Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

tình hình sử dụng thức ăn và kỹ thuật cho ăn trong nuôi thương phẩm tôm hùm bông (panulirus ornatus fabricius, 1798) tại khánh hòa và thử nghiệm ương nuôi tôm hùm bông bằng thức ăn viên trong ao đất phủ bạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 76 trang )

i

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Nuôi trồng Thủy
sản, Ban giám hiệu trường Đại học Nha Trang đã quan tâm và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn TS. Lê Anh Tuấn đã tận
tình giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức
và kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập ở lớp Cao học Nuôi trồng
Thủy sản khóa 2009 – 2011, trường Đại học Nha Trang.
Xin cảm ơn tập thể cán bộ của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản – Đại
học Nha Trang đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn dự án ACIAR và công ty Lucky Star Co., Ltd đã giúp đỡ hỗ trợ
kinh phí và kỹ thuật để tôi thực hiện được đề tài.
Xin chân thành cảm ơn tất cả bạn bè đã động viện, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và hoàn thành đề tài.
Lời cuối cùng, tôi xin được cảm ơn ba mẹ cùng những người thân trong gia
đình tôi, đã luôn bên cạnh giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để
tôi có thể học tập cũng như hoàn thành đề tài.

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả, số liệu
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào.



Nguyễn Bá Thiên An
iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN i
LỜI CAM ĐOAN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC CÁC HÌNH vi
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I – TỔNG QUAN 3
1.1. Sơ lược các đặc điểm sinh học của đối tượng nghiên cứu 3
1.1.1. Hệ thống phân loại 3
1.1.2. Đặc điểm sinh thái và phân bố 4
1.1.3. Đặc điểm sinh học sinh trưởng và dinh dưỡng 8
1.2. Tình hình nghề nuôi tôm hùm 11
1.2.1. Tình hình nghề nuôi tôm hùm trên thế giới 11
1.2.2. Tình hình nghề nuôi tôm hùm ở Việt Nam 14
1.3. Dinh dưỡng và thức ăn của tôm hùm 16
1.4. Các khía cạnh kinh tế và môi trường của nghề nuôi tôm hùm trên thế giới và
Việt Nam 22
1.4.1. Các khía cạnh kinh tế của nghề nuôi tôm hùm trên thế giới và Việt Nam.
22
1.4.2. Các khía cạnh môi trường của nghề nuôi tôm hùm trên thế giới và Việt
Nam 25
CHƯƠNG II – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 27
2.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 27

2.2.1. Sơ đồ khối nghiên cứu 27
2.2.2. Phương pháp điều tra và thu số liệu về tình hình sử dụng thức ăn và kỹ
thuật cho ăn trong nuôi thương phẩm tôm hùm Bông (P. ornatus) ở tỉnh Khánh
Hòa 29
2.3. Bố trí thí nghiệm và thu số liệu thử nghiệm ương nuôi tôm hùm Bông (P.
ornatus) trong ao đất phủ bạt 34
2.3.1. Nguồn tôm hùm Bông thí nghiệm. 34
iv

2.3.2. Nguồn nước nuôi tôm hùm Bông thí nghiệm 34
2.3.3. Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm 36
2.3.4. Chăm sóc và quản lý tôm hùm Bông ở các ao thí nghiệm 37
2.3.5. Thức ăn tươi 37
2.3.6. Thức ăn công nghiệp 38
2.3.7. Bố trí thí nghiệm 38
2.3.8. Phương pháp thu số liệu trong thử nghiệm ương nuôi tôm hùm trong ao
đất phủ bạt bằng thức ăn công nghiệp 39
2.4. Phân tích và xử lý số liệu 40
CHƯƠNG III – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN 41
3.1. Tình hình nuôi thương phẩm tôm hùm Bông tỉnh Khánh Hòa 41
3.2. Tình hình sử dụng thức ăn, kỹ thuật cho ăn trong nuôi thương phẩm tôm hùm
Bông và thái độ của người nuôi tôm hùm đối với việc sử dụng thức ăn công
nghiệp ở tỉnh Khánh Hòa. 46
3.2.1. Tình hình sử dụng thức ăn và kỹ thuật cho ăn trong nuôi thương phẩm
tôm hùm Bông ở tỉnh Khánh Hòa 46
3.2.2. Thái độ của người dân nuôi tôm hùm về việc sử dụng thức ăn công
nghiệp cho nuôi tôm hùm lồng 48
3.3. Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường của nghề nuôi tôm hùm
Bông hiện nay ở tỉnh Khánh Hòa. 49
3.3.1. Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm hùm Bông hiện nay

ở tỉnh Khánh Hòa 50
3.3.2. Đánh giá ảnh hưởng của nghề nuôi tôm hùm lồng lên môi trường ở tỉnh
Khánh Hòa 53
3.4. Thử nghiệm ương nuôi tôm hùm Bông nuôi trong ao đất phủ bạt 54
3.4.1 Môi trường trong hệ thống ao nuôi thí nghiệm 55
3.4.2. Sinh trưởng của tôm hùm Bông được ương nuôi trong ao đất phủ bạt với
hai loại thức ăn khác nhau 57
3.4.3. Tỷ lệ sống của tôm hùm Bông ương nuôi trong ao đất phủ bạt đối với 2
loại thức ăn khác nhau 61
CHƯƠNG IV – KẾT LUẬN & ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 63
4.1. Kết luận 63
4.2. Đề xuất ý kiến 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65

v


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Phân bố số lượng lồng nuôi (lồng) và sản lượng tôm hùm nuôi lồng
(tấn/năm) tại Việt Nam qua các năm [11], [12] 15
Bảng 1.2: Đặc điểm kinh tế và sinh học của các loài tôm hùm gai ở Việt Nam 23
Bảng 1.3: Hộ nuôi và tổng thu nhập hàng năm của các hộ nuôi tôm hùm ở 3 tỉnh:
Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận. 25
Bảng 3.1: Tình hình chung nghề nuôi tôm hùm Bông tỉnh Khánh Hòa 41
Bảng 3.2: Thông tin chung về các hộ nuôi 42
Bảng 3.3: Thông tin chung về giống và thu hoạch năm 2010 43
Bảng 3.4: Thông tin chung về lồng nuôi 44
Bảng 3.5: Thông tin chung về kích thước, thời gian và mật độ các giai đoạn 45
Bảng 3.6: Thành phần các loại thức ăn, kỹ thuật cho ăn từng giai đoạn nuôi tôm

hùm Bông ở tỉnh Khánh Hòa 47
Bảng 3.7: Cấu trúc chi phí sản xuất của hoạt động nuôi tôm hùm Bông ở tỉnh Khánh
Hòa (n = 100). 50
Bảng 3.8: Chi phí thức ăn là cá tạp để sản xuất ra 1kg tôm hùm Bông nuôi lồng tỉnh
Khánh Hòa 52
Bảng 3.9: Các chỉ tiêu về kinh tế ngành nuôi tôm hùm lồng ở tỉnh Khánh Hòa [50]
52
Bảng 3.10: Thành phần sinh hóa các loại thức ăn tươi nuôi tôm hùm ở Khánh Hòa
[50] 53
Bảng 3.11: Lượng Nitơ thải vào môi trường của nghề nuôi tôm hùm tỉnh Khánh
Hòa năm 2010 54
Bảng 3.12: Một số yếu tố môi trường trong hệ thống ao ương nuôi thí nghiệm 55
Bảng 3.13: Các chỉ tiêu sinh trưởng về khối lượng tôm hùm Bông được ương nuôi
trong ao đất phủ bạt với 2 loại thức ăn 59
vi

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1: Chu kỳ sống của tôm hùm [10], [27] 4
Hình 1.2: Sơ đồ biểu diễn tỷ lệ phần trăm các loại thức ăn chủ yếu của tôm hùm Mỹ
(Homarus americanus) ngoài tự nhiên [28]. 11
Hình 1.3: Bốn loài tôm hùm Gai nuôi nhiều nhất ở Việt Nam 24
Hình 2.1: Sơ đồ khối phương pháp nghiên cứu 28
Hình 2.2: Lồng chìm nuôi tôm hùm ở tỉnh Khánh Hòa. 29
Hình 2.3: Lồng nổi nuôi tôm hùm ở tỉnh Khánh Hòa 30
Hình 2.4: Hình ảnh tôm hùm Bông ương giống trước khi đem vào thí nghiệm 34
Hình 2.5: Qui trình xử lý nước để ương nuôi thí nghiệm 35
Hình 2.6: Các thiết bị và dụng cụ thí nghiệm 36
Hình 2.7: Thức ăn tươi 38
Hình 2.8: Thức ăn công nghiệp 38

Hình 3.1: Thái độ của người nuôi tôm hùm trong việc sử dụng thức ăn công nghiệp
để nuôi tôm hùm ở tỉnh Khánh Hòa(n = 100) 49
Hình 3.2: Hình ảnh ao đất phủ bạt nuôi tôm hùm Bông 56
Hình 3.3: Một số hình ảnh ao đất phủ bạt nuôi tôm hùm Bông bị lũ lụt 56
Hình 3.4: Sinh trưởng về trọng lượng của tôm hùm Bông được ương nuôi trong ao
đất với 2 loại thức ăn 58
Hình 3.5: Sự tăng trưởng về trọng lượng của tôm hùm Bông được ương nuôi trong
ao đất phủ bạt với 2 loại thức ăn khác tính theo phần trăm 60
Hình 3.6: Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về khối lượng của tôm hùm Bông được
ương nuôi trong ao đất phủ bạt với 2 loại thức ăn. 60
Hình 3.7: Hệ số chuyển đổi thức ăn của tôm hùm Bông ương nuôi trong ao đất phủ
bạt đối với 2 loại thức ăn. 61
Hình 3.8: Tỷ lệ sống tôm hùm Bông ương nuôi trong ao đất phủ bạt với 2 loại thức
ăn 61


1

MỞ ĐẦU

Tôm hùm gai (Palinuridae) là một trong những đối tượng quan trọng của
nghề nuôi biển trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Họ Palinuridae có 49 loài nhưng chỉ có 33 loài có giá trị kinh tế, trong đó
loài tôm hùm Bông (Panulirus ornatus) là một trong những loài được quan tâm
nhiều nhất, vì chúng là một trong những loài có thời gian phát triển của giai đoạn ấu
trùng ngoài biển khơi ngắn nhất, sinh trưởng nhanh nhất và có giá trị kinh tế cao
trên nhiều thị trường.
Ở Việt Nam, nghề nuôi tôm hùm được xem là bắt đầu từ năm 1992, ở tỉnh
Khánh Hòa và hiện nay xác định đây là một đối tượng phát triển chủ lực của ngành
Thủy sản do giá trị kinh tế và dinh dưỡng mà nó mang lại. Nghề nuôi tôm hùm ở

Việt Nam phát triển tập trung ở các tỉnh ven biển miền Nam Trung bộ: Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, đã mang lại nhiều lợi nhuận cho người nuôi. Trong 7
loài tôm hùm gai phân bố ở Việt Nam, tôm hùm Bông là loài được người nuôi tập
trung nuôi nhiều nhất.
Sự phát triển mạnh mẽ của nghề nuôi tôm hùm trong những năm gần đây đã
cho thấy, đây là một nghề có hiệu quả kinh tế cao nhưng còn nhiều rủi ro. Nguyên
nhân: quy trình nuôi chưa hoàn thiện; nguồn giống còn phụ thuộc hoàn toàn vào tự
nhiên; quá trình nuôi còn phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện thời tiết của tự nhiên;
dịch bệnh, Để nghề nuôi tôm hùm có thể phát triển bền vững và có hiệu quả hơn,
các nhà khoa học Việt Nam cần phải kết hợp với người nuôi tôm hùm và các nhà
khoa học thế giới tìm hiểu và giải quyết các vấn đề trên.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu chuyên sâu hơn về điều kiện
môi trường sống, các loại thức ăn và kỹ thuật cho ăn ở từng giai đoạn phát triển,
hiệu quả kinh tế và môi trường của nghề nuôi tôm hùm Bông là vấn đề hết sức cấp
thiết. Nó sẽ là cơ sở để hoàn thiện quy trình nuôi và nâng cao hiệu quả kinh tế của
nghề này.
Được sự đồng ý và cho phép của trường Đại học Nha Trang và khoa Nuôi
trồng Thủy sản, tôi thực hiện đề tài:
“Tình hình sử dụng thức ăn và kỹ thuật cho ăn trong nuôi thương phẩm
tôm hùm Bông (Panulirus ornatus Fabricius, 1798) tại Khánh Hòa và thử
nghiệm ương nuôi tôm hùm Bông bằng thức ăn viên trong ao đất phủ bạt.”
Với các nội dung nghiên cứu sau:
1. Tình hình nuôi thương phẩm tôm hùm Bông ở Khánh Hòa.
2

2. Tình hình sử dụng thức ăn và kỹ thuật cho ăn trong nuôi thương phẩm tôm
hùm Bông.
3. Đánh giá hiệu quả kinh tế và môi trường của hoạt động nuôi tôm hùm Bông.
4. Thử nghiệm ương nuôi tôm hùm Bông bằng thức ăn viên trong ao đất phủ
bạt.

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung thêm dữ liệu khoa học về đặc điểm môi
trường sống, đặc điểm dinh dưỡng của tôm hùm Bông, hiệu quả kinh tế và môi
trường của nghề nuôi tôm hùm Bông và là cơ sở để hoàn thiện quy trình nuôi tôm
hùm Bông ở tỉnh Khánh Hòa.
3

CHƯƠNG I – TỔNG QUAN

1.1. Sơ lược các đặc điểm sinh học của đối tượng nghiên cứu
1.1.1. Hệ thống phân loại
Tôm hùm là tên gọi chung nhóm giáp xác mười chân thuộc 4 họ:
Palinuridae, Scyllaridae, Nephropidae và Synaxidae; giữa chúng có những điểm đặc
trưng về tập tính và môi trường sống [3], [8]. Với sự phong phú về thành phần
giống loài, chúng tạo nên mắc xích quan trọng trong chuỗi thức ăn và có vai trò
thiết yếu trong hệ sinh thái của đáy biển và đại dương.
Họ tôm hùm Gai (Palinuridae) có 49 loài thuộc 8 giống nhưng chỉ có 33 loài
thuộc 3 giống (Panulirus, Palinurus và Jasus) có ý nghĩa kinh tế quan trọng trong
công nghiệp khai thác tôm hùm của thế giới, như: loài Panulirus marginatus ở vùng
biển quần đảo Hawaii, loài Panulirus pascuensis ở vùng biển quần đảo Easter, loài
Panulirus japonicus ở Đài Loan, [42]. Các giống loài thường gặp trong họ này
được chia thành 3 nhóm theo vùng sinh thái rõ rệt: vùng biển nhiệt đới, vùng biển
cận nhiệt đới và vùng biển ôn đới [41], [49].
Ở Việt Nam, vùng phân bố của 17 loài tôm hùm đã được mô tả [8]. Đặc biệt,
vùng biển miền Trung – Việt Nam (thuộc vùng biển khí hậu nhiệt đới), rất phong
phú về thành phần giống loài tôm hùm, với họ Palinuridae có 7 loài thuộc giống
Panulirus và 1 loài thuộc giống Linuparus; họ Synaxidae có 1 loài thuộc giống
Scyllarides, 2 loài thuộc giống Ibacus và 1 loài thuộc giống Thenus [3].
Trong nhóm tôm hùm gai được nuôi phổ biến ở Việt Nam hiện nay, tôm hùm
Bông (tôm hùm Sao, tôm hùm Hèo) là loài có giá trị thương phẩm cao nhất. Và sau
đây là vị trí phân loại của tôm hùm Bông:








4

Giới Động Vật (Animalia)
Ngành Chân Đốt (Arthropoda)
Lớp Giáp Xác (Crustacea)
Bộ Mười Chân (Decapoda)
Họ Tôm Hùm Gai (Palinuridae)
Giống Panulirus
Loài Panulirus ornatus (Fabricius, 1798)
Tên Việt Nam: tôm hùm Bông, tôm hùm Sao và tôm hùm Hèo
Tên tiếng Anh: ornate spiny lobster, ornate rock lobster, tiger lobster.
1.1.2. Đặc điểm sinh thái và phân bố
Phân bố của tôm hùm được quyết định bởi tính di truyền và quá trình thích
nghi của loài với các điều kiện tự nhiên, môi trường ở từng vùng biển. Tôm hùm gai
có chu kỳ sống rất phức tạp và trải qua nhiều lần thay đổi thích nghi với các môi
trường sống khác nhau, nghĩa là mỗi giai đoạn sống chúng gắn với một điều kiện
sinh thái nhất định và tạo ra những quần thể riêng biệt.
Theo Phillips (2004), mô tả vòng đời phát triển của tôm hùm nói chung như
sau:
Hình 1.1: Chu kỳ sống của tôm hùm [5], [27].
Theo các tác giả, Marx & Hermkind (1985) và Hermkind & Butler (1986) đã
thống nhất phân chia chu kỳ sống của tôm hùm theo 5 thời kỳ chủ yếu: thời kỳ ấu
ẤU TRÙNG PHYLLOSOMA

HẬU ẤU TRÙNG PUERULUS
Trôi nổi theo dòng
nước nhờ sóng, gió
và dòng chảy
Theo dòng nước di
chuyển vào vùng gần
bờ
Đi vào thềm lục địa
và sống ổn định ở
vùng gần bờ
Sinh trưởng
và phát triển
ở vùng rạn
TÔM CON
GIAI ĐOẠN LARVAE
GIAI ĐOẠN
ĐẦU ẤU
TRÙNG
PHYLLOSO-
MA
TRỨNG NỞ
TÔM MANG TRỨNG
TÔM TIỀN TRƯỞNG THÀNH
TÔM CON
5

trùng phyllosoma, thời kỳ hậu ấu trùng puerulus, thời kỳ tôm con (juvenile), thời kỳ
tiền trưởng thành (immature) và thời kỳ thành thục (mature) [17].
Giai đoạn phát triển từ ấu trùng đến con non được chia làm 9 giai đoạn tương
đương 2 thời kỳ: thời kỳ ấu trùng phyllosoma và thời kỳ hậu ấu trùng puerulus.

Thời kỳ ấu trùng phyllosoma bao gồm 5 giai đoạn, từ giai đoạn phyllosoma 01 đến
phyllosoma 05. Thời kỳ hậu ấu trùng puerulus từ giai đoạn 06 đến giai đoạn 09.
Thời gian cần thiết cho giai đoạn ấu trùng của các loài tôm hùm gai nhiệt đới là
khác nhau: với loài P. cygnus, thời gian cần thiết cho quá trình phát triển ấu trùng
ước tính khoảng 9 – 11 tháng (Phillips và ctv., 1979); với loài P. ornatus thời gian
cần thiết cho quá trình phát triển ấu trùng ước tính khoảng 4 – 7 tháng [42].
 Thời kỳ ấu trùng phyllosoma: Tên phyllosoma có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp, “phyllos” có nghĩa là lá, “soma” có nghĩa là cơ thể. Ở thời kỳ này,
toàn thân ấu trùng trong suốt, có chiều dài cơ thể 1 – 2 mm, phát triển thông qua
quá trình lột xác và sự tăng lên về kích thước [42]. Hầu như trong suốt thời kỳ này,
ấu trùng sống trôi nổi trong tầng mặt như những sinh vật phù du từ những vùng biển
không quá xa bờ đến những vùng biển khơi nhờ sóng, gió và các dòng hải
lưu, [12]. Kết quả điều tra nghiên cứu loài P. cygnus cho thấy, ấu trùng
phyllosoma sau khi nở ra đã có tập tính di cư thẳng đứng ở lớp nước tầng mặt của
vùng nước gần bờ ra vùng biển Ấn Độ Dương, nhờ sức gió của lớp nước bề mặt
chúng đã di chuyển đi với tốc độ khoảng 5.25km/ngày. Những nghiên cứu về ấu
trùng phyllosoma loài P. argus trong vùng biển phía Đông – Nam Florida cho thấy,
cả 3 thời kỳ ấu trùng phyllosoma đều phân bố trong lớp nước bề mặt, nhưng có sự
khác nhau về cách thức phân bố thẳng đứng tùy thuộc và sự phát triển cá thể ở mỗi
vùng mà ấu trùng đã thích nghi [51].
Ở Việt Nam, trên cơ sở phân tích những kết quả nghiên cứu về dòng
chảy dọc biển Việt Nam đã cho thấy rằng ấu trùng phyllosoma tôm hùm bị phát tán
bởi hệ thống các dòng chảy biển mùa hè, chúng luôn di chuyển và hoàn toàn phụ
thuộc vào các điều kiện thuỷ văn môi trường biển khơi [5], [12], [13].
 Thời kỳ hậu ấu trùng puerulus: hậu ấu trùng đã bắt đầu sống
định cư và đạt chiều dài cơ thể khoảng 30mm [42]. Nghiên cứu về thời kỳ này,
Phillips (1975), Calinski & Lyons (1983), Phillips & Mac Millan (1987), Nishida và
6

CTV (1990) đã đưa ra những giả thuyết rất đặc trưng về đặc tính phân bố. Ngay sau

khi biến thái thành hậu ấu trùng puerulus, toàn thân hậu ấu trùng vẫn trong suốt
nhưng có khả năng bơi lội tự do. Chúng có xu hướng di chuyển vào những vùng
biển nông có điều kiện sinh thái thuận lợi nhờ vào hệ thống cảm nhận phức tạp trên
anten 2 và các lông cứng, hậu ấu trùng đã có khả năng định hướng những tín hiệu
liên quan đến đường bờ biển. Môi trường phân bố của hậu ấu trùng puerulus phụ
thuộc vào điều kiện sinh thái của các vịnh, vũng hoặc đầm. Song, đa số là những
vùng biển ít sóng gió; nguồn thức ăn phong phú đa dạng; đáy bùn – cát, trầm tích
hạt mịn hoặc có nhiều rong che phủ; với hàm lượng các chất hữu cơ cao. Thời kỳ
này, hậu ấu trùng thích bám trên rong, trên đá, ví dụ: thời kỳ hậu ấu trùng
puerulus loài P. argus thường gặp trong vùng có rong đỏ (Laurencia spp), hoặc của
loài P. interruptus và P. japonicus trong các hốc, lỗ nhỏ. Theo các tác giả, ở thời kỳ
hậu ấu trùng puerulus môi trường sinh thái thích hợp là yếu tố quan trọng hơn cả
nguồn thức ăn [44].
 Thời kỳ tôm hùm con (juvenile): Sau khi lột xác và biến thái,
hậu ấu trùng puerulus trở thành tôm hùm con với màu sắc và hình thái rất giống tôm
trưởng thành, nhưng sống định cư trong các vũng, vịnh, đầm, ven biển. Khác với
các giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng, tôm hùm con sống ổn định hơn và thường
tập trung ở các vùng rạn san hô trong các vũng, vịnh, đầm, với độ sâu phân bố dao
động trong khoảng 0,5 – 5m. Bắt đầu thời kỳ này, tập tính sống bầy đàn của tôm
hùm đã thể hiện rất rõ. Chúng thường nấp trong các khe, kẽ đá hoặc bám vào những
hõm, lỗ nhỏ của các ghềnh đá.
Những yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến sự phân bố thời kỳ tôm hùm
con của tôm hùm gai đã được Berry (1971) đưa ra khi nghiên cứu tôm hùm ở vùng
ven biển phía Đông Châu Phi, bao gồm: nhiệt độ nước, độ mặn, độ đục, độ sâu,
hàm lượng oxy hòa tan, loại đáy, sự dao động của thủy triều và vùng địa lý. George
& Main (1967), cho rằng nhiệt độ nước là một trong những tham số sinh thái quan
trọng, bị chi phối bởi độ sâu và vĩ độ đã quyết định phân bố của các giống trong họ
Palinuridae.
Hầu hết các loài thuộc giống Panulirus sống ở vùng nước ấm, nhiệt độ
dao động từ 20 – 30

0
C, trung bình khoảng 25
0
C. Đó là những vùng thềm lục địa, vĩ
7

độ thấp khoảng từ 35 – 10
0
. Và từ thời kỳ này, nguồn thức ăn là một trong những
yếu tố chính quyết định môi trường sống của chúng [12], [3836].
 Thời kỳ tiền trưởng thành (immature): Khi đạt đến thời kỳ tiền
trưởng thành, đa số tôm hùm gai có tập tính sống theo bầy đàn. Theo George &
Kensler (1970), các loài tôm hùm thuộc giống Panulirus thường gặp ở vùng biển
xích đạo của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và mỗi loài chiếm cứ một vùng
địa lý rất rõ ràng [37]. Và cụ thể, theo George (1974): loài P. penicillatus sống ở
vùng rạn xa bờ, nơi thường bị sóng biển xô đập mạnh; loài P. longipes thích sống
phía trên mặt rạn, nhiều ánh sáng và hàm lượng oxy hòa tan cao hay loài P.
versicolor dường như chỉ tìm thấy dưới những lớp đá ngầm có dòng chảy thủy triều
mạnh;
 Thời kỳ trưởng thành (mature): có thể nói thời kỳ này là một
bước ngoặt đáng chú ý trong đặc tính phân bố của tôm hùm, chúng có xu hướng di
chuyển có định hướng ra khỏi các đầm, vũng, vịnh, để đến các vùng rạn sâu hơn
với những điều kiện sinh thái thuận lợi cho sự phát triển và sinh sản của loài. Theo
Mckoy & Leachman (1982), Mac Diarmid (1985), Lipcius & Herrnkind (1987), các
tiến trình sinh sản của tôm hùm có liên quan chặt chẽ với các yếu tố sinh thái như
chu kỳ ánh sáng và nhiệt độ, cụ thể: thời gian chiếu sáng dài và nước ấm lên đã làm
tăng khả năng cặp đôi và sự phát triển buồng trứng của các cá thể; đặc biệt nhiệt độ
cao làm tăng đáng kể tỷ lệ lột xác ở con trưởng thành; ảnh hưởng đến cả sự thụ tinh
cho trứng ở các con cái; Và trong thời kỳ này, tôm hùm thường sống trong các rạn
ngầm và rạn ghềnh có độ sâu trên 10m đến khoảng 35 – 50m, thường là vùng rạn

ven bờ và các hải đảo, nền đáy là đá tảng, san hô và cát bùn.
Ở Việt Nam, tôm hùm thường phân bố ở khu vực ven bờ từ vịnh Bắc Bộ đến
vịnh Thái Lan; và con giống thường phân bố chính ở vùng biển miền Trung từ tỉnh
Quảng Bình đến tỉnh Bình Thuận [33], chúng là nhóm tôm hùm đặc trưng cho vùng
biển nhiệt đới [7], [18]. Về đặc điểm phân bố của nhóm tôm hùm Panulirus ở Việt
Nam thường thấy: ở vùng biển ven bờ, tôm hùm thường sống rải rác ở các rạn đá có
độ sâu từ 50m nước trở vào bờ.
Tôm hùm Bông (P. ornatus) là loài có kích thước lớn nhất trong nhóm
Panulirus, kích thước có thể đạt đến 10kg/cá thể [49] và thường sống ở độ sâu từ 25
– 30m nước trong các rạn đá hay san hô xa bờ.
8

Kết quả nghiên cứu về phân bố của tôm hùm trong thời kỳ thành thục sinh
dục của Nguyễn Thị Bích Thuý cho thấy hiện tượng di cư sinh sản ra những vùng
rạn có độ sâu lớn hơn 10m nước, tôm hùm Bông (P. ornatus) di cư ra sâu hơn các
loài khác (30m nước) [11].
1.1.3. Đặc điểm sinh học sinh trưởng và dinh dưỡng
1.1.3.1. Đặc điểm sinh học sinh trưởng
Sinh trưởng của tôm hùm đặc trưng bởi quá trình lột xác, qua đó có sự tăng
lên về kích thước và trọng lượng (Aiken, D.E., 1980). Chu kỳ lột xác của mỗi loài
tôm hùm phụ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh như: nhiệt độ nước, ánh sáng, độ
mặn, thức ăn, và các yếu tố nội tại của cơ thể như: sự điều tiết của các hormon lột
xác hay hormon ức chế lột xác, Các yếu tố này có mối quan hệ mật thiết và ảnh
hưởng lẫn nhau. Chu kỳ lột xác của các loài hay giữa các giai đoạn phát triển của
từng loài không giống nhau. Ở giai đoạn tôm con (chiều dài giáp đầu ngực (CL)
khoảng 8 – 13 mm), thời gian giữa 2 lần lột xác của tôm hùm Bông (P. ornatus) và
tôm hùm Xanh (P. homarus) khoảng 8 – 10 ngày, tôm hùm Sỏi (P. stimpsoni)
khoảng 15 – 20 ngày. Còn ở giai đoạn tôm trưởng thành (63 – 68 mm CL) thời gian
giữa 2 lần lột xác tương ứng là khoảng 40 – 50 ngày [8]. Đồng thời, qua mỗi lần lột
xác kế tiếp thì tỷ lệ phần trăm tăng chiều dài giáp đầu ngực giảm xuống [11], [31].

Mô tả về quá trình lột xác để tăng trưởng ở tôm hùm của một số tác giả như
Schwabe và CTV (1952); Berry (1977) và Aiken (1980) cho thấy quá trình lột xác
diễn ra chỉ trong vòng 10 phút, có khi chỉ mất 3 phút. Quá trình lột xác diễn ra nhờ
khả năng tách ra của lớp vỏ chitin phần đầu ngực và phần thân bụng. Sau lột xác
khả năng phục hồi cơ thể của tôm hùm cũng rất nhanh. Cũng theo các tác giả trên,
quá trình lột xác được chia ra làm 2 pha: pha chủ động và pha bị động [12].
Theo Przibram & Megusar (1912), trọng lượng của tôm hùm tăng lên gấp
đôi và kích thước tăng lên 1,26 mm sau mỗi lần lột xác trong điều kiện thuận lợi
(môi trường và thức ăn). Tuy nhiên, nghiên cứu của Kurata (1962) khi kiểm tra lại
kết quả trên và đã khẳng định kết quả trên chỉ đúng với giai đoạn con non (juvenile)
trên loài tôm hùm Mỹ (Homarus americanus).
Sự biểu hiện mối tương quan giữa trọng lượng và chiều dài cơ thể ở nhiều
loài giáp xác (bao gồm cả tôm hùm) đã được Kurata (1962) và Mauchline (1967)
thiết lập bằng phương trình đường thẳng có dạng:
9

L
n+1
= a + b×L
n

 L
n
: chiều dài cơ thể trước lột xác
 L
n+1
: chiều dài cơ thể sau lột xác
 a, b: hệ số phụ thuộc vào sự tăng kích thước sau lột xác
Đồng thời, tác giả cũng tìm ra những điểm chuyển trên dạng phương trình
liên quan đến chu kỳ sống của tôm hùm từ giai đoạn ấu trùng đến tôm con, tôm con

đến pha thành thục sinh dục [18].
Cooper & Uzmann (1977) bằng phương pháp đánh dấu và thu mẫu 60.000
con tôm hùm đã khám phá ra đường cong sinh trưởng thực nghiệm trùng khớp với
phương trình sinh trưởng của Von Bertalanffy:
L
t
= L
0
×(e
k×[t-t
0
]
)
 t: tuổi
 L
t
: chiều dài giáp đầu ngực tại tuổi t
 L
0
: chiều dài giáp đầu ngực tối đa của cá thể
 K: hệ số mà L
t
đạt tới chiều dài giáp đầu ngực tối đa
 t
0
: tuổi mà tại đó L
t
= 0 [25]
Một số yếu tố môi trường và sinh thái cũng có liên quan mật thiết đến sinh
trưởng, phát triển của tôm hùm, như: nhiệt độ nước, ánh sáng, độ mặn, hàm lượng

oxy hòa tan, thức ăn, tập tính sống bầy đàn và sự tái tạo các phần phụ. Ví dụ: nhiệt
độ nước thay đổi đột ngột khoảng 3 – 5
0
C có thể gây tử vong cho tôm con; trong
điều kiện không có ánh sáng thì chu kỳ lột xác của tôm sẽ kéo dài, hoạt động bắt
mồi giảm, màu sắc tự nhiên mất dần, tôm phát triển không bình thường; khi độ mặn
giảm đột ngột khoảng 8 – 10 ppt, tôm con sẽ chết hàng loạt; ở độ mặn 20 – 25 ppt
kéo dài 3 – 5 ngày sẽ gây hiện tượng chết từ từ ở tôm con [15]. Giai đoạn trưởng
thành khi độ mặn giảm xuống 20 ppt, tôm hùm rất yếu và không bắt mồi [8].
Trong các nghiên cứu về sinh trưởng ở tôm hùm, tuy vẫn còn rất nhiều vấn
đề cần phải tranh luận, như: tốc độ sinh trưởng đực, cái và các nghiên cứu chưa thể
khẳng định được rõ ràng con đực sinh trưởng tốt hơn con cái hay ngược lại; cũng
như trong cùng một loài ở các vùng phân bố khác nhau thì có sự khác nhau về tốc
độ sinh trưởng,


10

1.1.3.2. Đặc điểm sinh học dinh dưỡng
Tôm hùm là loài động vật ăn tạp, chúng bắt mồi vào ban đêm, các loại thức
ăn chủ yếu được sử dụng như: tôm, cua, cá, thân mềm, các loài giáp xác nhỏ khác,
đặc biệt là các loại mồi sống di chuyển chậm như sò, ốc, giáp xác đang lột
xác [12], [13]. Khi nghiên cứu về đặc điểm dinh dưỡng của tôm hùm gai nói riêng
và tôm hùm nói chung, các nhà khoa học thường đề cập đến 3 vấn đề chính: tập tính
tìm và chọn lọc thức ăn; cách thức ăn thức ăn; tiêu hóa thức ăn. Mỗi khía cạnh này
liên quan chặt chẽ với đặc điểm hình thái, đặc điểm cấu tạo của cơ quan tiêu hóa và
đặc tính di truyền của loài. Cụ thể:
Cấu tạo cơ quan bắt mồi và hệ thống tiêu hóa: Hầu hết các loài trong
giống Panulirus đều có các cơ quan cảm nhận khá hoàn thiện để giúp tôm hùm thích
nghi trong hoạt động sống như tìm nơi ở, phát hiện kẻ thù, , đặc biệt là các hoạt

động tìm kiếm mồi hàng ngày. Đôi mắt kép với cuốn mắt dài khoảng 10 – 12 mm ở
cá thể trưởng thành đã giúp chúng có thể nhìn khắp 4 phía; đôi anten 2 dài gấp đôi
cơ thể, có phân đốt và kết hợp với các gai nhỏ bên trên bề mặt đã giúp cho tôm hùm
có khả năng phát hiện mồi từ xa rất tốt. Cơ quan bắt mồi chủ yếu là miệng và 2 đôi
chân bò thứ nhất, thứ hai.
Hệ thống tiêu hóa của tôm hùm có cấu tạo tương đối đơn giản và được chia
thành 3 phần: ruột trước, ruột giữa và ruột sau.
Tập tính bắt mồi và thành phần thức ăn: cũng như đa số các loài giáp xác
khác, tôm hùm thường đi kiếm ăn và ăn mồi nhiều vào chiều tối.
Khả năng đồng hóa thức ăn của tôm hùm tương đối thấp, Nguyễn Tác An &
CTV đã thí nghiệm và tính mức độ tiêu hóa thức ăn của tôm hùm Sỏi (P. stimpsoni)
cho thấy chúng chỉ sử dụng 7 – 10% lượng thức ăn ăn vào để tăng trọng cơ thể; còn
lại là phục vụ cho các hoạt động sống khác: quá trình thành thục, sinh sản, Đây là
cơ sở để giải thích sự chậm lớn của loài này so với các loài tôm hùm khác [1].
Tôm hùm sinh trưởng và phát triển nhờ nguồn năng lượng cung cấp từ thức
ăn. Song tùy theo loài và các giai đoạn phát triển mà phổ thức ăn của chúng cũng
thay đổi khác nhau. Nghiên cứu về phổ thức ăn của tôm hùm, Elner & Campbell
(1987) cho rằng, ở dạ dày của tôm hùm có tới 65 loài sinh vât, nhưng chiếm ưu thế
là: thân mềm , một số loài cá, giáp xác,

11










Hình 1.2: Sơ đồ biểu diễn tỷ lệ phần trăm các loại thức ăn chủ yếu của tôm
hùm Mỹ (Homarus americanus) ngoài tự nhiên [28].
1.2. Tình hình nghề nuôi tôm hùm
1.2.1. Tình hình nghề nuôi tôm hùm trên thế giới.
Trên thế giới, tôm hùm bắt đầu được nghiên cứu vào khoảng cuối thế kỷ thứ
XVIII, khi nghề khai thác bắt đầu phát triển mạnh. Tuy nghiên, thời gian đầu, các
nghiên cứu chỉ tập trung vào các hướng như: mô tả đặc điểm hình thái, phân loại và
phân bố của một số loài phổ biến ở vùng biển Ấn Độ Dương [14].
Đến những năm 60 của thế kỷ XX, do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế và
nhu cầu xã hội ngày càng tăng đã thúc đẩy các nhà khoa học chú trọng đến việc
nghiên cứu nguồn lợi và phát triển nuôi tôm hùm với các hình thức nuôi chủ yếu:
nuôi nâng cấp tôm hùm từ nguồn khai thác tự nhiên [19], [21]; nuôi khép kín từ giai
đoạn ấu trùng đến trưởng thành [31] và sản xuất ấu trùng tôm hùm rồi thả xuống
biển [40].
Hiện nay, trên thế giới các loài tôm hùm được nuôi phổ biến thuộc 2 họ, đó
là họ tôm hùm càng (Nephropidae) và họ tôm hùm gai (Palinuridae). Và một số loài
như: Homarus americanus, Homarus gammarus thì việc nghiên cứu và sản xuất
giống đã thành công vì thời gian phát triển của ấu trùng ngắn (khoảng 3 tuần),
nhưng do tập tính ăn thịt lẫn nhau của chúng ở giai đoạn sống đáy nên việc nuôi
thương phẩm các loài này gặp nhiều khó khăn ngoại trừ nuôi quảng canh. Còn đối
với các loài thuộc giống Panuslirus thì ngược lại, thời gian phát triển ấu trùng rất
dài (6 – 12 tháng, tùy thuộc vào loài) làm cho quá trình nghiên cứu và sản xuất
giống gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, nuôi tôm hùm thuộc giống Panulirus cho đến
12

nay chủ yếu sử dụng nguồn giống đánh bắt từ tự nhiên. Và sau đây là tình hình nuôi
tôm hùm ở một số quốc gia trên thế giới:
*Mỹ: là quốc gia đã thực hiện được việc nuôi khép kín vòng đời loài tôm
hùm Homarus americanus từ những năm 70 của thế kỷ XX. Quốc gia này đã sản
xuất thành công giống và đáp ứng được nhu cầu nuôi thương phẩm loài tôm hùm

này. Tuy nhiên, sản lượng nuôi của loài này chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp so với khai thác
ngoài tự nhiên, các nguyên nhân chính là do nhu cầu về dinh dưỡng, công nghệ sản
xuất thức ăn tôm, dịch bệnh và các quy trình nuôi thương phẩm vẫn chưa hoàn
thiện. Trong suốt thập niên 90, những công trình nghiên cứu về quy trình công nghệ
nuôi tôm hùm thâm canh đã có những đóng góp rất lớn để thúc đẩy nghề nuôi tôm
hùm ở Mỹ phát triển mạnh mẽ [5], [37], [44], [45].
*Na–uy: là quốc gia đã cho đẻ và thả ấu trùng tôm hùm Châu Âu (Homarus
gammarus) ra tự nhiên để bảo vệ nguồn lợi của đối tượng này. Cho đến thập niên
80 nghề nuôi tôm hùm thương phẩm từ con giống tự nhiên ở quốc gia này vẫn chưa
phát triển do luật pháp không cho phép thu giữ tôm hùm chưa đạt cỡ khai thác. Năm
1989, Trung tâm nghiên cứu biển Na-uy thực hiện chương trình nghiên cứu nuôi
tôm hùm từ nguồn giống tự nhiên và đã thu được một số kết quả nhất định vào năm
2004. Từ đó, nhiều cá nhân và công ty đã đầu tư nuôi tôm hùm từ nguồn giống khai
thác tự nhiên và làm cho nghề nuôi này từng bước phát triển tại Na-uy [5], [37].
*Úc và Niu-zi-lân: có 7 loài tôm hùm thuộc 2 giống Panulirus and Jasus
được tìm thấy ở các vùng biển xung quanh Úc [39], ở vùng biển Niu-zi-lân thì chỉ
có 2 loài là: Jasus edwardsii và Jasus verrauxi [23]. Và đây là những quốc gia có
các chương trình bảo vệ nguồn lợi tôm hùm rất tốt và việc nuôi tôm hùm theo
phương thức dựa vào tự nhiên phát triển vì những quy chế quản lý chặt chẽ của
chính phủ về dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và nguồn lợi. Tuy nhiên, trong một vài
năm gần đây, tại Úc đã có những chương trình nghiên cứu phát triển nuôi tôm hùm
với nguồn giống tự nhiên. Năm 2000, tại Bang Tas-ma-ni-a chính quyền đã cho
phép khai thác 350.000 con giống tự nhiên/năm với điều kiện sau một năm phải
phóng thích 25% lứa đánh bắt đầu tiên. Việc nuôi thương phẩm tôm hùm bông
(Panulirus ornatus) từ nguồn giống tự nhiên đang được sự quan tâm rất lớn từ cộng
đồng dân bản địa của eo biển Tores và các phần khác thuộc phía bắc Úc [5], [5153].
13

*Phi-líp-pin: là một trong những nước có nghề nuôi tôm hùm phát triển
mạnh và sớm ở khu vực Đông Nam Á. Tại vùng Guiuan, nhiều trang trại nuôi tôm

hùm được thiết lập từ những năm trước thập niên 70 của thế kỷ XX. Và đến những
năm đầu thập niên 90, nghề nuôi tôm hùm đã lan rộng ra các vùng khác như
Basilan, phía tây của đảo Mindanao khi mà ngư dân được Cục nghề cá và nguồn lợi
thuỷ sản (BFAR) chuyển giao phổ biến quy trình công nghệ tiến tiến để thực hiện
ương tôm hùm đạt hiệu quả, đặc biệt tôm hùm con sau khi ương nuôi đạt kích cỡ thị
trường (<150 g/con) để bán sống sang Đài Loan tiếp tục nuôi thương phẩm. Tuy
nhiên, đến tháng 02/1992, nước này đã phải cấm xuất khẩu tôm hùm con sang Đài
Loan vì tình trạng thiếu con giống phục vụ cho nghề nuôi trong nước và đến năm
1993 Phi-líp-pin đã phải nhập con giống từ In-đô-nê-xi-a và một số nước khác để
nuôi. Sau đó tình trạng khan hiếm tôm hùm giống đã xảy ra và ảnh hưởng rất lớn
đến nghề nuôi tôm hùm của quốc gia này [32].
*Ma-lay-si-a: là quốc gia nuôi tôm hùm gai mới chỉ đang phát triển và
không sôi động như một số nước trong khu vực Đông Nam Á. Một số nơi như Bang
Sabah ở trung tâm vịnh Darvel, Kudat và ở Kinarut ương nuôi tôm con trong lồng
nổi, nuôi giữ tôm lớn trong bè và cả trong bể xi măng. Con giống được thu gom từ
các đảo và những nước láng giềng như Phi-líp-pin và In-đô-nê-xi-a. Ở vịnh Darvel,
lồng nuôi tôm hùm được đặt ở độ sâu 10 – 20 m nước; thức ăn chủ yếu là cá tạp,
ngày cho tôm ăn 1 – 2 lần; những loài được nuôi chủ yếu là Panulirus longipes,
Panulirus versicolor và Panulirus ornatus [24].
Bên cạnh đó, Nhật Bản, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, Sing-ga-po là những quốc gia
Châu Á cũng có nghề nuôi tôm hùm bằng lồng (bè) khá phát triển ở quy mô nông
hộ. Các loài nuôi chủ yếu như : Panulirus japonicus ở Nhật Bản, Panulirus ornatus,
Panulirus homarus, Panulirus longipes, Panulirus versicolor ở Sing-ga-po, Ấn Độ
và In-đô-nê-xi-a, và tổng sản lượng nghề nuôi các loài này có đóng góp lớn vào
tổng sản lượng tôm hùm của các quốc gia này.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy: nghề nuôi tôm hùm đã đóng góp đáng kể vào
sản lượng tôm hùm của thế giới và đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần vào việc
phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước khu vực châu Á.
Một số nước đã, đang bảo vệ và quản lý nguồn lợi tôm hùm rất tốt cũng đang có xu
hướng phát triển nuôi nâng cấp vì tôm hùm có giá trị cao về kinh tế.

14

1.2.2. Tình hình nghề nuôi tôm hùm ở Việt Nam
Với đường bờ biển dài 3.260 km, hơn 4.000 đảo và nhiều vũng vịnh giúp bảo
vệ chống lại sóng và gió, Việt Nam có tiềm năng rất lớn cho nghề nuôi trồng thủy
sản ở biển [3334].
Điểm mốc khởi đầu nghiên cứu về tôm hùm ở Việt Nam được đánh dấu bằng
chuyến khảo sát của Serence và các cộng tác viên vào năm 1937 ở vùng biển Nam
Trung Bộ, đã xác định có 3 loài tôm hùm gai thuộc giống Panulirus là: Panulirus
homarus, Panulirus longipes và Panulirus penicillatus [4648]. Tuy vậy, việc nghiên
cứu về nuôi tôm hùm ở Việt Nam mới được bắt đầu từ những năm cuối của thập
niên 80 của thế kỷ XX, khi sản lượng khai thác tôm hùm ngoài tự nhiên có dấu hiệu
suy giảm. Khởi đầu là việc nghiên cứu kỹ thuật nuôi nâng cấp một số loài tôm hùm
có giá trị kinh tế ở ven biển miền Trung vào năm 1991 [10]. Nguyễn Văn Chung và
các cộng sự, đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của tôm hùm Sỏi (P.
stimpsoni) làm cơ sở để xác định kỹ thuật nuôi đối tượng này ở vùng biển tỉnh
Quảng Bình và Quảng Trị [2]. Theo tác giả Hồ Thu Cúc & cộng sự nghiên cứu kỹ
thuật nuôi tôm hùm trong lồng và trong ao đất ở vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa từ
đó làm cơ sở cho việc phát triển nghề nuôi tôm hùm lồng ở đây [12].
Và ở Việt Nam, nghề nuôi tôm hùm lồng có thể xem là xuất phát ở tỉnh
Khánh Hòa từ năm 1992, sau đó từ năm 2000 đã lan rộng đáng kể ra các vùng Nam
– Trung Bộ, cụ thể là từ Đà Nẵng đến Bình Thuận, nhưng nhiều nhất vẫn là Khánh
Hòa và Phú Yên [33]. Và một số loài được nuôi chính, như: tôm hùm Bông (P.
ornatus), tôm hùm Xanh (P. homarus), tôm hùm Sỏi (P. stimpsoni) và tôm hùm Đỏ
(P. longipes) [6], [1616]. Tuy nhiên, nuôi chủ yếu vẫn là loài tôm hùm bông (P.
ornatus) bởi chúng có tốc độ tăng trưởng nhanh, kích cỡ lớn, màu sắc tươi sáng và
có giá trị xuất khẩu cao [12]. Số lượng lồng nuôi và sản lượng tôm hùm nuôi qua
các năm gần đây được thể hiện ở Bảng 1.






15

Bảng 1.1: Phân bố số lượng lồng nuôi (lồng) và sản lượng tôm hùm nuôi
lồng (tấn/năm) tại Việt Nam qua các năm [6], [7].
Tên địa
Phương
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
9380 11500 14980 16647 23420 25418 29206 27100 27000 20829 Khánh
Hòa
(561) (550) (765) (985) (1655) (1100) (1142) (863) (712) (600)
8065 8335 8885 15529 19020 18220 18400 22505 19414 17427 Phú
Yên
(102) (161) (177) (424) (647) (764) (750) (461) (388) (235)
200 290 450 410 555 350 130 120 130 150 Ninh
Thuận
(20) (30) (40) (45) (50) (45) (25) (16) (18) (27)
130
(
*
)
180
(
*
)
- 120
(
*

)
- - 1800
(
*
)
- - - Bình
Định
(30)
(
**
)
(40)
(
**
)
- - - - 250
(
**
)
- - -
22 22 - - - 50 - - - - Đà
Nẵng
(2) (2) (5) - - - -
17667 20147 24315 32586 42995 44038 48736 49725 46544 38406 Tổng
cộng
(685) (743) (982) (1454) (2352) (1914) (1917) (1340) (1118) (862)
Ghi chú: ( ) - Sản lượng tôm hùm nuôi (tấn);
(*)
: lồng ương tôm hùm con ;
**

: Số lượng tôm
con ương nuôi (nghìn con) [5].
Sản lượng tôm hùm thu hoạch trong 3 năm từ 2004 – 2006 tại các tỉnh Nam
Trung Bộ (chủ yếu là Khánh Hòa và Phú Yên) đạt gần 2.000 tấn/năm, doanh thu
trên 1.000 tỷ đồng/năm và là nguồn thu nhập chính cho hơn 15.000 người tham gia
trực tiếp, hàng chục ngàn người làm dịch vụ cung ứng: lưới, vật liệu làm lồng,
giống, cung cấp thức ăn, thuốc chữa bệnh, sửa chữa máy phát điện, máy
bơm,….[5].
Nghề nuôi tôm hùm lồng ở Việt Nam đã phát triển đáng kể trong khoảng
thời gian từ năm 1999 đến năm 2006, và tổng sản lượng của các tỉnh Nam Trung Bộ
đạt hơn 1.900 tấn. Tuy nhiên, do bệnh “tôm hùm Sữa” xuất hiện cuối năm 2006,
làm cho ngành sản xuất này suy giảm một cách nhanh chóng. Và năm 2007 số
lượng lồng nuôi các tỉnh Nam Trung Bộ khoảng hơn 52.600 lồng, nhưng sản lượng
ước chỉ đạt khoảng 1.400 tấn (diện tích khoảng 11.500 ha), chiếm hơn 99% số
lượng lồng nuôi tôm hùm cả nước. Như vậy, số lượng lồng nuôi tôm hùm lồng năm
2007 có tăng lên nhưng sản lượng tôm nuôi lại giảm thấp hơn so với năm 2006.
Điều này là do bệnh dịch tôm hùm xảy ra trên diện rộng (hầu hết các tỉnh có nuôi
tôm hùm lồng) và đã gây thiệt hại hơn 161 tỷ đồng cho người nuôi tôm hùm lồng tại
đây vào năm 2007 [5], [3334].
Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm hùm lồng (bè) ở Việt Nam đã mang lại
một nguồn thu đáng kể rất rõ. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm hùm ở Việt Nam còn gặp
không ít những khó khăn như nguồn giống, thức ăn và đặc biệt là vấn đề bệnh dịch
16

thường xuyên xảy ra. Tất cả những khó khăn này đã và đang ảnh hưởng đến nghề
nuôi tôm hùm lồng ở Việt Nam. Do đó, cần có những nghiên cứu để giải quyết
những khó khăn trên, đồng thời phải tăng cường sự quản lý để phát triển bền vững
nghề nuôi này nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho ngư dân vùng ven biển.
1.3. Dinh dưỡng và thức ăn của tôm hùm
Hiểu biết những gì con vật thích ăn trong tự nhiên là một hướng dẫn hữu ích

khi nghiên cứu về dinh dưỡng của một loài. Theo Joll & Phillips (1986), Booth &
Kittaka (1994), Barkal & CTV (1996), Cox & CTV (1997), Griffiths & CTV
(2000), Mayfield & CTV (2000) và Goni & CTV (2001), phân tích các chất trong
ruột của tôm hùm gai đã cho thấy có rất nhiều loại thức ăn, như: động vật thân mềm
(các loài thuộc nhóm thân mềm 2 mảnh vỏ, các loài thuộc nhóm động vật chân
bụng, các loài ốc, ), động vật giáp xác (các loài cua, các loài tôm nhỏ, ),giun
nhiều tơ, động vật da gai, và thỉnh thoảng vẫn bắt gặp một số loài rong tảo [5254].
Nhu cầu dinh dưỡng của một sinh vật được hiểu theo nhiều nghĩa, nhưng hầu
hết trong thực nghiệm về khẩu phần ăn cho sinh vật thì nhu cầu dinh dưỡng là nhu
cầu tối ưu cho sinh trưởng, phát triển của sinh vật [4], [9], [3436].
Đối với tôm hùm Châu Mỹ, đã có một số nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng
của các tác giả: Kanazawa (1980), Conklin (1980), Conklin &ctv (1983)…
Kanazawa (1980) nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng và khẩu phần ăn của tôm hùm
gai trong mối liên quan hiểu biết về tôm hùm Châu Mỹ. D Abramo & ctv (1997)
đưa ra thông tin về dinh dưỡng của một số loài giáp xác, trong đó có tôm hùm Bông
(P. ornatus) [4], [9], [3436].
Đối với tôm hùm gai, đặc biệt các loài thuộc họ Panulirus và Jasus, trong
hơn một thập kỷ trở lại đây, các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của các loài
như: Panulirus ornatus, Panulirus japonicus, P. cygnus và Jasus edwardsii, đã
được các nhà khoa học thuộc các dự án quan tâm nghiên cứu và đặc biệt là nghiên
cứu để phát triển ngành công nghiệp chiến biến thức ăn khô dạng viên [5254].
Nhu cầu Protein và năng lượng.
Nhu cầu protein của sinh vật là lượng protein tối thiểu có trong thức ăn nhằm
thỏa mãn nhu cầu các amino acid của sinh vật để giúp nó đạt được tăng trưởng tối
đa. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu protein bao gồm: năng lượng trong thức ăn,
17

chất lượng và loại thức ăn sử dụng, trạng thái sinh lý của động vật, môi trường nuôi
dưỡng, lượng thức ăn hàng ngày của chúng.
Đối với động vật thủy sản, nhu cầu protein thường cao hơn so với động vật

trên cạn, nguyên nhân chính là: các động vật thủy sản thường là các loài động vật
biến nhiệt và đa phân chúng có tập tính bắt mồi là động vật sống trong tự nhiên.
Mức protein tối ưu cho tôm hùm châu Mỹ đã được báo cáo ở nhiều mức rất
khác nhau là: 60%, 53% và 30,5% [22].
Tốc độ tăng trưởng tốt nhất của con giống Homarus americanus ở mức 18%
protein đối với khẩu phần kết hợp casein và bột đuôi tôm, hoặc 23% khi casein là
nguồn protein. Tuy nhiên đối với loài Hormarus gammarus sẽ sinh trưởng bình
thường với khẩu phần chứa ít nhất 35% protein [26].
Trong một nghiên cứu phối hợp ở Úc, Glencross & CTV (2001), Smith &
CTV (2003) và Ward & CTV (2003) đã thử nghiệm kiểm tra tốc độ tăng trưởng và
tỷ lệ sống của tôm hùm con (trọng lượng <4gr/cá thể) thuộc 3 loài Panulirus
ornatus, P. cygnus, Jasus edwardsii đối với các mức protein thô khác nhau (từ 35%
đến 60%, ở sáu nghiệm thức) kết hợp với 2 mức lipid tổng số (6% và 10%) trong
thức ăn viên, đã đưa ra kết luận: tỷ lệ sống của các lô thí nghiệm đều tốt (>75%) và
tốc độ tăng trưởng thì tăng theo một đường cong tương đương với sự tăng lên về
hàm lượng protein thô nhưng vẫn có liên quan đến mức lipid tổng số. Bên cạnh đó,
các kết luận cụ thể với từng loài như sau: Với loài P.cygnus, theo Glencross & CTV
(2001), tốc độ tăng trưởng tốt nhất ở nghiệm thức có hàm lượng protein thô là 55%;
Với loài P. ornatus, theo Smith & CTV (2003), tốc độ tăng trưởng tốt nhất xuất
hiện ở 2 nghiệm thức có hàm lượng protein thô là 47% và 53%; Và với loài Jasus
edwardsii, theo Ward & CTV (2003), tốc độ tăng trưởng cao nhất cũng xuất hiện ở
2 nghiệm thức có mức protein thô là 33 - 35% và 42 - 47% [5254].
Thí nghiệm với các mức protein khác nhau (từ 35% đến 60%) kết hợp với
mức lipid tổng số là 9% trong thức ăn viên đối với loài Jasus edwardsii (trọng
lượng cá thể tương đương 70gr/cá thể), đã cho thấy tỷ lệ tăng trưởng của tôm hùm
con của loài này tăng tỷ lệ thuận với mức tăng của protein thô, nhưng với mức
protein thô lớn hơn 50% thì tỷ lệ tăng trưởng này ở các lô nghiệm thức là không
khác nhau [5254].
18


Nhu cầu Lipid
Lipid tổng số chứa trong một khẩu phần là tổng lượng phospholipid, sterol
và lipid trung tính.
Một thành phần quan trọng nhất của lipid trong dinh dưỡng của động vật là
triacylglycero (TAG) hay triglycerides và phospholipid (PL). Đối với các động vật
thủy sinh sống trong môi trường nước mặn ngoài 2 thành phần trên sterol (hay
steroid) đóng vai trò quan trọng trong dinh dưỡng cho giáp xác.
Nguồn lipid trong thức ăn cung cấp cho cá và giáp xác cung cấp các acid béo
(FA), đặc biệt là các acid béo cần thiết (EFA). Các acid béo cần thiết (EFA), là
những acid béo mà cơ thể không tự tổng hợp được phải lấy từ thức ăn; EFA rất cần
cho trao đổi chất tế bào (để tổng hợp các prostaglandins và các thành phần tương
tự), để duy trì cấu trúc màng tế bào. Lipid cũng có vai trò như là dung môi để hòa
tan và hấp thu một số vitamin tan trong chất béo (A, D, K, E ) và carotenoid (sắc
tố). Lipid đóng vai trò là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể.
Các sản phẩm tiêu hóa lipid sau khi được vận chuyển đến gan và được sinh
tổng hợp lại bởi gan sẽ kết hợp với protein, cholesterol tự do để hình thành dạng
lipoprotein. Lipoprotein là thành phần chính của noãn hoàng vì vậy vào thời kỳ phát
dục, đặc biệt vào thời kỳ sinh sản lipoprotein được huy động để hình thành buồng
trứng [2].
Smith & cộng sự (2003) đã sử dụng thức ăn viên của tôm He Nhật Bản
Penaeus japonicus (chứa khoảng 12% lipid) làm thức ăn cho Tôm Hùm Bông thì
thấy tôm sinh trưởng rất tốt.
* Phospholipid
Conklin & ctv (1980) đã chỉ ra rằng tỷ lệ sống của con giống H.americaus
được nâng cao đáng kể khi bổ sung 7,5% lecithin đậu lành trong khẩu phần ăn.
Thiếu lecithin trong khẩu phần thức ăn cho tôm hùm thì tỷ lệ chết của tôm cao vì
tôm sẽ lột xác không hoàn toàn [27]. Tuy nhiên, tôm hùm có thể tự tổng hợp
phospholipid khi trong khẩu phần ăn của chúng có các acid béo thiết yếu và nguồn
protein không tinh khiết [11]. Teshima & ctv (1983) đã nghiên cứu ảnh hưởng của
hàm lượng lecithin lên sự sinh trưởng của tôm he Nhật Bản, kết quả cho thấy tốc độ

tăng trưởng và hiệu quả thức ăn sẽ giảm khi thức ăn được bổ xung dưới 3% lecithin
[47]. Hiệu quả của lecithin ảnh hưởng bởi nguồn protein trong thức ăn, khi nguồn
19

protein cung cấp cho tôm tương ứng với protein của cơ thể tôm thì lecithin sẽ thể
hiện rõ tác dụng thúc đẩy tăng trưởng của tôm [28].
* Sterol
Sterol trong khẩu phần ăn là nhu cầu thiết yếu đối với nhóm giáp xác vì
nhóm này không tổng hợp được chất này. Castell và ctv (1976) cho rằng nhu cầu
cholesterol trong khẩu phần ăn của con giống H. americanus là 0,5% [21]. Nhưng
D’Abramo & ctv (1984) lại cho rằng với khẩu phần chứa 0,12% là thích hợp cho
tôm sinh trưởng bình thường, tỷ lệ sống cao [29].
Với 0,2% cholesterol trong khẩu phần ăn sẽ nâng cao sinh trưởng đối với con
giống Homarus sp [19].
Trong khi đó hàm lượng cholesterol tối ưu cho một số loài tôm he dao động
trong khoảng 0,2 – 2,0% [36].
* Acid béo thiết yếu
Theo Zandee (1967) thì hai loài Homarus gammarus và Panulirus japonicus
không có khả năng tái tổng hợp linolenic acid, linoleic acid, eicosapentaenoic và
docosahexanoic từ acetate. Do vậy, những acid béo này là những chất cần thiết bổ
sung vào khẩu phần ăn của tôm hùm.
Castell và Covey (1976) cho rằng dầu gan cá tuyết có mức acid béo không
no bão hòa đa (n – 3) và acid béo không no bão hòa cao phân tử cao hơn dầu ngũ
cốc, kết quả là tôm hùm châu Mỹ được ăn thức ăn có bổ sung dầu gan cá tuyết và
tôm cũng sinh trưởng tốt hơn. Ngoài ra các tác giả trên cũng cho rằng bổ sung 5%
dầu gan cá tuyết vào khẩu phần cho ăn của tôm sẽ có lợi hơn 10% [21].
Tuy nhiên số lượng về nhu cầu acid béo thiết yếu chưa được trình bày. Nhu
cầu này đối với tôm he đã được nghiên cứu chi tiết và có thể được sử dụng để làm
cơ sở nghiên cứu nhu cầu acid béo thiết yếu cho tôm hùm. Theo D’Abramo & cộng
sự (1997), thức ăn chứa 6% lipid tổng số có nguồn gốc từ biển đã cung cấp số lượng

acid béo thiết yếu tương xứng nhu cầu của tôm hùm [28].
* Khoáng
Nhu cầu chất khoáng đối với tôm hùm chưa được nghiên cứu xác định rõ
ràng. Còn đối với tôm he thì nhu cầu này trong khẩu phần ăn là: Cu: 40 mg/kg;
Selen: 0,001 mg/kg; Zn: 20 mg/kg; Mg: 10 mg/kg [28]. Có thể lấy đây là một trong
những căn cứ nghiên cứu tiến hành cho tôm hùm.

×