Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng của tố tụng dân sự và là một nguyên tắc về tổ chức hoạt động của tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.76 KB, 13 trang )

Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
MỤC LỤC
Trang
Mục lục …………………………………………………………………. .1
I – Nguyên tắc chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham
gia - một số lý luân cơ bản…………………………………………… 2
1. Cơ sở pháp lý……………………………………………………….2
2. Cơ sở lý luận……………………………………………………… 3
3. Cơ sở thực tiễn …………………………………………………… 3
4. Ý nghĩa của nguyên tắc………………………………………….…4
5. Nội dung của nguyên tắc……………………………………….….6
II – Nguyên tắc chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân
tham gia – thực trạng và giải pháp…………………………… ….6
1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc chế độ xét xử có Hội
thẩm nhân dân tham gia……………………………………………7
1.1 Về sự phối hợp giữa Thẩm phán và Hội thẩm……………… 7
1.2 Về vấn đề tổ chức – quản lý Hội thẩm ………………… … 7
1.3 Về vấn đề nghiên cứu hố sơ vụ án………………………… … 8
1.4 Về thành phần của hội thẩm trong xét xử. ………………….…8
1.5 Về trách nhiệm của hội thẩm nhân dân………………….….….9
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc
chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia…………….… … 9
Tài liệu tham khảo……………………………………………………13
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
1
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
BÀI LÀM
Nguyên tắc là “ Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt
việc làm” ( Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 2003 ). Nguyên tắc của Luật
tố tụng dân sự Việt nam là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng
và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật


tố tụng dân sự. Nguyên tắc của luật tố tụng dân sự được xây dựng trên nền tảng các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa, nêu vi phạm các nguyên tắc của
luật tố tụng dân sự sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tố tụng và được coi là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và dẫn đến hậu quả vụ việc dân sự phải đươc
xem xét lại, kể các khi bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của tòa án đã có
hiệu lực. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia là một
trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng của tố tụng dân sự và là một nguyên
tắc về tổ chức hoạt động của tòa án .
I – Nguyên tắc chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia - một số lí luận
cơ bản
1. Cơ sở pháp lí
Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia được ghi nhận
tại điều 129 hiến pháp năm 1992: " Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm
nhân dân, của Tòa án Quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của
pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán". Hiến pháp là đạo
luật cơ bản của một quốc gia quy định về những quan hệ xã hội liên quan đến việc
tổ chức bộ máy nhà nước. Hiến pháp là một văn bản tổ chức đời sống chính trị của
một đất nước. Hiến pháp điều chỉnh những quan hệ xã hội rường cột của đất nước,
đặt nền tảng pháp lý cho một quốc gia. Do đó Hiến pháp là cơ sở của hệ thống pháp
luật của nhà nước. Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn bản pháp luật
phải phù hợp với Hiến pháp, không được mâu thuẫn với Hiến pháp. Như vậy,
nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử cóHội thẩm nhân dân tham gia,Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán là một nguyên tắc Hiến định.
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
2
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
Thứ hai, nguyên tắc tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia
được ghi nhận tại điều 11 luật tố tụng dân sự: “Việc xét xử các vụ án dân sự có
Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm
nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.” Đây là nguyên tắc chung và được quy

định trong các ngành luật tố tụng: tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, đây là
nguyên tắc bắt buộc chung buộc tuân thủ trong mọi phiên tòa. Trong tố tụng dân sự
nguyên tắc này được cụ thể hóa tại các điều 42, 52, 222, 236 và các điều luật khác
có liên quan trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và các luật khác có liên quan.
2 . Cơ sở lí luận
Xuất phát từ chế độ xã hội của nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên
công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Thực hiện chế độ xét xử
có hội thẩm tham gia không những tạo điều kiện cho mọi người tham gia công việc
của nhà nước, bảo đảm thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự mà còn tạo điều kiện
cho tòa án giải quyết đúng đắn vụ án dân sự. Việc đưa hội thẩm nhân dân vào Hội
đồng xét xử chính là việc đưa tiếng nói từ phía xã hội vào trong quá trình xét xử.
Pháp luật là những khuôn mẫu chung khá cứng nhắc được xây dựng trên sự đồng
thuận theo tỷ lệ mà xã hội chấp thuận được chứ đó không phải là đồng thuận tuyệt
đối, cho nên pháp luật cũng không phải là một giá trị tuyệt đối đúng để có thể áp
dụng chung cho mọi trường hợp. Thứ hai, pháp luật cũng chỉ là một loại quy phạm
xã hội có giá trị áp dụng cao nhất chứ không phải là toàn bộ các quy phạm xã hội
và có thể thay thế các quy phạm xã hội khác trong đời sống hàng ngày. Do đó, cần
có những tiếng nói từ thực tiễn xã hội trong việc đưa ra các phán quyết có tính
quyết định đối với một quan hệ xã hội nào đó.
3. Cơ sở thực tiễn
Quá trình hình thành và hoàn thiện nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội
thẩm nhân dân tham gia trải qua một thời gian khá dài trong lịch sử. Nguyên tắc
này bước đầu được pháp luật việt nam ghi nhận và quy định lần đầu tiên tại điều 65
hiến pháp năm 1946: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
3
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu
là việc đại hình” với quy định như vậy thì nguyên tắc này chưa được quy định rõ
ràng vai trò và thẩm quyền của hội thẩm, đến hiến pháp năn 1980 thì nguyên tắc

này mới đươc quy định cụ thế và rõ ràng , đầy đủ tại điều 130: “Việc xét xử ở Toà
án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia, theo quy định của pháp luật. Khi xét
xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.” Và hiện nay nguyên tắc này
được quy định rõ ràng và cụ thể tại điều 129 Hiến pháp năm 1992 và tại Điều 11
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004: “Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân
dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang
quyền với Thẩm phán.” Như vậy trải qua hơn 50 năm xây dựng và áp dụng nguyên
tắc này đã đi vào thực tiễn và đang dần được hoàn thiện hơn phù hợp với chế độ xã
hội hiện nay.
Ngoài ra theo quy định của pháp luật thì Hội thẩm không phải là các cán bộ Tòa
án hay đại diện của cơ quan nhà nước mà họ là người đại diện cho quần chúng
nhân dân, đại diện cho xã hội tham gia vào quá trình xét xử vụ án dân sự, họ có thể
là nhân viên cơ quan nhà nươc, tổ chức xã hội, có thể trong công tác hoặc đã về
hưu được cơ quan nhà nước có thẩm của nhà nước bầu ra để đại diện cho nhân dân
tham gia và quá trình xét xử của tòa án.
4 . Ý nghĩa của nguyên tắc
Đây là một nguyên tắc về tổ chức hoạt động xét xử của Tòa án, việc quy định
nguyên tắc này nhằm bảo đảm cho Hội thẩm nhân dân tham gia vào quá trình xét
xử một cách công khai và độc lập, ghi nhận quyền bình đẳng trong xét xử của hội
thẩm và thẩm phán, cũng như phân định rạch ròi về nhiệm vụ của hội thẩm nhân
dân trong xét xử. Việc quy định nguyên tắc có hội thẩm tham gia vào quá trình xét
xử là một quy định hết sức đúng đắn và hợp lý, có ý nghĩa hết sức to lớn trong quá
trình xét xử các vụ án dân sự.
Thứ nhất, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của công dân khi tham gia tố tụng.
Đương sự khi tham gia tố tụng với mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
4
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
của mình thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, để đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như để xác định nghĩa vụ của các chủ

thể tham gia một cách đúng đắn và hợp lý, thì Tòa án phải thực sự công tâm, không
chỉ đơn thuần chỉ là hiểu biết về pháp luật mà còn phải có một kiến thức xã hội sâu
rộng nhằm hiểu được bản chất của vấn để và giải quyết vụ án một cách đúng đắn và
thấu tình đạt lý. Bản chất của dân sự là thỏa thuận, vì vậy, trong phiên tòa, với kiến
thức thực tiễn về xã hội của mình, hội thẩm nhân dân có thể đưa ra những ý kiến
mang tính nhân dân, hài hòa quyền và lợi ích chính đáng của đương sự.
Thứ hai, đảm bảo tính khách quan khi giải quyết vụ việc. Quy định này đảm bảo
được tính công bằng trong xét xử, dung hòa trách nhiệm giữa thẩm phán và hội
thẩm, đảm bảo tính công bằng, công tâm trong xét xử vụ án. Việc tham gia của hội
thẩm nhân dân vào quá trình xét xử làm cho quá trình xử án được nhanh chóng và
thuận lợi hơn và nâng cao tính chính xác trong quá trình xét xử. Môt vụ việc khi chỉ
có một chủ thể giải quyết sẽ khó đảm bảo được tính khách quan hơn khi có nhiều
chủ thể tham gia và đóng góp ý kiến. Vì vậy, pháp luật nước ta đã quy định Hội
thẩm nhân dân tham gia vào quá trình xét xử, nhằm đảm bảo tính khách quan cho
quá trình xét xử.
Thứ ba: Ngăn chặn hành vi gian lận trong tố tụng. Khi thực hiện hành vi tố tụng
dân sự, để đảm bảo cho quá trình xét xử được đảm bảo tính khách quan, không có
gian lận trong quá trình xét xử, pháp luật phải quy định một thành phần tham gia
vào quá trình xét xử bên cạnh Thẩm phán và có quyền ngang bằng với Thẩm phán
để quá trình xét xử được công bằng và khách quan hơn, nếu một mình thẩm phán
thực hiện xét xử thì khó tránh trường hợp xử sai do một số lý do chủ quan. Thẩm
phán có thể lợi dụng quyền của mình để làm khó đương sự và xử sai so với thực tế
khách quan, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia tố tụng.
Vì vậy việc quy định Hội thẩm nhân dân tham gia vào quá trình xét xử nhằm ngăn
chặn các hành vi gian lận trong tố tụng không chỉ là của các cơ quan xét xử mà còn
của đương sự và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
5
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
Ngoài việc tham gia vào quá trình xét xử các vụ án dân sự, việc tham gia vào

phiên tòa của hội thẩm còn phát huy được tác dụng giáo dục của phiên tòa, nâng
cao ý thức pháp luật cho mọi người. Vì hội thẩm là những người ngoài hiểu biết về
pháp luật họ còn có một kiến thức rộng về xã hội và có uy tín với nhân dân.
5. Nội dung của nguyên tắc
Thứ nhất, nguyên tắc quy định thành phần trong hội đồng xét xử phải có hội
thẩm: “Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia. Tại điều 52
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm
có một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì hội
đồng xét xử sơthẩm có thể gồm có hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân”. Như
vậy, thành phần hội thẩm chiếm 2/3 tổng số người trong hội đồng xét xử, trong một
vụ án dân sự luôn luôn có hội thẩm nhân dân tham gia để giải quyết vụ án dân sự.
Sự tham gia của hội thẩm nhân dân vào hoạt động xét xử là một trong những
phương thức đảm bảo sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử là hình
thức tham gia của quần chúng nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ hai, nguyên tắc này còn quy định hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm
phán khi xét xử. Trong quá trình xử án, hội thẩm có quyền như thẩm phán và
không bị chi phối bởi bất kỳ ai. tức là Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết
định giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay thủ tục tố tụng
Trong quá trình xét xử Hội thẩm có thể yêu cầu hội đồng xét xử ra các quyết định
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Mọi phán quyết về vụ án phải được
quyết định theo đa số tại phòng nghị án, hội thẩm có quyền được bảo lưu ý kiến của
mình. Khi ra phán quyết thì hội thẩm ngang quyền với thẩm phán
II – Nguyên tắc chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia – thực trạng và
giải pháp
Thực tiễn cho thấy việc áp dụng nguyên tắc này nhiều khi chỉ mang tính hình
thức, do trình độ, kiến thức của hội thẩm còn hạn chế, sự phối hợp chưa chặt chẽ
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
6
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
giữa các cơ quan hữu quan, nên việc thực hiện nguyên tắc còn nhiều hạn chế, bất

cập và cần hoàn thiện hơn nữa về mặt luật pháp cũng như nhữngđảm bảo về thực
tiễn thực hiện.
1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân
tham gia
1.1 Về sự phối hợp giữa Thẩm phán và Hội thẩm.
Hầu hết các cán bộ hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật đều đề cập tới
một vấn đề bức xúc hiện nay đó là vấn đề trình độ, kiến thức pháp luật của Hội
thẩm, mối quan hệ lỏng lẻo giữa Tòa án và Hội thẩm, thái độ thụ động của Hội
thẩm trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án. Thực tế cho thấy trong quá trình chuẩn bị
phiên tòa sơ thẩm, Tòa án thường mất khá nhiều công sức để mời được Hội thẩm vì
phần lớn họ là những người kiêm nhiệm, từ chối tham gia phiên tòa do bận công
tác, bận họp…, thực tế này chỉ ra thiếu đi mối quan hệ chặt chẽ giữa Tòa án và Hội
thẩm, Hội thẩm không rõ lịch xét xử của Tòa án, và ngược lại Tòa án không nắm
được lịch công tác của Hội thẩm dẫn đến một tình trạng đó là Hội thẩm thường
xuyên tham gia xét xử là những vụ cán bộ hưu trí, những vị cán bộ công chức
không giữ chức vụ lãnh đạo, quanh quẩn chỉ có mấy vị Hội thẩm tham gia thường
xuyên và thậm chí có vị suốt cả nhiệm kỳ không th am gia xét xử một lần nào.
1.2 Về vấn đề tổ chức – quản lý Hội thẩm.
Hiện nay việc tổ chức và quản lý Hội thẩm chỉ nằm trên giấy tờ ( qua lý lịch
trích ngang), dù có quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội thẩm nhưng chưa thực
sự quan tâm tới hoạt động xét xử của Hội thẩm. Có trường hợp phải hoãn phiên
Tòa vì không có Hội thẩm, mà không có Hội thẩm thì không thể tiến hành xét xử
được; có trường hợp Tòa án phải “bốc” Hội thẩm vào phiên xét xử một cách vội vã,
cho có, cho đủ thành phần – Hội thẩm như vậy, không trao đổi được với Thẩm
phán những vấn đề khúc mắc về pháp luật áp dụng, khi xét xử làm sao đảm bảo
được sẽ ngang quyền với Thẩm phán, làm sao độc lâp với Thẩm phán? Kiến thức
chuyên môn về pháp luật của họ vẫn còn rất hạn chế, nội dung vụ án còn chưa nắm
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
7
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam

vững thì khi tham gia vụ án chỉ cho đủ thành phần, chỉ mang tính hình thức chứ
đâu thực sự “là người cầm cân công lý” ngang quyền với Thẩm phán.
1.3 Về vấn đề nghiên cứu hố sơ vụ án.
Trước hết ở việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trong mỗi vụ án cụ thể đều do chủ tọa
phiên tòa định hướng xét xử. Để hội thẩm nhân dân khi xét xử ngang quyền với
thẩm phán đòi hỏi mỗi hội thẩm phải có thời gian nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng
cứ mới chủ động trong xét hỏi, độc lập với thẩm phán. Do Hội thẩm nhân dân làm
việc kiêm nhiệm, xét xử không phải là công việc chính của họ nên thời gian dành
cho công tác xét xử chưa nhiều, về tổ chức quản lý hội thẩm chưa chặt chẽ nên
nhiều hội thẩm còn thụ động trong nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét hỏi để làm rõ
sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, chất lượng xét xử của Hội thẩm còn
hạn chế một phần cũng thuộc trách nhiệm của tòa án. Thư ký tòa án nhân dân chưa
chủ động bố trí mời hội thẩm tham gia xét xử để họ có thời gian nghiên cứu hồ sơ
vụ án. Thời gian nghiên cứu hồ sơ của hội thẩm là quá ít vì hội thẩm chỉ được
nghiên cứu hồ sơ kể từ khi tòa án đưa vụ án ra giải quyết, như vậy có nhiều vụ án
hội thẩm chỉ có nửa ngày nghiên cứu hồ sơ thì khi xét xử thậm chí còn chưa nắm rỗ
nội dung vụ án làm sao có thể xét xử ngang quyền được với thẩm phán.
1.4 Về thành phần của hội thẩm trong xét xử.
Điều 52 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự gồm có một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc
biệt thì hội đồng xét xử so thẩm có thể gồm có hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân
dân”. Việc quy định như vậy là chưa hợp lý,bởi vì việc xét xử là phức tạp đòi hỏi
hội đồng xét xử phải là những người có trình độ cao về pháp luật, trong khi đó hội
thẩm nhân dân chỉ là những người được bổ nhiêm hay đề cử làm trong các cơ quan
nhà nước hay các tổ chức xã hội được sự tín nhiệm của nhân dân,có trình độ pháp
lý thấp không được đào tạo một cách bài bản và có tính hệ thống nên trình độ hiểu
biết pháp luật không cao. Nhưng trong luật lại quy định số lượng hội thẩm nhân
dân chiếm 2/3 số lượng thành viên hội đồng xét xử,trong trường hợp đặc biệt thì số
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
8

Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
hội thẩm nhân dân là ba và thẩm phán là hai. Như vậy số lượng hội thẩm nhân dân
luôn đông hơn số lượng thẩm phán hơn nữa trình độ pháp lý của hội thẩm nhân dân
không cao, do đó vấn đề hội đồng xét xử theo đa số sẽ không khách quan
1.5 Về trách nhiệm của hội thẩm nhân dân.
Theo Quy chế về tổ chức và hoạt động hội thẩm toà án nhân dân, mặc dù có quy
định trách nhiệm của hội thẩm nhân dân tại điều 11: 1.Hội thẩm chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp
luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”, nhưng những quy định
như vậy thực chất là hình thức và thiếu thực tiễn.
Như đã trình bày trên, hình thức cao nhất trong việc truy cứu trách nhiệm của hội
thẩm nhân dân mặc dù là truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng quy định này hoàn
toàn thiếu các căn cứ pháp lý. Cụ thể là: Mục đích và yêu cầu đối với hội thẩm
nhân dân như quy định pháp luật hiện nay, việc đòi hỏi trình độ của họ giống như
thẩm phán và áp dụng đúng pháp luật là thiếu cơ sở. Vì yêu cầu đối với hội thẩm
nhân dân là chỉ hiểu pháp luật chứ không phải chuyên gia về pháp luật trong vụ án
mà họ tham gia xét xử.
Ở khía cạnh thực tiễn, các nhà làm luật đã nhầm lẫn vai trò xét xử của thẩm
phán và vai trò nhận định xã hội của các hội thẩm nhân dân đối với vụ án, do đó
việc yêu cầu hội thẩm nhân dân xét xử vụ án là hoàn toàn thiếu cơ sở thực tiễn, vì,
họ không được đào tạo qua lớp các chức danh tư pháp và đại học luật để có thể biết
được các kỹ năng áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử.
2, Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc chế độ xét xử có Hội
thẩm nhân dân tham gia
Trước thực trạng trên, các nhà làm luật nên xây dựng cụ thể các quy định về Hội
thẩm để nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của hội thẩm trong qua trình tố tụng
đúng như bản chất của nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia. Sau đây là một số
ý kiến của nhóm tác giả về vấn đề này:
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01

9
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
Nâng cao trình độ pháp lý cho Hội thẩm, tạo điều kiện để Hội thẩm tham gia vào
công tác nghiên cứu hồ sơ vụ án, tổ chức những buổi hội thảo, trao đổi kinh
nghiệm giữa các Thẩm phán, Hội thẩm; những chương trình bồi dưỡng nâng cao
nghiệp vụ xét xử, trình độ chuyên môn cho Hội thẩm đáp ứng yêu cầu về chất
lượng Hội thẩm – một vấn đề được quan tâm rất nhiều hiện nay.
Tiêu chuẩn lựa chọn và giới thiệu người được bầu làm Hội thẩm cần được cụ
thể hơn nữa, ví dụ tiêu chuẩn kiến thức pháp lý không chỉ yêu cầu kiến thức pháp
lý chung chung mà cần quy định là có kiến thức pháp lý được đào tạo trong hệ
thống cơ sở đào tạo Luật với các hình thức khác nhau, nhưng tối thiểu phải phải là
có trình độ trung cấp pháp lý, ở những vùng khó khăn có thể mở những lớp đào tạo
ngắn hạn về kiến thức pháp lý, kỹ năng xét xử. Những người được chỉ định là Hội
thẩm trong vụ án nên được coi là những người có hiểu biết sâu sắc về đối tượng,
lĩnh vực mà các bên tranh chấp.
Về tổ chức: Đoàn Hội thẩm nên được coi là một Tổ chức xã hội – nghề nghiệp
như Đoàn Luật sư, không chịu sự quản lý của Chánh án như hiện nay nữa, mà mà
có kinh phí hoạt động riêng, có Trưởng đoàn, Phó trưởng đoàn, làm việc theo chế
độ chuyên trách, là người trực tiếp quản lý, phân công việc tham gia xét xử của Hội
thẩm, như vậy một mặt vừa giảm bớt công việc cho Tòa án, vừa hạn chế được tiêu
cực trong Tòa án.
Nên xúc tiến thành lập một Văn phòng Hội thẩm, tạo mối quan hệ chặt chẽ với
Tòa án, nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Hội thẩm, giúp Tòa án nắm rõ lịch
công tác của Hội thẩm để có sự phân công hợp lý, đảm bảo cho các Hội thẩm phải
tham gia xét xử tránh tình trạng Hội thẩm cả năm, thậm chí cả nhiệm kỳ không
tham gia một phiên tòa nào.
Hàng năm phải tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội
thẩm, đảm bảo đầy đủ chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với Hội thẩm, cần quy định
cụ thể về chế độ trách nhiệm của Hội thẩm, tránh trường hợp như hiện nay khi một
bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với quy định của pháp luật thì trách

LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
10
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
nhiệm lại đùn đẩy giữa Thẩm phán và Hội thẩm. Hiện nay trách nhiệm của Thẩm
phán thì quy định đã rõ, nhưng trách nhiệm của Hội thẩm thì chưa quy định rõ
ràng, còn mập mờ và thiếu thực tiễn áp dụng.
Cần có chế độ đãi ngộ về vật chất cũng như tinh thần hợp lý hơn nữa đối với
Hội thẩm khi tham gia phiên tòa để tạo động lực cho Hội thẩm khi tham gia xét xử
và thực hiện tốt nhiệm vụ quyền hạn của mình
Cần nghiên cứu, xem xét các quy định về Hội thẩm để sớm sửa đổi các quy định
của pháp luật về chế định Hội thẩm theo hướng đưa trách nhiệm của Hội thẩm như
với Thẩm phán trong phiên tòa để từ đó có sự phối hợp cũng như nâng cao trách
nhiệm của Hội thẩm trong công tác xét xử, phải có bộ phận theo dõi, kiểm tra, đôn
đốc công tác xét xử của Hội thẩm để hoạt động của Hội thẩm ngày càng hiệu quả
hơn nữa.
Việc xác định ai là Hội thẩm tham gia xét xử phải được thưc hiện ngay khi tòa
án nhận hồ sơ thụ lý vụ án, và sau đó hội thẩm phải được tham gia các quá trình tố
tụng như thẩm phán: nghiên cứu hồ sơ, thu thập chưng cứ, xem xét tài liệu cùng với
thẩm phán, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, có như vậy, hội thẩm mứi
có thời gian nghiên cứu hồ sơ, biết rõ hơn về vụ án để co những quyết định đung
đắn và thực hiện tôt viêc ngang quyền với thẩm phàn trong quá trình xét xử.
Hiện nay cũng có nhiều ý kiến cho rằng nên việc bỏ chế định Hội thẩm mà thay
vào đó là một chế định khác mà vẫn đảm bảo tính nhân dân trong hoạt động xét xử,
tuy nhiên với đặc điểm của nước ta hiện nay, cần tiếp tục duy trì chế định Hội
thẩm, và đặc biệt đổi mới chế định này để nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn
và kỹ năng xét xử cho Hội thẩm.
KẾT LUẬN
Nguyên tắc xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là một nguyên tắc
có lịch sử lâu dài, trải qua một thời kỳ dài của lịch sử lập hiến của nước ta, được
ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản trong xét xử của Tòa án, thể hiện sự tham gia

LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
11
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
quản lý nhà nước của nhân dân lao động. Trong tố tụng dân sự - đây được coi là
nguyên tắc thể hiện sự hiện diện của nhân dân, Hội thẩm là đại diện của nhân dân
tham gia vào việc xét xử vụ án giúp cho quá trình xét sử của Tòa án được công
minh hơn, khách quan hơn. Nhưng dường như nguyên tắc này chỉ mang tính hình
thức trong việc áp dụng và thực hiện trong thực tiễn.
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
12
Bài tập nhóm tháng số 1 Môn Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt nam, Nxb.
Tư pháp, năm 2005
2. Nguyễn Văn Cung, Các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng Dân sự Việt Nam
Luận án Thạc sĩ Luật học ,1997.
3. Triệu Hoàng Lan Hương, Người tiến hành tố tụng trong Tố tụng dân sự,
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội, năm 2011
4. Dương Thị Hà Quyên, Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật trong Tố tụng Dân sự , Luận văn Thạc sĩ Luật học – Hà
Nội 2011.
5. Ths. Cao Việt Thắng, “Bàn về chế định Hội thẩm nhân dân ở nước ta hiện
nay” tạp chí nhà nước và pháp luật, số 9(296/ 2010).
6. Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011.
LỚP NO3 – TL2 – NHÓM 01
13

×