa. Đây là nguồn động lực chính để tạo ra sự
tăng trưởng và phát triển của Khánh Hòa trong tương lai. Với đặc trưng của nền kinh
tế Việt Nam hiện tại, việc nghiên cứu TFP của các doanh nghiệp để đề xuất các giải
pháp và chính sách nhằm phát triển kinh tế tỉnh bền vững trong tương lai là một yêu
cầu cấp bách.
Do giới hạn về điều kiện dữ liệu và thời gian, nghiên cứu này sẽ sử dụng dữ
liệu tổng hợp của toàn tỉnh để nghiên cứu và đưa ra cái nhìn khái quát chung về sự


3

biến động của TFP cho toàn tỉnh qua thời gian. Sự biến động của TFP chung toàn tỉnh
được sử dụng để đại diện cho sự biến động của chỉ số này cho khối doanh nghiệp do
sự biến động về TFP của hộ sản xuất là ít thay đổi qua thời gian. Qua đó, kết quả
nghiên cứu giúp chính quyền tỉnh Khánh Hòa đánh giá chất lượng tăng trưởng của các
doanh nghiệp là cần thiết nhằm giúp lãnh đạo của các doanh nghiệp và chính quyền
tỉnh Khánh Hòa có cái nhìn cụ thể hơn về thực trạng tăng trưởng kinh tế trong thời
gian qua, từ đó hoàn thiện các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế một cách ổn
định và bền vững. Do đó, tác giả chọn đề tài: “Nghiên cứu năng suất các yếu tố tổng
hợp nhằm phát triển bền vững các doanh nghiệp tỉnh Khánh Hòa” làm luận văn
tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả nghiên cứu: “Nghiên cứu năng
suất các yếu tố tổng hợp nhằm phát triển bền vững các doanh nghiệp tỉnh
Khánh Hòa” để giải quyết những vấn đề sau đây:
- Tính toán trữ lượng vốn (K) cho Khánh Hòa; Tính toán chỉ số TFP cho

Khánh Hòa
- Phân tích sự đóng góp của các yếu tố Vốn, Lao động và TFP vào sự tăng
trưởng GDP của Khánh Hòa
- Gợi ý các giải pháp nhằm phát triển bền vững các doanh nghiệp của tỉnh
Khánh Hòa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Là TFP và các yếu tố liên quan để tính toán TFP như vốn, lao động.
b. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống số liệu thống kê tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 1997 -2012,
Luận văn tập trung phân tích các yếu tố vốn, lao động và tốc độ tăng TFP trong giai
đoạn 1997- 2012 của bàn tỉnh Khánh Hòa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp tính toán là (i) Phương pháp ước lượng trữ lượng vốn (K); (ii)
Phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS -Ordinary Least Square) để ước lượng hàm
sản xuất và tính toán sự ảnh hưởng và đóng góp của Vốn, Lao động và TFP đến tăng


4

trưởng GDP của Khánh Hòa; (iii) Phương pháp dùng hàm Cobb-douglas để tính tốc độ
tăng năng suất nhân tố tổng hợp; (iv) Phương pháp thống kê mô tả.
5. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá phương pháp ước lượng trữ lượng vốn (K) của tỉnh.
- Hệ thống hóa khái niệm về năng suất và năng suất nhân tố tổng hợp. Các yếu
tố chiến lược tác động đến tăng TFP. Các phương pháp tính tốc độ tăng TFP.
- Trong điều kiện số liệu thống kê ở các địa phương có thể thu thập được là 16
năm, luận văn đã xây dựng hàm sản xuất của tỉnh Khánh Hòa, đồng thời ứng dụng để
tính được tốc độ tăng TFP của tỉnh Khánh Hòa.
6. Tổng quan các nghiên cứu trước

Năng suất các yếu tố tổng hợp được đề cập nhiều trên các phương tiện thông tin
đại chúng và các văn kiện của chính phủ trong thời gian gần đây. Cụ thể, chỉ tiêu này
được đề cập đến trong mục tiêu của các chương trình, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia hay các địa phương. Vì TFP là một chỉ tiêu phản ảnh chất lượng phát
triển kinh tế xã hội của quốc gia, của địa phương và đặt biệt là phản ảnh nội lực của
các doanh nghiệp nên được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, phần
lớn các nghiên cứu chỉ tập trung vào sự biến động TFP của quốc gia hay một tỉnh.
Nhược điểm của các nghiên cứu này là chưa phản ảnh sự liên kết giữa TFP của một
tỉnh được tác động và ảnh hưởng trực tiếp từ TFP của các doanh nghiệp trong tỉnh vì
sự phát triển doanh nghiệp là động lực quan trọng tạo ra tăng trưởng GDP của tỉnh.
Trong đó có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu, như sau:
- Đề tài khoa học cấp tổng cục thống kê do GS.TS Tăng Văn Khiêm làm chủ
nhiệm (Tăng Văn Khiêm, 2005), “Nghiên cứu tính chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất các
yếu tố tổng hợp ở Việt Nam’. Trong đề tài này, nêu khái niệm về năng suất và năng
suất nhân tố tổng hợp, phương pháp tính tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp. Đồng
thời ứng dụng tính tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp của công nghiệp Việt Nam
và trong toàn nền kinh tế quốc dân.

- Tháng 8 năm 2010, Trung tâm thông tin – tư liệu, Viện nghiên cứu quản l ý
kinh tế trung ương, xuất bản chuyên đề ‘Nâng cao tỷ trọng và tác dụng của năng suất
nhân tố tổng hợp’. Trong chuyên đề này, nêu khái niệm về năng suất và năng suất
nhân tố tổng hợp(TFP), đánh giá thực trạng năng suất của Việt Nam và đề xuất một số


5

giải pháp để nâng cao tỷ trọng và tác dụng của TFP.
- Phan Nguyễn Khánh Long (Phan Nguyễn Khánh Long, 2012) đánh giá tăng
trưởng kinh tế của tỉnh Thừa Thiên-Huế dưới góc độ năng xuất các nhân tố sản xuất
bằng phương pháp hàm sản xuất Cobb-Douglas với hai yếu tố đầu vào là vốn và lao

động. Kết quả, là nếu vốn tăng 1% thì GDP sẽ tăng 0,474%, nếu lao động tăng 1% thì
GDP tăng 0,526%. Mặc dù hệ số đóng góp của vốn thấp hơn của lao động nhưng tỷ
phần đóng góp của vốn vào tăng trưởng lại rất cao. Điều đó cho thấy, tăng trưởng của
Thừa Thiên Huế chủ yếu dựa vào vốn đầu tư. Hạn chế của nghiên cứu này là sử dụng
chuổi dữ liệu trong 10 năm nên kết quả sẽ bị khuyết tật.
- Đặng Hoàng Thống và Võ Thành Danh (Đặng Hoàng Thống và Võ Thành
Danh, 2011) phân tích các yếu tố tác động đến tăng trưởng của thành phố Cần Thơ dựa
trên cách tiếp cận tổng năng suất các yếu tố. Bằng cách sử dụng phương pháp hạch
toán để xác định tỉ phần đóng góp của vốn và lao động, kết quả cho thấy vốn đóng góp
chủ yếu, lao động và TFP đóng góp rất ít vào tăng trưởng GDP của TP. Cần Thơ. Hạn
chế của nghiên cứu này là sử dụng kết quả có sẵn về tỉ phần thu nhập của vốn ở Việt
Nam từ nghiên cứu của Trần Thọ Đạt (Trần Thọ Đạt, 2005) để áp dụng cho TP. Cần
Thơ. Do đó, có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của số liệu tính toán.
- Nguyễn Quang Hiệp (Nguyễn Quang Hiệp, 2013) sử dụng hàm sản xuất
Cobb-Douglas để đánh giá các nguồn tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hưng Yên. Kết quả
tính toán cho thấy, động lực chính trong tăng trưởng GDP của tỉnh Hưng Yêu trong
giai đoạn 2005 – 2012 là yếu tố vốn; trong khi đó, đóng góp của lao động khá thấp,
còn TFP thì không có đóng góp giai đoạn 2005 – 2009. Tuy nhiên, đóng góp của TFP
được cải thiện từ năm 2010. Do dữ liệu sử dụng của mô hình hồi quy chỉ có 8 năm nên
kết luận chưa thực sự đáng tin cậy.
Tất cả các nghiên cứu trên đều tập trung xây dựng mô hình kinh tế địa phương
và đánh tình hình tăng trưởng kinh tế với góc nhìn các yếu tố năng suất nhân tố tổng
hợp. Chưa có nghiên cứu nào quan tâm đến mối liên kết giữa TFP của một tỉnh với
TFP của các doanh nghiệp đang hoạt động trong tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn.
Tên đề tài: “ Nghiên cứu năng suất các yếu tố tổng hợp nhằm phát triển bền
vững các doanh nghiệp tỉnh Khánh Hòa”.




6

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được chia làm 4 chương:
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
Chương 2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.
Chương 4. GỢI Ý GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CHO CÁC
DOANH NGHIỆP TỈNH KHÁNH HÒA TRONG DÀI HẠN.



7

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Các khái niệm
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, bất cứ doanh nghiệp nào
cũng phải dựa vào sự tăng trưởng của chính mình. Sự tăng trưởng thể hiện bởi khối
lượng tài sản của doanh nghiệp không ngừng tăng lên, bằng cách sử dụng ngày càng
tốt hơn các yếu tố đầu vào và thu được đầu ra ngày càng nhiều hơn và có chất lượng
tốt hơn. Nó được hiểu là làm sao để tạo ra nhiều đầu ra hơn với lượng đầu vào hạn
chế. Cải tiến năng suất cho phép tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống cho xã hội.
Đối với các doanh nghiệp, nó làm cho khả năng cạnh tranh được tăng lên thông qua
việc sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn và tạo ra nhiều đầu ra hơn. Cải tiến năng suất
còn có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân trong xã hội với cách hiểu tạo ra nhiều của cải
hơn, thu nhập cao hơn và chất lượng cuộc sống được cải thiện tốt hơn.
1.1.1 Năng suất
Theo quan điểm truyền thống
Theo khái niệm năng suất cổ điển thì năng suất có nghĩa là năng suất lao động
hoặc hiệu suất sử dụng các nguồn lực. Vì khái niệm năng suất xuất hiện trong một

bối cảnh kinh tế cụ thể, nên trong giai đoạn đầu sản xuất công nghiệp, yếu tố lao
động là yếu tố được coi trọng nhất. Ở giai đoạn này, người ta thường hiểu năng suất
đồng nghĩa với năng suất lao động. Qua một thời kỳ phát triển, các nguồn lực khác
như vốn, năng lượng và nguyên vật liệu cũng được xét đến trong khái niệm năng suất
để phản ánh tầm quan trọng và đóng góp của nó trong doanh nghiệp. Quan điểm này
đã thúc đẩy việc phát triển các kỹ thuật nhằm giảm bớt lãng phí và nâng cao hiệu quả
sản xuất. Năng suất ở giai đoạn này có nghĩa là sản xuất “nhiều hơn” với “chi phí
thấp hơn.
Phạm trù năng suất có lịch sử phát triển lâu đời, và luôn được bổ sung về nội
dung và hoàn thiện về phương pháp phân tích nhằm phù hợp với những thay đổi về
kinh tế - xã hội. Trong “Tiếp cận mới về bản chất năng suất và phân tích nó” của Lê
Dân (Lê Dân, 2007) có nêu một số khái niệm về năng suất như sau :
Theo Từ điển Oxford: Năng suất là tính hiệu quả của hoạt động sản xuất được
đo bằng việc so sánh giữa khối lượng sản xuất ra với thời gian hoặc nguồn lực được sử
dụng để tạo ra nó.


8

Theo Từ điển kinh tế học hiện đại của MIT: Năng suất là đầu ra trên một đơn vị
đầu vào được sử dụng. Tăng năng suất xuất phát từ tăng tính hiệu quả của bộ phận
vốn, lao động. Cần thiết phải đo năng suất bằng đầu ra thực tế. Nhưng rất ít khi tách
riêng biệt được năng suất của nguồn vốn và lao động.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): Một cách tổng quát, năng
suất được định nghĩa là tỷ số giữa số lượng đầu ra với số lượng đầu vào được sử dụng.
Theo Tổ chức Năng suất Châu Á (APO): Năng suất là mối liên hệ giữa đầu ra
với số lượng nguồn lực hay đầu vào như lao động, vật liệu, máy móc, năng lượng…
dùng để sản xuất.
Theo Bộ Lao động của Mỹ: Năng suất là chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế
trong việc biến đầu vào thành đầu ra.

Theo Trung tâm Năng suất Nhật Bản: Năng suất là đại lượng đo bằng tỷ số giữa
đầu ra và đầu vào, nhưng đầu ra luôn được đo bằng giá trị tăng thêm.
Theo các nhà kinh tế New Zeland: Năng suất là khả năng của nền kinh tế trong
việc biến đầu vào thành đầu ra.
Như vậy, một cách khái quát năng suất phản ảnh mối quan hệ tỷ số giữa đầu ra
có ích với đầu vào được sử dụng. Phạm trù năng suất theo cách tiếp cận này gần giống
với phạm trù hiệu quả của một số các nhà kinh tế Việt Nam. Đầu vào có thể tính theo
số lao động, vốn hay thời gian lao động hao phí, chi phí thường xuyên. Đầu ra thường
dùng tổng sản phẩm quốc nội đối với nền kinh tế, địa phương và giá trị tăng thêm đối
với ngành, doanh nghiệp. Năng suất có thể tính cho nền kinh tế, địa phương, ngành
hay doanh nghiệp, từng hoạt động…
Năng suất theo cách tiếp cận mới
Trong nền kinh tế thị trường, dưới sự tác động của kinh tế tri thức, quan niệm
và nhận thức về năng suất thay đổi nhanh chóng. Vì thế cần phải tiếp cận mới về bản
chất, đo lường và đánh giá sự biến động của năng suất.
Năng suất theo cách tiếp cận mới không chỉ giới hạn trong hoạt động sản xuất
mà còn bao gồm cả những hoạt động xã hội (Nguyễn Đình Phan, 1998). Phải có sự kết
hợp hài hoà giữa tăng năng suất và tăng lợi ích xã hội. Năng suất trở thành phạm trù
động có quan hệ biện chứng với nhiều yếu tố, nhiều giai đoạn. Tăng năng suất là vừa
tăng số lượng vừa tăng chất lượng sản phẩm. Tăng năng suất có định hướng quan tâm
đầu ra, điều này có nghĩa không chỉ chú tâm đến sử dụng tiết kiệm các yếu tố đầu vào


9

mà nhấn mạnh kết quả đầu ra. Tăng năng suất phải đảm bảo hạn chế gây ô nhiễm môi
trường, không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Tăng năng suất phải đảm bảo nâng cao
chất lượng cuộc sống, cải thiện môi trường làm việc.
Hiện nay, phạm trù năng suất liên quan đến nhiều mặt khác nhau. Từ vấn đề hạ
thấp chi phí và nâng cao kết quả và chất lượng sản phẩm, năng suất còn liên quan đến

vấn đề xã hội như tạo công ăn việc làm, giảm nghèo đói, cải thiện chất lượng cuộc
sống, bảo toàn nguồn lực và bảo vệ môi trường. Khi một doanh nghiệp quan tâm đến
nâng cao năng suất thì mức độ ảnh hưởng của nó sẽ vượt ra phạm vi của doanh nghiệp,
ảnh hưởng đến nền kinh tế và dân cư. Hay nói cách khác, nâng cao năng suất sẽ ảnh
hưởng nhiều mặt đến mọi cấp độ từ nền kinh tế, đến doanh nghiệp và dân cư.
Cho đến nay, một định nghĩa về năng suất theo cách tiếp cận mới coi là cơ sở
khoa học và hoàn chỉnh nhất là định nghĩa do Ủy ban Năng suất thuộc Hội đồng
Năng suất chi nhánh Châu Âu đưa ra. Định nghĩa này đã được các nước thừa nhận và
áp dụng, đó là “năng suất là phong cách nhằm tìm kiếm sự cải thiện không ngừng
những gì đang tồn tại; đó là sự khẳng định rằng người ta có thể làm cho ngày hôm
nay tốt hơn ngày hôm qua và ngày mai sẽ tốt hơn ngày hôm nay; hơn thế nữa, nó đòi
hỏi sự nổ lực không ngừng để kích thích các hoạt động kinh tế với những điều kiện
luôn luôn thay đổi và việc áp dụng các l ý thuyết và phương pháp mới “ (Trịnh Minh
Tâm và các cộng sự ,2009).
Khái niệm năng suất theo cách tiếp cận mới phản ảnh phản ảnh đồng thời tính
hiệu quả, hiệu lực, chất lượng, đổi mới của quá trình sản xuất và chất lượng cuộc
sống ở mọi cấp độ khác nhau. Năng suất như vậy được hình thành với sự đóng góp
của tất cả các hoạt động trong một chuổi các giai đoạn liên quan từ nghiên cứu, khảo
sát, thiết kế, tiếp thị, sản xuất và cung ứng cho người tiêu dùng với những nội hàm
mới như vậy, năng suất đã trở thành công cụ quản l ý, một thước đo của sự phát triển.
Như vậy, năng suất còn được hiểu là một tư duy hướng tới thói quen cải tiến
và vận dụng những cách thức biến mong muốn thành các hành động cụ thể. Theo
cách tiếp cận này, năng suất là không ngừng cải tiến để vươn tới sự tốt đẹp hơn.
Ngày hôm nay phải tốt hơn ngày hôm qua và ngày mai sẽ tốt hơn ngày hôm nay.
Điều này có thể thực hiện được nhờ vào các nỗ lực cá nhân và tập thể không ngừng
nâng cao kiến thức, kỹ năng, kỷ luật, các hoạt động phát huy tinh thần sáng tạo cũng
như việc quản lý công việc tốt hơn, phương pháp làm việc tốt hơn, giảm thiểu chi


10


phí, giao hàng đúng hạn, hệ thống và công nghệ tốt hơn để đạt được sản phẩm và
dịch vụ chất lượng cao, thị phần lớn hơn và mức sống cao hơn.
1.1.2 Năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP)
Khi đo lường năng suất có thể xem xét năng suất cho từng nhân tố, nhóm hay
toàn bộ các nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất. Việc đo lường năng suất cho từng
nhân tố thì đơn giản nhưng sử dụng để phân tích thì rất khó. Chẳng hạn đầu tư vào
máy móc, còn lao động giữ nguyên, về lượng lẫn chất thì năng suất lao động vẫn tăng.
Khi nghiên cứu các số liệu thống kê, các nhà phân tích kinh tế đã phát hiện ra rằng: tại
các nước phát triển, trong tốc độ tăng lên của kết quả sản xuất, sau khi trừ đi phần
đóng góp của các đầu tư thêm thì vẫn còn lại một phần “dôi ra ” đáng kể và phần ‘dôi
ra ’ này tùy thuộc vào quá trình áp dụng ngày càng nhiều các tiến bộ khoa học, công
nghệ, tri thức quản lý hiện đại. Hiểu một các khái quát thì phần ‘dôi ra’ này chính là
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP- Total Factor Productivity).
Trong tác phẩm “Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại Châu Á- Thái Bình
Dương”, Tác giả Trần Văn Thọ có viết “ Phần còn lại (trong kết quả sản xuất tăng lên
sau khi trừ đi phần đóng góp do yếu tố đầu tư thêm về lao động, tư bản, tài nguyên… )
là hiệu quả tổng hợp không giải thích được bằng sự gia tăng của các yếu tố sản xuất
và được xem là kết quả của các yếu tố liên quan đến hiệu xuất. Nền kinh tế phát triển
càng có hiệu suất thì phần còn lại này càng lớn. Trong phương pháp tính toán về sự
tăng trưởng, phần còn lại này được gọi là năng suất nhân tố tổng hợp” (Trần Văn
Thọ, 1997).
Còn trong Báo cáo chỉ tiêu năng suất Việt Nam 2006-2007 của Trung tâm Năng
suất Việt Nam : “TFP là phản ảnh sự đóng góp của các yếu tố vô hình như kiến thức,
kinh nghiệm, k ỹ năng lao động, cơ cấu lại nền kinh tế hay hàng hóa-dịch vụ, chất
lượng vốn đầu tư mà chủ yếu là chất lượng thiết bị công nghệ và kỹ năng quản
lý…Tác động của nó không trực tiếp như các năng suất bộ phận mà phải thông qua sự
biến đổi của các yếu tố hữu hình,đặt biết là lao động và vốn ”(Viện nghiên cứu quản
l ý kinh tế trung ương, 2010)
Tóm lại, TFP là chỉ tiêu phản ảnh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn và lao động, nhờ vào tác động của các nhân tố đổi mới công nghệ,
hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động…Theo đó, chúng ta
có thể chia kết quả sản xuất thành ba phần: (i) phần do vốn tạo ra, (ii) phần do lao


11

động tạo ra;(iii) và phần do nhân tố năng suất tổng hợp tạo ra. Như vậy, không nhất
thiết phải lúc nào cũng phải tăng vốn và lao động để tăng đầu ra, mà có thể có đầu ra
lớn hơn bằng cách sử dụng tối ưu nguồn lao động và vốn, cải tiến quá trình công nghệ,
trình độ quản l ý, trong đó các đầu vào được phối hợp sử dụng tốt nhất. Do đó, tăng
TFP là chỉ tiêu phản ảnh đích thực khái quát về hiệu quả sử dụng vốn và lao động, là
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng cũng như sự phát triển bền
vững nền kinh tế và là căn cứ để phân tích hiệu quả kinh tế vĩ mô và đánh giá tiến bộ
khoa học công nghệ của mỗi doanh nghiệp, ngành, địa phương, quốc gia. TFP có thể
thay đổi do một số nguyên nhân chủ yếu như thay đổi chất lượng nguồn lao động, thay
đổi cơ cấu vốn, thay đổi công nghệ, phân bổ lại nguồn lực và trình độ quản lý.
Chỉ tiêu tốc độ tăng TFP phản ảnh toàn diện về chiều sâu của quá trình sản
xuất, kinh doanh. Chỉ có tăng trưởng kinh tế nhờ vào tăng TFP mới là sự tăng trưởng
có tính chất bền vững và ổn định. Chỉ tiêu tốc độ tăng TFP cũng chính là sự phản ảnh
sự tiến bộ khoa học và công nghệ, thể hiện kết quả của việc cải tiến tổ chức sản xuất,
đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng lao động.
Áp dụng chỉ tiêu TFP để đánh giá hoạt động sản xuất của một đơn vị. một ngành hay
toàn bộ nền kinh tế, không chỉ khuyến khích người sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn và lao động để tăng TFP, mà còn có tác dụng động viên họ duy trì và mở rộng quy
mô sản xuất. Đây chính là một trong những đặc điểm qua trọng của việc áp dụng chỉ
tiêu năng suất theo cách tiếp cận với mục đích cuối cùng của nâng cao năng suất là
tăng thêm nhiều sản phẩm vật chất và dịch vụ cho xã hội, và tạo thêm nhiều việc làm
cho người lao động.
1.1.3 Phát triển bền vững cho doanh nghiệp

Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội
và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả quá trình sản xuất xã
hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra
sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị
thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-
rô đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được
xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm
hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”( Vũ Văn Hiền, 2014). Theo
đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định là:


12

Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển
nhanh và an toàn, chất lượng;
Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con người,
chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm:
thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức
hưởng thụ về văn hóa, văn minh;
Thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Và khái niện “Doanh nghiệp” theo quan điểm là các DMU (Decision making
units) được xem là các đơn vị tham gia sản xuất kinh doanh, và như vậy, bao gồm các
DN lớn, nhỏ và vừa, siêu nhỏ và các hộ gia đình, là bộ phận chủ yếu tạo ra GDP.
Phát triển bền vững các doanh nghiệp được quan niệm là phát triển ít dựa vào
các tài nguyên hữu hạn (vốn và lao động), và như vậy, TFP chính là động lực chính để
phát triển doanh nghiệp bền vững trong dài hạn.
1.2 Phương pháp tính tốc độ tăng TFP
Do TFP là một phạm trù tương đối trừu tượng, việc tính toán TFP và các chỉ
tiêu liên quan đến TFP không hề đơn giản. Cho đến nay, vẫn chưa có một công thức

tính TFP thống nhất cho tất cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên theo điều kiện từng
nước cũng như hệ thống số liệu thống kê sẵn có mà người tính toán chỉ tiêu này theo
các công thức và phương pháp khác nhau. Cho đến nay, sự chính xác trong tính toán
TFP chỉ là tương đối, chưa nước nào có phương pháp nào tính TFP thật chính xác.
Trong luận văn này, tác giả nêu hai phương pháp phổ biến nhất, đó là cách tính toán
tốc độ tăng TFP theo (1) phương pháp hoạch toán và (2) phương pháp dùng hàm sản
xuất Cobb- Douglas.
1.2.1 Theo phương pháp hoạch toán.
Công thức tính tốc độ tăng TFP theo phương pháp hạch toán do Tổ chức Năng
suất châu Á (Asian Productivity Organization, 2012) đưa vào áp dụng có dạng :
TFP = I
Y
– (α.I
K
+βI
L
)
Trong đó :
I
Y
là tốc độ giá trị tăng thêm;
I
K
là tốc độ tăng thêm của vốn cố định;


13

I
L

là tốc độ tăng thêm của lao động;
α và β là hệ số đóng góp của vốn cố định và lao động. Hệ số β bằng tỷ số giữa
thu nhập của người lao động và giá trị tăng thêm, còn α= 1- β
Các chỉ tiêu I
Y
, I
K
, I
L
được tính rất đơn giản dựa vào số liệu đã được công bố,
việc còn lại tính hệ số đóng góp của vốn () và hệ số đóng góp của lao động (). Để
xác định các hệ số  và  bằng phương pháp hoạch toán như sau :
Với ý nghĩa của hệ số  và  người ta tính toán dựa vào phương pháp hạch toán
như sau:
Thu nhập của người lao động từ SX
 =
GDP
Tức là  là tỷ phần đóng góp của lao động trong GDP. Từ đó suy ra  = 1 - 
Thu nhập của người lao động từ sản xuất là toàn bộ tiền lương và các khoản
thu nhập khác ngoài lương từ sản xuất.
Đặc điểm hạch toán của Việt Nam hiện nay thì chúng ta chỉ có thể xác định
được khoản thu nhập chính của người lao động đó là tiền lương, còn các khoản thu
nhập khác như: tiền ăn ca, bảo hiểm xã hội, phong bao hội nghị, quần áo, trang thiết
bị bảo hộ lao động,… không được hạch toán vào thu nhập của người lao động cho
nên nếu chúng ta chỉ dùng chỉ tiêu thu nhập của người lao động để tính toán thì hệ số
 sẽ bị thu hẹp, và ngược lại hệ số  sẽ bị thổi phồng. Để khắc phục hiện tượng đó
các chuyên gia đưa ra giải pháp là dùng hệ số điều chỉnh (k), khi đó:
Thu nhập của người lao động từ sản
xuất
= Tiền lương của người lao động x k

Trong đó: k là hệ số điều chỉnh và được xác định như sau:
Thu nhập của người lao động từ SX
k =
Tiền lương của người lao động
Hệ số k được tính dựa vào một cuộc điều tra mẫu của một năm nào đó sau đó
dùng để điều chỉnh cho các năm tiếp theo, nếu không có một sự đột biến lớn (Tăng
Văn Khiên, 2002).
1.2.2 Theo phương pháp dùng hàm Cobb-Douglas.
Hàm sản xuất Cobb-Douglas đơn giản có thể viết như sau : Y = AK
α
L
β
(1)
Trong đó : Y là đầu ra; A là năng suất nhân tố tổng hợp; L là lao động; K là
vốn đầu vào; α và β là độ co giản của đầu ra tương ứng với lao động và vốn.


14

Với Y, K,L được giả định là hàm liên tục theo thời gian.
Và α, β gọi là các hệ số co giãn. Nếu hiệu quả tăng theo qui mô thì α+β>1,
nếu hiệu quả giảm theo qui mô thì α+β<1, nếu hiệu quả không đổi theo qui mô thì
α+β =1
Logaric hai vế của (1), chúng ta được:
LnY= LnA+ α LnK+βLnL (2)
Vi phân hai vế của (2) theo thời gian, chúng ta sẽ có
L
dL
K
dK

A
dA
Y
dY

(3)
Như vậy, tốc độ tăng của kết quả sản xuất bằng tổng tốc độ tăng của TFP và tốc
độ tăng bình quân của vốn và lao động.
Từ phương trình (3), chúng ta thực hiện biến đổi và có tốc độ tăng của TFP như
sau:
L
dL
K
dK
Y
dY
A
dA

(4)
Dựa vào phương pháp bình phương nhỏ nhất, sẽ xác định được các hệ số α và
β (chúng ta có thể sử dụng các phần mềm như: MFIT3, Eview, Stata, Excel,SPSS…).
Từ cách tích chỉ tiêu TFP, chúng ta có thể tiến hành phân tích các chỉ tiêu
năng suất khác tùy theo mục tiêu phân tích khác nhau.
Như vậy, chúng ta đã có thể hiểu về bản chất của TFP và một số cách tiếp
cận về phương pháp nghiên cứu sự biến động của nó. Tuy nhiên, để có thể vận
dụng vào thực tiễn là một vấn đề không đơn giản bởi nguồn số liệu thống kê. Hiện
nay, của các chỉ tiêu thống kê của Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các số liệu để
tính toán một cách chính xác. Do đó, mỗi phương pháp thường được áp dụng trong
một số trường hợp nhất định phù hợp với số liệu đang có, như : (1) Đối với phương

pháp hoạch toán, vì hệ số k xác định tương đối phức tạp và nhiều chi phí nên
phương pháp này thường áp dụng cho việc tính TFP cho một ngành, nhóm ngành
hoặc tổ chức, doanh nghiệp hay một cơ sơ sản xuất kinh doanh. (2) Đối với phương
pháp dùng hàm Cobb-Douglas phù hợp cho việc áp dụng tính TFP cho một vùng
kinh tế, một tỉnh hay một quốc gia.
1.3 Các yếu tố chiến lược tác động tới tăng TFP
Theo “Báo cáo nghiên cứu chỉ tiêu năng suất Việt Nam 2006-2007” của Trung


15

tâm Năng suất Việt Nam ”(Viện nghiên cứu quản l ý kinh tế trung ương, 2010), các yếu
tố chiến lược tác động tới tăng TFP gồm các yếu tố cụ thể như sau :
Giáo dục và đào tạo : Đầu tư vào nguồn nhân lực làm tăng năng lực cho lực
lượng lao động. Nói một cách tổng quát, những công nhân được đào tạo tốt hơn sẽ
làm việc năng suất hơn và tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ có chất lượng hơn. Đối
với một cơ sở sản xuất kinh, một tổ chức, doanh nghiệp hay một quốc gia vùng miền
lực lượng lao động có chất lượng cao sẽ tạo ra giá trị gia tăng cao hơn lao động phổ
thông. Đó là lực lượng chủ đạo trong việc tăng TFP.
Cấu trúc vốn: Trong thị trường toàn cầu hiện nay, sự cạnh tranh dựa trên việc
tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao với giá cả hợp lý. Để có được lợi thế cạnh
tranh, các ngành công nghiệp, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh cần cải tiến
và trang bị cho các quá trình sản xuất các công nghệ mới. Đầu tư vào máy móc và
thiết bị hiện đại sẽ làm giảm chi phí sản xuất và làm tăng TFP.
Cơ cấu lại kinh tế: Cơ cấu lại nền kinh tế là việc chuyển các nguồn lực từ các
ngành và thành phần kinh tế kém năng suất sang ngành và thành phần kinh tế có
năng suất cao. Việt phân bổ lại các nguồn lực để có được các ngành và thành phần
kinh tế có năng suất cao hơn sẽ dẫn đến sử dụng có hiệu suất và hiệu quả các nguồn
lực dẫn đến TFP tăng cao.
Tăng như cầu: việc tăng nhu cầu trong nước và ngoài đối với sản phẩm và

dịch vụ sẽ dẫn đến tỷ lệ sử dụng sản phẩm tiềm năng cao hơn. Từ đó kính thích sản
xuất và sáng tạo.
Tiến bộ công nghệ: điều này chỉ ra tính hiệu lực và việc sử dụng hiệu quả
công nghệ thích hợp, sự đổi mới, nghiên cứu và triển khai, thái độ làm việc tích cực,
hệ thống quản lý và tổ chức tốt, quản lý chuỗi cung ứng và sử dụng các phương pháp
thực hành tốt nhất. Với trình độ công nghệ cao, người lao động được khuyến kích và
hệ thống quản lý hiệu quả, nền kinh tế sẽ có khả năng sản xuất ra sản phẩm và dịch
vụ có giá trị tăng cao hơn. Tính sáng tạo, sự đổi mới và tư duy năng suất sẽ định
hướng sự tích tụ, phổ biến và sự dụng kiến thức nhằm tăng TFP và duy trì tính cạnh
tranh.
Do đó, để đẩy mạnh và nâng cao TFP đòi hỏi các doanh nghiệp có sự đầu tư
mạnh và liên tục vào các yếu tố chiến lược trên, đặt biệt là các yếu tố có tác động
mạnh đến TFP như : Tiến bộ công nghệ và giáo dục - đào tạo sẽ sớm nâng cao TFP


16

nhằm phát triển doanh nghiệp một cách ổn định và bền vững.
1.4 Vai trò và tác dụng của TFP đối với doanh nghiệp
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cạnh tranh và toàn cầu hoá, các doanh
nghiệp đều phải đối mặt với rủi ro, sự thâm hụt, hoặc tình trạng lỗ lãi thất thường cho
dù các doanh nghiệp luôn có mục tiêu và kế hoạch cụ thể. Một cơ sở sản xuất kinh
doanh, doanh nghiệp hay tổ chức hoạt động với năng suất cao có thể có nhiều khả
năng thu hồi vốn đầu tư hơn. Những doanh nghiệp như vậy cũng có sức đề kháng cao
hơn với mọi trạng thái của nền kinh tế. Mặt khác, một tổ chức hoạt động với năng suất
thấp cũng có thể đạt được thặng dư tương đối do các điều kiện cạnh tranh khác trong
kinh doanh mang lại, nhưng bên cạnh đó rất dễ bị tổn thương và lâm vào tình trạng
khủng hoảng trong một số điều kiện nhất định. Vì vậy, vai trò của năng suất đã thực sự
được khẳng định khi nền kinh tế đi vào khủng hoảng. Nó giúp các doanh nghiệp hạn
chế bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài và cũng là cách phục hồi kinh tế nhanh nhất

khi có khủng hoảng. Vì chỉ tiêu tốc độ tăng TFP phản ảnh chiều sâu về quá trình sản
xuất, kinh doanh. Chỉ có tăng trưởng kinh tế nhờ vào tăng TFP mới là sự tăng trưởng
có tính chất ổn định và bền vững.
TFP là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh, sự tồn tại lâu dài và
khả năng mở rộng tái sản xuất của một doanh nghiệp, là cơ sở để nâng cao thu nhập,
tạo môi trường và điều kiện làm việc tốt, ổn định cho người lao động. TFP là chỉ tiêu
phản ảnh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động,
nhờ vào tác động của các nhân tố đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến
quản lý, nâng cao trình độ lao động Theo đó, chúng ta có thể chia kết quả sản xuất
thành ba phần: (i) phần do vốn tạo ra; (ii) phần do lao động tạo ra; (iii) và phần do
nhân tố tổng hợp tạo ra. Như vậy, đối với một cơ sở sản xuất kinh doanh thì không
nhất thiết lúc nào cũng phải tăng lao động hoặc vốn để tăng yếu tố đầu ra, mà có thể có
đầu ra lớn hơn bằng cách sử dụng tối ưu nguồn vốn và lao động bằng cách cải tiến quá
trình công nghệ, trình độ quản lý và các nhân tố đầu vào được phối hợp sử dụng hiệu
quả nhất. Do đó, tốc độ tăng TFP là chỉ tiêu phản ảnh đích thực khái quát về hiệu quả
sử dụng vốn và lao động, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng
cũng như sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và là căn cứ để phân tích hiệu quả
kinh tế vĩ mô và đánh sự tiến bộ khoa học và công nghệ của mỗi ngành, mỗi địa
phương.

×