Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh hải dương trong sự nghiệp đổi mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.37 KB, 87 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trí thức có mặt trong mọi xã hội và luôn có vị trí, vai trò đặc biệt đối
với sự phát triển kinh tế, xã hội của mọi quốc gia. Thế giới hiện nay đang
chuyển mình từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, đó là quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên
nhiên sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức của con người. Đó là nền
kinh tế trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức như là một động
lực chủ yếu của sự tăng trưởng, tạo ra của cải việc làm trong tất cả các
ngành kinh tế. Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức là một bước
nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất và nền văn minh nhân loại. Tỷ trọng
của của cải tri thức trong tài sản của quốc gia này cũng tăng lên nhanh
chóng. Vai trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong mối quan hệ hữu cơ với
đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn coi trí
thức là một lực lượng cách mạng. Điều này được thể hiện nổi bật trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của trí thức trong cách mạng Việt
Nam. Hồ Chủ Tịch luôn nhấn mạnh trí thức là tài sản quý báu của quốc gia,
của dân tộc. Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất
nước Việt Nam không thể thiếu được lực lượng trí thức. Tư tưởng này được
thể hiện trong chính sách của Đảng ta: trí thức là vốn quý của dân tộc,
không có trí thức mới hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành
công và sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa không thể
thành công được. Tại Đại Hội VII (1991) Đảng ta đã khẳng định: “…Trong
cách mạng dân tộc dân chủ, vai trò của trí thức đã quan trọng, trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội vai trò của trí thức càng quan trọng. Giai cấp công -
nông không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân giai cấp công – nông
1
không dần được trí thức hóa thì không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội”.
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức, trong quá trình


lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định trí thức là
một trong những động lực của cách mạng, là một thành viên trong khối
liên minh với giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Vì vậy, ngay từ
ngày đầu thành lập, Đảng ta đã quan tâm vận động cách mạng tầng lớp trí
thức yêu nước.
Nước ta đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình hội nhập
với thế giới theo xu thế toàn cầu hóa. Mốc đánh dấu thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
(1996), khi nước ta tuyên bố kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra
trước mắt chúng ta những yêu cầu, đòi hỏi, trong đó yêu cầu đặc biệt quan
trọng là phát triển nguồn lực con người – yếu tố vừa giữ vai trò như động
lực, phương tiện để đạt được mục đích, vừa đồng thời là mục đích hướng tới
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức là một phần quan trọng, không thể thiếu của yếu tố nguồn lực con
người. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và
Nhà nước ta luôn khẳng định con người, khoa học và công nghệ là hai động
lực trực tiếp của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 2 khóa VIII của Đảng đánh giá: “ Đội ngũ cán bộ khoa học và công
nghệ có bước trưởng thành, được tập hợp, có thêm điều kiện để phát huy
khả năng và cống hiến cho sự nghiệp chung. Đây là một yếu tố quan trọng
cho sự phát triển của đất nước”. Từ đó có thể đi tới khẳng định vai trò quan
trọng của trí thức đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những thành tựu đạt được của đất nước, có sự đóng góp của mỗi con
người, mỗi địa phương và cộng đồng dân tộc. Trong tính tất yếu đó, toàn
Đảng, toàn dân tỉnh Hải Dương cùng góp sức người, sức của, trí tuệ, quyết
tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước.
2
Hải Dương là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có vị
trí chiến lược về kinh tế, chính trị. Cùng với sự phát triển của đất nước, Hải

Dương đang có những bước đi mạnh mẽ phù hợp với điều kiện kinh tế -
xã hội của địa phương. Hải Dương không chỉ được biết đến là vùng đất
giàu truyền thống “ngàn năm văn hiến” với những di tích lịch sử văn hóa
nổi tiếng như Côn Sơn – Kiếp Bạc, với những làng nghề truyền thống
cùng những đặc sản như bánh đậu xanh ở thành phố Hải Dương, bánh gai
ở Ninh Giang, vải thiều Thanh Hà…mà ngày nay Hải Dương còn được
biết đến như một vùng kinh tế khởi sắc và hứa hẹn sự phát triển mạnh mẽ
về mọi mặt.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tỉnh Hải
Dương luôn có những đóng góp xứng đáng với vai trò trọng điểm của mình.
Hải Dương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, GDP tăng trưởng bình quân
hàng năm là 10,5%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tốc độ
đầu tư nhanh với tổng số vốn đăng kí cho đến nay là 20500 tỷ đồng…
Về giáo dục đào tạo, Hải Dương cũng có nhiều thành tích đáng tự
hào, hàng năm số lượng sinh viên trúng tuyển cao đẳng và đại học ở tốp đầu
cả nước. Số lượng thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư tương đối cao. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển của mình Hải Dương vẫn còn những hạn
chế, yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực cũng như lực lượng sản xuất.
Đời sống nhân dân một số nơi vẫn còn chịu ảnh hưởng của các phong tục
tập quán cổ hủ, lạc hậu. Bên cạnh đó, một số chương trình về văn hóa,
xã hội triển khai còn chậm và thiếu hiệu quả. Sự phát triển giữa các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội chưa được hài hòa, vùng xa trung tâm chưa
được đầu tư đúng mức. Nghiên cứu khoa học công nghệ mới chỉ giải
quyết được vấn đề trước mắt còn thiếu tính chiến lược. Trong các ngành,
các lĩnh vực còn thiếu chuyên gia giỏi, việc đào tạo, quy hoạch, sử dụng
đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế. Vì thế chưa phát
huy hiệu quả nguồn lực và thế mạnh của tỉnh. Do đó, cần thiết phải
3
nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan về thực trạng đội ngũ trí
thức, tạo cơ sở hình thành cho những chính sách phù hợp, góp phần

thắng lợi sự nghiệp đổi mới của tỉnh nhà.
Với tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn trong quá trình phát triển ở tỉnh
Hải Dương tôi chọn đề tài “Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Hải Dương
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề trí thức đối với sự phát triển của đất nước đã có nhiều tác giả,
công trình nghiên cứu, nhiều bài viết đề cập đến nội dung này. Tuy nhiên
đối với tỉnh Hải Dương các bài viết và công trình nghiên cứu về đội ngũ trí
thức còn hạn chế về số lượng.
Thứ nhất, một số công trình nghiên cứu chung về trí thức được in
thành sách:
- Ngô Huy Tiếp (Chủ biên), (2008), Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với trí thức nước ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trên cơ sở một số vấn đề chung về trí thức, vai trò, đặc điểm và quan niệm
về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức, các tác giả đã
nêu lên thực trạng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, qua đó
đề xuất một số giải pháp cơ bản đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với đội ngũ trí thức.
- Ngô Thị Phượng, (2007), Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân
văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác
giả đã đề cập một cách chi tiết vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã
hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và làm sáng tỏ những
hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức. Qua đó
tác giả nêu lên những quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
- Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát
triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác
4
giả đã nghiên cứu về khái niệm trí thức, nguồn gốc hình thành, vị trí và vai
trò của đội ngũ trí thức Việt Nam. Từ đó tác giả đã trình bày một số vấn đề

hạn chế đang đặt ra đối với đội ngũ trí thức nước nhà và đề xuất một số
phương hướng xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức.
- Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trên cơ sở nghiên cứu, phân
tích một cách chi tiết về vị trí, vai trò và thực trạng nguồn lực trí tuệ của đất
nước. Từ đó tác giả xây dựng hệ thống các giải pháp thiết thực, cấp bách
nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực này trong thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
- Nguyễn Văn Sơn, (2002), Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời
kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đã trình bày những nội dung cơ bản về trí thức giáo dục đại học – bộ
phận đặc thù của trí thức Việt Nam. Đồng thời cũng nêu lên một cách chi
tiết thực trạng cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học có cơ cấu hợp
lý và chất lượng cao.
- Phạm Tất Dong (Chủ biên), (2001), Định hướng phát triển đội ngũ
trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Đây là công trình chung của tập thể các tác giả. Từ nghiên cứu
tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đặt ra những yêu cầu về
nguồn lực trí tuệ, các tác giả đã khẳng định vai trò đồng thời làm rõ ưu,
nhược điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, qua đó đề xuất những định
hướng trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2010.
Thứ hai, một số luận án, luận văn, đề tài, bài báo trên các tạp chí
nghiên cứu vấn đề trí thức.
Đề tài cấp Nhà nước: “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn
2011 – 2020” ( mã số KX.04.16/06 – 10 ) do PGS.TS Đàm Đức Vượng chủ
nhiệm. Nguyễn Thị Kim Hồng (2008), Đội ngũ trí thức tỉnh Thái Bình trong
5
sự nghiệp đổi mới đất nước. Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội. Lê Hồng
Phong (2009), Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học
viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đỗ Thị Thạch,
Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2008. Nguyễn Đức Bách, suy ngẫm và nhận
thức về vấn đề trí thức. Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2008. Trần Văn Toàn,
Sự hình thành tầng lớp trí thức hiện đại. Tạp chí Lý luận chính trị, số
9/2008. Lê Văn Dũng, phát huy vai trò lực lượng trí thức quân đội trong xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc, Tạp chí Cộng Sản, số 24/2008.
Thứ ba, một số công trình nghiên cứu và bài viết đề cập đến nguồn
nhân lực trí thức ở tỉnh Hải Dương.
Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của trí thức đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của cả nước nói chung và tỉnh Hải
Dương nói riêng, Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã thực hiện
nhiều công trình nghiên cứu cấp tỉnh có liên quan đến lực lượng lao động,
nguồn nhân lực chất lượng cao như:
Đề tài: “Một số giải pháp tạo việc làm và giải quyết lao động dư thừa
ở nông thôn tỉnh Hải Dương” do TS.Nguyễn Hữu Cát, quyền trưởng ban
kinh tế tỉnh ủy Hải Dương chủ nhiệm.
Đề tài: “Thực trạng và giải pháp để thu hút, sử dụng có hiệu quả sinh
viên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh” do TS. Phạm Trung Thanh – Hiệu trưởng trường Cao Đẳng Sư
Phạm Hải Dương chủ nhiệm.
Đề tài: “Điều tra trình độ nghề của người lao động ở một số địa
phương, ngành và đề xuất một số giải pháp đào tạo nhân lực ở tỉnh Hải
Dương” do TH.S Hoàng Văn Đoạt – Phó giám đốc Sở Giáo dục - đào tạo
tỉnh Hải Dương chủ nhiệm.
6
Để phát huy hơn vai trò của nguồn nhân lực con người, đặc biệt là đội
ngũ trí thức tỉnh Hải Dương cần thiết phải được nghiên cứu một cách đầy
đủ, hoàn thiện, phù hợp trong điều kiện thực tiễn hiện nay nhằm phát huy

hiệu quả các thế mạnh của tỉnh trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khóa luận đề cập đến đội ngũ trí thức ở tỉnh Hải Dương
hiện nay.
3.2. Khóa luận nghiên cứu đội ngũ trí thức có trình độ từ cao đẳng,
đại học trở lên ở tỉnh Hải Dương.
4. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
4.1. Mục đích của khóa luận
Đánh giá thực trạng đội ngũ trí thức của tỉnh Hải Dương hiện nay và
từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò
trí thức tỉnh Hải Dương trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ của khóa luận
Từ mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề sau:
- Lí luận chung về trí thức, đặc điểm, vai trò của đội ngũ trí thức
- Thực trạng của đội ngũ trí thức tỉnh Hải Dương hiện nay.
- Phương hướng, giải pháp xây dựng và phát huy vai trò của trí thức
tỉnh Hải Dương trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận dựa trên những phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước, những chủ trương, nghị quyết…của tỉnh Hải Dương làm phương
pháp luận. Bên cạnh đó trong từng vấn đề, khóa luận sử dụng linh hoạt các
phương pháp lôgic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, so sánh, khái quát và kế
7
thừa có chọn lọc, tham khảo các số liệu thống kê của cơ quan nhà nước và
tỉnh Hải Dương.
6. Đóng góp về khoa học của khóa luận
Khóa luận góp phần làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam nói

chung và vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Hải Dương nói riêng. Qua khóa
luận ta thấy rõ được thực trạng tình hình phát triển của đội ngũ trí thức tỉnh
Hải Dương, những ưu điểm cần phát huy và những nhược điểm cần phải
làm rõ, khắc phục. Khóa luận cũng đã vạch ra được những giải pháp để thực
hiện tăng cường về số lượng cũng như nâng cao chất lượng của đội ngũ trí
thức tỉnh Hải Dương.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
mục lục, nội dung khóa luận gồm 3 chương.
8
CHƯƠNG I
TRÍ THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA
1.1. Trí thức và những đặc điểm lao động sáng tạo của trí thức
1.1.1. Quan niệm về trí thức
Thuật ngữ trí thức xuất hiện sớm trong lịch sử xã hội loài người, từ
khi có sự phân công lao động xã hội, một bộ phận người tách khỏi lao động
chân tay, để sử dụng lao động trí óc. Tuy vậy thuật ngữ này chỉ thực sự trở
thành thông dụng và phổ biến vào khoảng thời gian vào nửa sau thế kỷ XIX
đến nay, khi vai trò của trí thức được biểu hiện rõ nét là nhân tố không thể
thiếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là intelligentia
nghĩa là thông minh, có trí tuệ, hiểu biết và suy nghĩ.
Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn lịch sử cụ thể trong quá trình phát triển
của nhân loại, của mỗi quốc gia và dưới những góc độ nghiên cứu khác
nhau, mà có nhiều định nghĩa về trí thức. Khái niệm này xuất hiện gắn liền
với một lực lượng lao động đặc biệt trong xã hội – đó là lao động trí óc, mà
lực lượng này tùy thuộc vào điều kiện lịch sử xã hội, vào giai cấp nắm
quyền lãnh đạo xã hội nên nó tác động rất lớn đến sự biến đổi và phát triển
của lực lượng trí thức. Do đó, trí thức là một phạm trù có tính lịch sử xã hội.

Các nhà kinh điển sáng lập và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
như C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm
đến trí thức. Điều đó đã khẳng định được tầm quan trọng và vai trò của trí
thức đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Trong thời đại của mình, C.Mác và Ph. Ăngghen đã quan tâm nghiên
cứu đến tầng lớp trí thức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo
các ông khi xã hội phát triển thì trí thức sẽ trở thành một lực lượng đông đảo
và tầng lớp trí thức sẽ đại diện cho chế độ xã hội đó.
9
Kế thừa và phát triển các tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, trong
điều kiện mới khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã giành
được chính quyền và bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi có sự
đóng góp to lớn của nguồn lực trí tuệ, V.I.Lênin – nhà lý luận thiên tài, lãnh
tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới đã đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng và sử dụng tầng lớp trí thức. Ông đã định nghĩa
về trí thức như sau: “Tôi dùng chữ trí thức, giới trí thức…là những danh từ
có nghĩa bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi mà còn bao
hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự do nói
chung, các đại biểu của lao động trí óc, khác với những đại biểu của lao
động chân tay”[ 33; tr.372].
Qua định nghĩa này, có thể nhận thấy rằng, xét về mặt đặc thù lao
động thì có sự khác nhau căn bản giữa lao động trí óc và lao động khác ở
chỗ, đối với tầng lớp trí thức thì họ là người sản sinh, tích lũy, chuyển
tải và đưa những tri thức khoa học đó đi sâu vào thực tiễn đời sống xã
hội. Trong khi đó, các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác vị trí của họ chủ
yếu là sản xuất vật chất và phục vụ việc sản xuất. Như vậy, Lênin đã lấy
tính chất và nội dung lao động của trí thức là lao động trí óc, với trình
độ học vấn của họ để làm cơ sở phân biệt trí thức với những người lao
động chân tay nói chung.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan điểm của C.Mác và

Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về vấn đề trí thức, tiếp thu tinh hoa văn hóa của dân
tộc và trí tuệ thời đại, qua thực tiễn xây dựng và sử dụng đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã định nghĩa
trí thức trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” như sau:
“Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là
hiểu biết sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu
biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra.
Ngoài hai cái đó không có trí thức nào khác. Một người học xong đại học,
10
có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công,
không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại công
việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức
của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn là một
người trí thức hoàn toàn thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”
[29, tr. 235].
Cũng theo quan điểm Hồ Chí Minh, người có trình độ học vấn và mục
đích hành động là những biểu hiện cơ bản, quan trọng, từ đó để đánh giá
một người có phải là trí thức hay không. Theo Người, ngoài tri thức ra thì
phải có “ đạo đức cách mạng ” có tài phải có đức, nếu như người có tài mà
không có đức, tham ô hủ hóa thì có hại cho đất nước. Ngược lại nếu có đức
không có tài, thì theo người như “ ông Bụt ngồi trong chùa ” không giúp gì
có ích cho ai.
Ngày nay khi trình độ lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, cùng
với nó là sự tăng nhanh lực lượng đội ngũ trí thức, đã tác động đến các xu
hướng khác nhau khi đưa ra khái niệm trí thức.
Có quan điểm cho rằng trí thức là những người lao động trí óc nói
chung hoặc đó là những nhà tư tưởng, nhà bác học, nhà phát minh sáng chế
khoa học. Nếu quan niệm như vậy thì không thể hiểu đơn giản khi cho cứ
làm nghề lao động trí óc thì sẽ được xem là trí thức. Như theo quan niệm
của Lênin, trí thức không bao gồm tất cả những người lao động trí óc mà chỉ

bao gồm những người có học thức và là đại diện của những người lao động
trí óc. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, nếu có học thức mà xa rời thực
tiễn thì chỉ là trí thức một nửa mà thôi. Điều này thực tế đã chứng minh,
những người lao động trí óc giản đơn không thể coi là trí thức. Hay chỉ giới
hạn những nhà tư tưởng, nhà bác học hay nhà khoa học thì khó có thể đánh
giá nhìn nhận và thấy được vị trí vai trò của đội ngũ có học vấn, trí thức ở
cấp độ khác đối với sự phát triển của đất nước và xã hội. Trong khi đó, đội
ngũ này chiếm một số lượng lớn trong xã hội và sản phẩm lao động của họ
11
cũng hết sức phức tạp và luôn có sự kế thừa, phong phú và đa dạng. Nếu chỉ
giới hạn đối tượng trí thức như vậy sẽ không phát huy hết vai trò của các
tầng lớp khác trong xã hội.
Vì thế việc xác định trí thức là ai có vai trò quan trọng trong việc xác
định vai trò công tác lãnh đạo và tổ chức đối với đội ngũ cán bộ này, do vậy
cần hiểu đúng hơn về trí thức và đưa ra định nghĩa bao quát đầy đủ, phản
ánh những đặc điểm cơ bản của trí thức. Điều này được thể hiện qua các
quan điểm sau :
Đại từ điển Bách khoa Liên Xô ( 1985) viết: “ Trí thức là tầng lớp
những người làm nghề lao động chủ yếu là lao động phức tạp, sáng tạo, phát
triển và truyền bá văn hóa”.
Từ điển Bách khoa triết học tiếng Nga (1983): Trí thức là tầng lớp
những người làm nghề lao động phức tạp và thường có học vấn cao tương
ứng, có chức năng sáng tạo, phát triển và phổ biến văn hóa.
Từ điển tiếng Nga (1991): “ Trí thức – đó là những người có học vấn
và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, văn hóa và
đang làm nghề lao động phức tạp.
Trong từ điển Bách khoa triết học tiếng Nga (1983) định nghĩa: “Trí
thức là tầng lớp những người làm nghề lao động phức tạp và thường có học
vấn cao tương ứng, có chức năng sáng tạo và phổ biến văn hóa”.
Đối với Việt Nam, Từ điển Chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà xuất bản

Sự thật, Hà Nội, xuất bản năm 1986 đã xác định: “Trí thức là một nhóm xã
hội bao gồm những người chuyên làm nghề lao động phức tạp và có học vấn
chuyên môn cần thiết cho nghành lao động đó”.[28, tr.360]
Qua các định nghĩa trên chúng ta thấy rằng, mỗi định nghĩa đều có
mặt hợp lý nhưng chưa thể xem là đã hoàn chỉnh và cần được thực tiễn kiểm
nghiệm để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện. Tuy nhiên các định nghĩa về trí
thức nói trên đều có những điểm chung, thống nhất đó là nó đã xác định
12
được nội hàm khái niệm trí thức dựa trên cơ sở đặc trưng là lao động trí óc,
có trình độ học vấn cao và chuyên môn sâu.
Trong điều kiện và tình hình thực tiễn hiện nay, quan niệm về trí thức
đang có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau. Tuy nhiên tùy từng giai đoạn lịch
sử cụ thể, tùy góc độ tiếp cận khác nhau, để có những quan niệm khác nhau
về trí thức. Trên cơ sở đó Đảng ta trong quan niệm về trí thức luôn xuất phát
từ nền tảng tư tưởng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vì vậy từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã coi
trọng việc đào tạo trí thức phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi
mới đất nước, vì thế đã đề ra nhiều chủ trương chính sách nhằm đào tạo, sử
dụng, đãi ngộ đội ngũ trí thức nước nhà. Điều đó được thể hiện rõ nét trong
các nghị quyết, như Nghị quyết Trung ương bốn khóa VII về vấn đề giáo dục
và đào tạo, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; Nghị quyết Trung
ương hai khóa VIII. Trên cơ sở tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn trong quá
trình cách mạng giải phóng dân tộc, quá trình xây dựng đất nước trong thời
kỳ đổi mới, tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X “Về
xây dựng đội ngũ trí thứctrong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước” Đảng ta đã ra Nghị quyết, trong đó chỉ rõ: “Trí thức là những
người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao và chuyên môn nhất định, có
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo và truyền bá làm giàu tri thức, tạo ra những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.” [12, tr.81].
Qua định nghĩa nêu trên, có thể nhận thấy khái niệm trí thức cơ bản

vẫn dùng để chỉ những người lao động trí óc và có học vấn cao. Tuy nhiên
nội hàm của khái niệm đã đưa ra những tiêu chí cụ thể hơn. Từ đó có thể
nhận thấy rằng, nếu một người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao,
nhưng trong lao động đó không có tính sáng tạo, không truyền bá và làm
giàu tri thức, không tạo ra những sản phẩm vật chất hay tinh thần có giá trị
cho xã hội thì người đó không thể coi là trí thức.
13
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay, đòi
hỏi người trí thức phải biết sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra
những sản phẩm có ích cho xã hội, không chỉ thuần túy về mặt tài năng mà
còn cả về mặt đạo đức, nhân cách. Bên cạnh năng lực chuyên môn sâu,
người trí thức cần thiết phải có đạo đức tốt, nhân cách trong sáng, mới tạo ra
những sản phẩm hướng đến các giá trị nhân văn, tiến bộ vì sự phát triển
chung của con người. Đó mới thực sự là những người trí thức chân chính
trong xã hội nước ta hiện nay, là những người đem trí tuệ, tài năng, trí lực
của mình phụng sự Tổ quốc, nhân dân. Đây chính là biểu hiện của mối quan
hệ giữa đức và tài trong mỗi con người, đạo đức định hướng cho người trí
thức sử dụng tri thức của mình hướng tới các giá trị nhân văn, nhân đạo cao
cả vì lợi ích hoà bình chung của nhân loại.
1.1.2. Những đặc điểm lao động sáng tạo của trí thức
Thứ nhất : Lao động của đội ngũ trí thức là lao động trí óc phức tạp,
là sự sáng tạo những tri thức khoa học mới, tiến bộ và hữu ích
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động của mình
tác động vào điều kiện tự nhiên, nhằm khai thác, cải tạo tự nhiên theo những
phương thức nhất định. Phương thức mà con người sử dụng trong các thời
đại và ngay trong một thời đại cũng khác nhau. Họ có thể tác động một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp tới tự nhiên thông qua lao động chân tay hoặc lao
động trí óc.
Lao động của trí thức là một dạng lao động sáng tạo bằng trí óc. Lao
động trí óc là một trong những cách thức mà một bộ phận trong xã hội sử

dụng để tác động đến tự nhiên một cách gián tiếp. Lao động trí óc xuất hiện
là kết quả của sự phân công lao động xã hội và phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự xuất hiện lao động trí óc dẫn đến sự ra đời của một tầng lớp xã hội
đặc biệt trong xã hội – tầng lớp trí thức. Tuy nhiên, lao động trí óc là lĩnh
vực tương đối rộng, bao gồm lao động trí óc giản đơn và lao động trí óc
phức tạp. Chúng phân biệt với nhau ở mức độ hao phí năng lượng thần kinh
14
trung ương trong quá trình làm việc. Lao động trí óc phức tạp cần sự hao phí
năng lượng thần kinh trung ương cao hơn để thực hiện các hoạt động phức
tạp của tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa…về
những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội thành lý luận, thành tri thức
khoa học mới. Còn lao động trí óc giản đơn chỉ là những hoạt động lặp đi
lặp lại nhiều lần và dần trở thành thói quen, phản xạ. Lao động trí óc giản
đơn thường không tạo ra tri thức khoa học mới mà chỉ tạo ra những tri thức
kinh nghiệm thông thường. Vì vậy, không phải tất cả những người lao động
trí óc đều là trí thức, mà chỉ là những người lao động trí óc phức tạp mới có
khả năng trở thành người trí thức.
Lao động trí óc phức tạp là yếu tố phân biệt trí thức với những giai
cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Giữa lao động trí óc và lao động chân tay
tuy có sự khác biệt với nhau nhưng không tách rời hoặc đối lập mà có sự
thống nhất với nhau. Bởi vì, bất cứ hoạt động lao động nào cũng có sự tham
gia của đầu và tay con người: “Một người riêng rẽ không thể tác động đến tự
nhiên nếu không vận động các bắp thịt của mình dưới sự kiểm soát bằng bộ
não của mình. Cũng như trong hệ thống tự nhiên, đầu và tay gắn với nhau,
thì trong quá trình lao động, lao động trí óc và lao động chân tay cũng kết
hợp lại với nhau”.
Lao động của đội ngũ trí thức thường mang tính sáng tạo cao. Lao
động sáng tạo phát hiện ra những đặc tính, những mối liên hệ bản chất của
sự vật hiện tượng. Vì thế những sản phẩm lao động sáng tạo của trí thức
phải bao hàm tri thức mới, thể hiện tính cách mạng trong lao động sáng tạo

của người trí thức. Tính sáng tạo trong lao động của trí thức còn gắn liền với
kết quả trong hoạt động của thực tiễn.
Tính sáng tạo của lao động trí thức sẽ đem lại những nội dung, sản
phẩm khoa học mới, tiến bộ, có tính ứng dụng vào thực tiễn cao. Lao động
sáng tạo của trí thức còn có khả năng dự báo về tương lai và đưa ra những
phương hướng và cách thức giải quyết những vấn đề phức tạp của đời sống
15
xã hội. Chính vì thế, tính sáng tạo trong lao động của đội ngũ trí thứccòn
gắn liền vấn đề đạo đức nhân cách. Người trí thức bên cạnh tài năng, năng
lực chuyên môn của mình cần phải có đạo đức nhân cách trong sáng mới có
thể tạo ra những sản phẩm trí tuệ mang tính nhân văn cao cả, vì sự phát triển
nhân loại. Một người có trí tuệ, nhưng sản phẩm của họ tạo ra, đi ngược lại
lợi ích chung của nhân loại, dân tộc, vi phạm đạo đức và phục vụ cho chính
lợi ích cá nhân, hay một nhóm người, thì đó là tri thức không chân chính.
Như vậy cái mới trong lao động sáng tạo khoa học còn phải thể hiện
tính hữu ích cho xã hội. Đây chính là mục đích cần đạt tới của người trí
thức. Cái mới phải phục vụ cho nhu cầu phát triển của đời sống xã hội con
người, nhưng cái mới đó phải mang tính nhân văn, hướng tới những giá trị
cao đẹp của đời sống con người.
Thứ hai : Lao động sáng tạo của trí thức đòi hỏi phải có một hệ thống
kiến thức cơ bản và kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành đồng thời phải
có phương pháp tư duy khoa học phù hợp với đối tượng nghiên cứu
Trí thức trước hết để phục vụ cho công việc lao động sáng tạo của
mình thì phải có một hệ thống kiến thức cơ bản làm nền tảng hiểu biết để có
thể nghiên cứu những tầng kiến thức sâu hơn, đó là cơ sở nền tảng của sự
hiểu biết mà bất kỳ một người trí thức nào cũng cần có và lĩnh hội đầy đủ.
Bên cạnh đó, đã là một người trí thức thì cần phải có kiến thức chuyên sâu
về chuyên ngành, đó là phải nắm vững và hiểu biết cặn kẽ kiến thức chuyên
ngành để phục vụ cho công tác nghiên cứu tìm tòi.
Khi trí thức đã tìm ra được vấn đề thúc đẩy cần phải nghiên cứu thì

phải có một phương pháp tư duy khoa học đúng đắn phù hợp với đối tượng
nghiên cứu. Điều này là rất quan trọng đối với công tác nghiên cứu, bởi nếu
áp dụng một phương pháp tư duy, phương pháp nghiên cứu không phù hợp
thì có khi không đạt được kết quả như mong muốn mà còn phản tác dụng.
Một khi đã có phương pháp tư duy khoa học phù hợp với đối tượng nghiên
cứu và áp dụng đúng đắn sáng tạo trong suốt quá trình nghiên cứu thì sẽ đạt
16
được kết quả như mong muốn, thậm chí còn thu được kết quả nhanh hơn dự
kiến ban đầu. Điều đó nhấn mạnh tầm quan trọng của phương pháp tư duy
khoa học đúng đắn và sự lựa chọn của những người trí thức.
Thứ ba: Lao động sáng tạo của trí thức không chỉ đòi hỏi sự vận động
của tư duy và sức mạnh của lý trí mà còn phải có tình cảm (cảm hứng), lòng
say mê khoa học
Cảm hứng và lòng say mê khoa học là hai yếu tố để làm lên thành
công và những dấu ấn đậm nét của bất kỳ một người trí thức nào khi nghiên
cứu khoa học. Đó là điều quan trọng mà mỗi người trí thức cần phải có
trong suốt quá trình hoạt động khoa học của mình. Cảm hứng đó có thể lấy
ngay từ những điều bình dị tồn tại xung quanh cuộc sống hay công việc
hàng ngày, cũng có khi phải đi tìm hay tác động để nảy sinh. Nguồn cảm
hứng mà người trí thức tìm thấy hay cảm nhận được sẽ là một động lực to
lớn để họ nghiên cứu, tìm tòi, đào sâu suy nghĩ và trong một số trường hợp
nó sẽ trở thành nguồn cảm hứng bất tận đối với với sự nghiệp nghiên cứu
khoa học của một người trí thức.
Cần phải khẳng định rằng, tình cảm và lòng say mê nghiên cứu khoa
học là yếu tố quan trọng tạo nét riêng tư cũng như sự thành công của bất kỳ
người trí thức nào khi lao động sáng tạo.
Thứ tư : Sản phẩm lao động của trí thức là tri thức khoa học mới trên
cơ sở kế thừa cái cũ nhưng không lặp lại, thường mang đậm dấu ấn cá nhân
Tri thức khoa học liên quan chặt chẽ với tri thức kinh nghiệm, xuất
phát từ tri thức kinh nghiệm nhưng khác nhau về chất so với tri thức kinh

nghiệm. Tri thức kinh nghiệm chỉ phản ánh bề ngoài hoặc từng mặt rời rạc
của sự vật hiện tượng, từ những hoạt động hàng ngày, lặp đi lặp lại, xuất
phát từ nhận thức cảm tính. Còn tri thức khoa học phản ánh bản chất, quy
luật của sự vật hiện tượng, phản ánh những mối liên hệ của sự vật hiện
tượng trong thế giới khách quan. Tri thức khoa học là kết quả của quá trình
nhận thức lý tính, bắt nguồn từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm
17
thông qua hoạt động lao động của tầng lớp trí thức – lao động trí óc phức
tạp. Sản phẩm lao động của tầng lớp trí thức chính là những tri thức khoa
học. Sản phẩm này có đặc điểm: tồn tại ở dạng tinh thần, mới, có tính kế
thừa nhưng không lặp lại, có giá trị xã hội cao. Vì vậy, lao động của trí thức
là lao động mang tính sáng tạo rõ nét.
Tri thức khoa học rất đa dạng, phong phú, có thể xem xét ở các lĩnh vực
khác nhau: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học công
nghệ, khoa học liên ngành. Mỗi lĩnh vực đó lại có nhiều chuyên ngành khác
nhau: toán học, văn học, vật lí, sinh học, hóa học, địa lý, chính trị, xã hội học,
lịch sử, tâm lý xã hội…Chúng ta có thể xem xét tri thức khoa học thông qua
các loại hình: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng hay triển khai. Tri thức
khoa học được kết tinh ở nhiều dạng sản phẩm khác nhau: các học thuyết, lý
thuyết khoa học, các đề án thiết kế, kế hoạch, các tác phẩm văn học nghệ thuật,
giáo trình, bài giảng, bài báo…Các dạng sản phẩm, chuyên ngành khoa học
trên đều phản ánh sâu sắc một vấn đề của tự nhiên, của đời sống xã hội nên
nhiều khi không thể nhận biết ngay một cách dễ dàng giá trị của các công trình
khoa học. Có những công trình nhiều năm sau mới được thừa nhận và mới
được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống.
Kết quả lao động của trí thức thường mang đậm dấu ấn cá nhân:
Trong thực tế, không phải không có sản phẩm trí tuệ là kết quả chung của
một nhóm người, của một tập thể các nhà khoa học, của một đơn vị nghiên
cứu. Tuy nhiên, dù là sản phẩm của một cá nhân hoặc là sản phẩm của nhiều
người thì tính sáng tạo cá nhân vẫn thường được thể hiện rõ, nhất là các

công trình khoa học của cá nhân. Có khi chỉ cần nhắc đến một thành tựu nào
đó là người ta đã có thể nhớ ra hoặc nhắc ngay tên tác giả, người khai sinh
ra nó. Nền y học, sử học, toán học, khoa học công nghệ… của đất nước gắn
liền với tên tuổi của rất nhiều trí thức lớn.
Thứ năm : Trí thức là người luôn có thói quen lật lại vấn đề
18
Trí thức là người luôn có thói quen lật lại vấn đề, do chính thói quen
đào sâu suy nghĩ, để tìm ra những cái mới, cái sáng tạo và đúng đắn nhất,
bởi vậy trí thức thường hay có ý kiến phản biện. Trong xã hội cũng như
trong mỗi đơn vị, những ý kiến phản biện mang tính xây dựng đều có giá trị,
ít nhất cũng giúp người được phản biện cân nhắc, bổ sung, hoàn thiện chủ
kiến của mình. Nhưng ý kiến phản biện, nhất là những ý kiến quá thẳng
thắn, dễ gây phản ứng tiêu cực, vì vậy người phản biện cũng cần chọn cách
nói, cách phản ứng thích hợp, thời điểm nói thích hợp để tính thuyết phục
của ý kiến mình được cao hơn.
Thói quen lật lại vấn đề nhiều khi khiến người trí thức lật lại cả ý kiến
của mình. Tự phản biện mình là một thói quen tốt, thể hiện thái độ thực sự
cầu thị, tuy nhiên nếu trước bất kỳ việc gì cũng cân đi nhắc lại mà không
dám hành động thì sẽ thành nhu nhược, do dự, thiếu quyết đoán.
Mặc dù hay lật lại vấn đề nhưng khi đã tin điều gì một cách có căn cứ
thì trí thức thường rất trung thành với niềm tin của mình.
1.2. Vai trò của trí thức trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, trí thức có vai trò
rất lớn. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trên cơ sở tổng kết lịch sử xã hội loài
người và thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của lịch sử phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đã đánh giá cao vai trò, vị trí của tầng lớp trí
thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong xu thế phát triển của nhân
loại nói chung và của nền kinh tế tri thức hiện nay nói riêng, lao động trí óc
ngày càng chiếm ưu thế. Nhiều quá trình sản xuất đòi hỏi người sản xuất
phải có trình độ tri thức, chuyên môn cao, làm việc theo phương thức sáng

tạo. Do vậy, tầng lớp trí thức đang phát triển rất nhanh chóng và chắc chắn
sẽ trở thành bộ phận dân cư lớn có vai trò và sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến
diễn biến chính trị, kinh tế, xã hội. Song vai trò của trí thức đối với tiến bộ
xã hội không chỉ thể hiện trong lĩnh vực sáng tạo ra của cải vật chất, mà còn
cả trong lĩnh vực đời sống tinh thần. Trí thức tạo ra cơ sở nhận thức mới,
19
những quan điểm mới trong quá trình cải tạo và phát triển không ngừng thế
giới tự nhiên, xã hội và cả bản thân con người.
Tất cả những cái đó khẳng định vai trò to lớn của trí thức – các đại
biểu sáng tạo của loài người đối với tiến bộ xã hội và vai trò đó được thể
hiện cụ thể như sau:
1.2.1. Trí thức là lực lượng đi đầu, có vai trò quan trọng, quyết định
sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài
Thực tiễn đã chứng minh, sự phát triển của nền kinh tế xã hội hiện
đại, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước cần phải có những con người hiện đại. Đội ngũ trí thức có vai trò và
trách nhiệm lớn lao trong việc đổi mới sự nghiệp giáo dục – đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra
những con người có năng lực cao và phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng cho
nhu cầu lao động hiện nay.
Đồng thời để có một đội ngũ trí thức và có nguồn nhân lực trí tuệ cao
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, trước hết phải xây dựng
được nền giáo dục hướng vào mục tiêu: “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài”. Thời đại ngày nay nếu thiếu tài năng trí tuệ sẽ không
có sự phát triển bền vững. Tài nguyên trí tuệ nằm ngay trong chính mỗi con
người và đặc biệt là nằm trong kho tàng tri thức của nhân loại, mà trí thức là
kết tinh những giá trị trí tuệ tiêu biểu của toàn dân tộc cũng như của toàn
nhân loại. Mà cuộc chạy đua giữa các quốc gia trong thế kỉ XXI này là cuộc
chạy đua trên lĩnh vực giáo dục, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo ra đội ngũ

nhân tài để xây dựng đất nước. Bởi vậy, đội ngũ trí thức ngày càng có vai
trò đặc biệt quan trọng, nó là đội ngũ nắm giữ nhiệm vụ phát triển sự nghiệp
giáo dục đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
20
1.2.2. Trí thức là lực lượng đi đầu trong việc đề xuất xây dựng
những luận cứ khoa học cho việc soạn thảo xây dựng các nghị quyết
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Đại hội VI (1986) của Đảng đã chính thức thông qua đường lối đổi
mới toàn diện đất nước. Đường lối đó không ngừng được hoàn thiện và bổ
sung ở các nghị quyết và các văn kiện của Đảng trong hơn hai mươi năm
qua. Đó thực sự là kết tinh của trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta, trong đó có sự góp phần không nhỏ của đội ngũ trí thức
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội….
Đổi mới toàn diện đất nước thực sự là một cuộc cách mạng, là yêu cầu
tất yếu, đòi hỏi Đảng phải tập hợp và phát huy mọi nguồn lực, trong đó nguồn
lực trí thức có vai trò rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh khoa học – công
nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như trong giai đoạn hiện nay.
Khi xây dựng phương hướng, chiến lược phát triển đất nước thời kì đổi mới,
Đảng ta đã đánh giá đúng vai trò của trí thức khoa học. Đây là cơ sở quan trọng
để xác định đúng vai trò, vị trí của trí thức dân tộc trong thời kì mới. Đại hội VI
của Đảng đã khẳng định: “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là bảo đảm
quyền tự do, sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực
được sử dụng đúng và phát triển…”. Việc khẳng định và đề cao vai trò của đội
ngũ trí thức trong thời kì mới đã được thống nhất và xuyên suốt trong các kì
Đại hội của Đảng. Đặc biệt Đại hội IX của Đảng (2011) – Đại hội đưa đất nước
bước vào thế kỉ mới – đã nhấn mạnh: “phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đúng và
đãi ngộ xứng đáng các tài năng ”. Phát huy năng lực của trí thức trong việc
thực hiện các chương trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nước và xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật.
Trong những năm qua, nhiều trí thức đã trực tiếp tham gia vào việc

chuẩn bị những quyết sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều ý kiến đóng góp
bổ ích cho việc hoạch định chiến lược và chính sách có căn cứ chính xác
hơn. Trong bầu không khí sinh hoạt dân chủ của cả nước, hoạt động của đội
ngũ trí thức đã có nhiều đổi mới. Đảng và Nhà nước khuyến khích việc thảo
21
luận, tranh luận, lấy ý kiến đóng góp…để có những kiến giải lý luận và
phương án cải biến thực tiễn khả thi, hiệu quả và phù hợp nhất. Vì vậy,
trong việc xây dựng và hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, chính sách, pháp
luật, hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước đều có sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức.
1.2.3. Trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần duy trì, xây dựng và
phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại
Vai trò của đội ngũ trí thức tất nhiên không chỉ thể hiện trong lĩnh vực
sáng tạo ra của cải vật chất mà cả trong lĩnh vực sáng tạo ra các giá trị của
đời sống tinh thần. Công cuộc đổi mới của đất nước đã hướng toàn bộ đội
ngũ trí thứcphát huy lao động sáng tạo trên khắp các lĩnh vực của đời sống
xã hội, ra sức khắc phục tình trạng nghèo đói về trí tuệ, thông tin…Khoa
học và công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật trong quần chúng nhân dân
lao động trên khắp cả nước, mở mang tri thức, giao lưu văn hóa, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa mới của nhân loại góp phần làm cho đời sống tinh
thần của nhân dân ngày càng trở lên phong phú và trong sáng.
Văn hóa – văn nghệ là bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới.
Nhiệm vụ trung tâm của nó là góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng và bồi dưỡng con người Việt
Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách ngang tầm với những đòi hỏi
của sự ghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, người
trí thức trên mặt trận văn hóa phải thực sự là các chiến sĩ tiên phong, qua các
tác phẩm của mình, góp phần khẳng định những giá trị cao đẹp của con
người Việt Nam, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của đất nước, của dân tộc.

Đồng thời tích cực phê phán những nhân tố văn hóa tiêu cực, cản trở con
đường phát triển của đất nước. Là những người đại diện cho trí tuệ dân tộc,
đội ngũ trí thức đã góp phần duy trì và phát triển những truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc, tích cực tham gia công tác xây dựng nếp sống mới,
gia đình văn hóa mới; chống những tàn dư văn hóa cũ, độc hại; bài trừ hủ
22
tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, những tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng đến thuần
phong mỹ tục của người Việt Nam, hướng con người đến những giá trị chân
- thiện - mỹ. Người trí thức trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật là những
người trực tiếp tham gia phát triển và phổ biến văn hóa, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới; bảo tồn các
di tích lịch sử, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể để giáo dục nhân dân
về lòng yêu nước và tự hào dân tộc, về truyền thống lịch sử và văn hóa.
Đồng thời tiếp tục sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới thể hiện được tầm cao
của thời đại và chiều sâu của truyền thống; đấu tranh chống xu hướng bảo
thủ và xu hướng mất gốc, hư vô chủ nghĩa.
1.2.4. Trí thức là lực lượng có vai trò quan trọng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững mạnh
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa toàn
diện đất nước. Đây là một công cuộc có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển
của đất nước, là nhiệm vụ trung tâm của thời kì đổi mới. Đứng trước nhiệm
vụ và yêu cầu lớn lao đó đòi hỏi đội ngũ các nhà khoa học phải đóng vai trò
động lực, đi đầu trong việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học và
công nghệ, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong quản lý sản xuất, họ là những người thực hiện đổi mới cơ chế quản lý,
góp phần tổ chức lại và hướng dẫn các lực lượng lao động khác đưa tiến bộ
khoa học vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Người làm công tác khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trên
các lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng, triển khai công nghệ tiên tiến và các

dịch vụ khoa học công nghệ khác. Hơn ai hết, họ phải có trách nhiệm không
ngừng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của mình để tiếp thu và vận
dụng sáng tạo các tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới, biết
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
23
Theo định hướng đã được xác định trong Đại hội lần thứ X của Đảng, để
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta cần phải “tranh thủ những cơ
hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với việc phát triển
kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh các ngành kinh tế và
các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức”.
Như vậy với đường lối gắn liền công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền
kinh tế tri thức, phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, tăng cường phát
triển giáo dục và đào tạo thì việc trí thức hóa nguồn lực lao động sẽ diễn ra
mạnh mẽ trên phạm vi toàn xã hội cũng như trong mọi lực lượng tham gia
vào quá trình sản xuất, không phân biệt thành phần xã hội. Hơn lúc nào hết,
đội ngũ trí thức phải phát huy vai trò to lớn của mình trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nhiệm vụ chính trị
cơ bản là phát huy vai trò động lực của khoa học và công nghệ trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đi đầu trong việc nghiên cứu,
ứng dụng các kĩ thuật tiến bộ và công nghệ mới, đồng thời đổi mới cơ chế
quản lý sản xuất kinh doanh, góp phần tổ chức và hướng dẫn phong trào
quần chúng lao động tiến công vào khoa học, công nghệ, phát huy sáng
kiến, cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất để nâng cao năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế. Mở rộng và tăng cường năng lực hoạt động sáng tạo của
người lao động trong quá trình sản xuất nhằm vừa tăng thêm cơ hội tìm
kiếm việc làm, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, vừa tạo ra sự phát
triển nhanh và bền vững cho xã hội, nhờ đó tạo ra những khả năng thực tế để

con người phát triển toàn diện.
1.2.5. Vai trò của đội ngũ trí thức trong việc xây dựng và phát triển
nền kinh tế tri thức ở nước ta
Chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan,
mang tính toàn cầu của mọi nền kinh tế trong đó có nền kinh tế nước ta.
24
Theo UNDP – APDIP 2004: “nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử
dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc
khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm chủ và sáng tạo tri thức cho
nhu cầu riêng của mình”.
Qua hơn 20 năm đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu
to lớn, tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao nhất trên thế giới, kết hợp tốt tốc
độ tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; là nước có thành tích giảm
nghèo nhanh ở tốp đầu trên thế giới, đời sống nhân dân được nâng cao rõ
rệt. Tuy vậy chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và tính cạnh tranh của nền
kinh tế còn rất thấp, còn chứa đựng nhiều yếu tố phát triển không bền
vững và đặc biệt là đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác,
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chuyển tiếp từ xã hội công
nghiệp sang xã hội thông tin và trí thức.
Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do vốn, với tỷ lệ là
64%, nhân tố năng suất tổng hợp chỉ đóng góp có 19%. Cơ cấu kinh tế vẫn
còn nặng về nông nghiệp và khai thác tài nguyên, trong GDP tỷ lệ nông
nghiệp còn chiếm khoảng 20%, dịch vụ chỉ đạt 38%. Tỷ lệ dịch vụ thấp như
thế đã nói lên tính hiệu quả của nền kinh tế…Khái quát lại, nền kinh tế Việt
Nam còn đang là nền kinh tế dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động, hiệu
quả và chất lượng tăng trưởng thấp, giá trị do tri thức tạo ra không đáng kể;
chưa khơi dậy và phát huy khả năng sáng tạo của con người.
Sự chuyển mạnh sang hướng phát triển dựa trên tri thức gắn liền với phát
huy vai trò của đội ngũ trí thức trở thành yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn. Bỏ

lỡ thời cơ lớn Việt Nam sẽ tụt hậu xa hơn và đó là hiểm hoạ của dân tộc.
Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta không có nghĩa là chuyển ngay
sang các nghành công nghệ cao để có cơ cấu kinh tế như các nước phát triển
đã đạt tới, mà là thực thi chiến lược phát triển dựa vào tri thức, thực chất là
vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
25

×