Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

CHUYÊN ĐỀ :KỸ THUẬT CHĂN NUÔI DÊ THÂM CANH VÀ TRỒNG MỘT SỐ LOẠI CỎ PHỤC VỤ NUÔI DÊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 60 trang )

1

KỸ THUẬT CHĂN NUÔI DÊ THÂM CANH

Ở Việt Nam nghề chăn nuôi dê đã có từ lâu đời, nhưng
theo phương thức quảng canh tự túc, tự phát, thiếu kinh
nghiệm và kiến
thức kỹ thuật.
Phần lớn giống
dê là dê cỏ địa
phương có tầm
vóc nhỏ, năng
suất thấp. Chăn
nuôi dê hiện
nay có nhiều
lợi thế hơn so
với một số
ngành chăn
nuôi khác (như
dê là con vật dễ nuôi; nguồn thức ăn rất dễ kiếm; đầu tư cho
chăn nuôi dê ít hơn so với một số loại chăn nuôi khác; thị
trường tiêu tăng nhanh ), nên nghề chăn nuôi dê đang được
quan tâm và đầu tư phát triển tại một số tỉnh, thành phố trên
toàn quốc với số lượng và quy mô lớn. Khoa học và kỹ thuật
cũng đang được áp dụng vào con giống và hình thức chăn
nuôi.
Tại thành phố Đà Nẵng, nghề nuôi dê được phát triển
nhiều ở huyện Hòa Vang vì đây là địa bàn có nhiều lợi thế về
đất đai, khí hậu thời tiết, giao thông, nằm trong thị trường tiêu
2


thụ tiềm năng. Chăn nuôi dê đã và đang trở thành một hình
thức mang lại thu nhập cho các hộ nông dân tại các xã vùng
núi của huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng.
I. MỘT SỐ TẬP TÍNH VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA DÊ
1. Tập tính ăn uống, chạy nhảy, bầy đàn
Hiểu biết tập tính của dê rất quan trọng, vì nó giúp cho
người chăn nuôi biết cách chăm sóc, nuôi dưỡng dê hợp lý,
phù hợp để nâng cao năng suất, hiệu quả chăn nuôi.
Dê có khả năng sử dụng các loại thức ăn thô xanh, nhiều
chất xơ. So với trâu, bò, cừu, dê ăn được nhiều loại lá hơn
và có biên độ thích ứng rộng với các mùi vị của cây lá. Một
số loài cây mà trâu, bò không ăn nhưng dê vẫn sử dụng được.
Dê rất phàm ăn và thường tìm thức ăn mới. Dê là con vật sử
dụng nước hiệu quả hơn nhiều so với trâu, bò. Nó có khả
năng chịu khát rất giỏi (ví dụ một con dê nặng khoảng 18 –
20 kg thì một ngày mùa hè có khi chỉ uống khoảng 0,5 - 0,7
lít nước).
Do cấu tạo môi dê mỏng, linh hoạt nên ngoài khả năng
gặm cỏ như trâu, bò , dê còn có khả năng đứng bằng hai
chân, bứt các loại lá cây, hoa trên cao, thậm chí trèo hẳn lên
cây để chọn, bứt các phần ngon. Dê thích ăn ở độ cao 0,2-
1,2m. Thức ăn để sát mặt đất dê thường khó ăn và phải quỳ
hai chân trước xuống để ăn. Khi để tự do, dê có khả năng tự
tìm chọn loại thức ăn thích nhất để ăn; thức ăn rơi vãi, dính
bẩn bùn đất dê thường bỏ lại không ăn.
Dê là loài vật có tính khí ưa chạy nhảy và hiếu động.
Chúng rất nhanh nhẹn và di chuyển rất nhanh trong khi kiếm
3

ăn. Mỗi ngày chúng có thể chạy nhảy, di chuyển khoảng

15km.
Dê có tập tính bầy đàn cao. Chúng ngủ nhiều lần trong
ngày. Khứu giác và thính giác của dê rất phát triển nên dê rất
nhạy cảm với tiếng động. Dê còn có khả năng tự chịu đựng và
dấu bệnh. Khi dê ốm thường vẫn cố theo đàn cho đến khi kiệt
sức ngã quỵ xuống mới thôi. Vì vậy, khi chăm sóc dê phải
quan tâm tỉ mỉ mới phát hiện được dê mắc bệnh để có biện
pháp khắc phục kịp thời.
2. Đặc điểm tiêu hóa thức ăn
Dê là loài gia súc nhai lại, có dạ dày 4 túi gồm: dạ cỏ, dạ
tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Ở dê trưởng thành dạ cỏ
phát triển mạnh, chiếm tới 80% dung tích của toàn bộ dạ dày.
Khu hệ vi sinh vật trong dạ cỏ của dê rất lớn, phong phú về
chủng loại và có sự khác biệt so với trâu, bò. Bởi vì dê có
biên độ thích ứng rộng với mùi vị các loại thức ăn. Nó có thể
ăn được nhiều loại thức ăn có nhiều độc tố, cay, đắng mà gia
súc khác không ăn được như lá xoan, lá xà cừ, lá keo tai
tượng, cỏ bướm,
Cũng như ở các loài nhai lại khác, dạ cỏ được coi như
“một thùng lên men lớn”. Tiêu hoá ở dạ cỏ có vị trí rất quan
trọng trong quá trình tiêu hoá của gia súc nhai lại. 50% vật
chất khô của khẩu phần được tiêu hoá ở dạ cỏ nhờ quá trình
lên men của vi sinh vật.
Vi sinh vật trong dạ cỏ sinh sôi và phát triển mạnh nhờ
có các điều kiện thuận lợi: môi trường hiếm khí (nồng độ oxy
nhỏ hơn 1%); nhiệt độ 38- 41
0
C; độ ẩm 80-90%; nhu động
4


của dạ cỏ yếu nên thức ăn dừng lại ở dạ cỏ lâu, cung cấp các
thành phần dinh dưỡng cho vi sinh vật.
Môi trường dạ cỏ trung tính (pH = 6,5-7,4) và tương đối
ổn định cũng là điều kiện thuận lợi để vi sinh vật phát
triển.Việc giữ môi trường trung tính và ổn định là nhờ tác
dụng trung hoà axit của nước bọt.
Cũng như đối với các loài gia súc nhai lại khác, nuôi
dưỡng dê thực chất là cung cấp và tạo các điều kiện thuận lợi
nhất để cho hệ vi sinh vật dạ cỏ phát triển.
3. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển
Cũng như các gia súc khác, sự sinh trưởng và phát triển
của dê tuân theo qui luật giai đoạn. Có thể chia thành các giai
đoạn: giai đoạn bào thai, giai đoạn sơ sinh, giai đoạn dê non
và giai đoạn trưởng thành. Ứng với mỗi giai đoạn có các đặc
điểm khác nhau và yêu cầu khác nhau về điều kiện chăm sóc,
nuôi dưỡng mà người chăn nuôi cần nắm vững.
Sự sinh trưởng và phát triển từng giai đoạn của dê phụ
thuộc vào giống, tính biệt, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc,
quản lý và môi trường. Giai đoạn từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi
cường độ sinh trưởng tuyệt đối và tương đối là cao nhất, tiếp
đến là giai đoạn từ 3 đến 12 tháng. Từ sau 12 tháng tuổi,
cường độ sinh trưởng giảm dần cho đến giai đoạn trưởng
thành. Dê đực luôn tăng trọng nhanh hơn dê cái.
Thông thường, dê sơ sinh có khối lượng 2,5-3,5kg. Lúc
3 tháng tuổi đạt 9-12kg; 12 tháng đạt 23-29kg và khi 18 tháng
tuổi đạt 30-40kg.
5

4. Đặc điểm sinh sản và tiết sữa
Dê là gia súc có khả năng sinh sản nhanh hơn nhiều so với

trâu, bò. Thông thường, dê động dục lần đầu lúc 6-8 tháng tuổi,
phối giống lần đầu lúc 8-10 tháng và đẻ lứa đầu lúc 14 tháng.
Chu kỳ động dục của dê kéo dài 19-21 ngày. Thời gian
động dục kéo dài 36-40 giờ (đôi khi kéo dài trên 02 ngày).
Khi động dục âm hộ hơi sưng đỏ hồng, chảy dịch nhờn, kêu
la bỏ ăn, nhảy lên lưng con khác. Nếu dê đang tiết sữa thì
năng suất sữa giảm đột ngột. Thời gian mang thai là 150 ngày
(5 tháng).
Các chỉ tiêu về khả năng sinh sản của dê thay đổi theo
giống, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý và ngoại cảnh
Bầu vú dê nằm ở dưới bụng, giữa hai chân sau, gồm hai tuyến
sữa và hai núm vú độc lập với nhau.
Sản lượng sữa của dê tùy thuộc vào giống, lứa đẻ, chế độ
dinh dưỡng, quản lý, Năng suất sữa trung bình mỗi con
khoảng từ 0,7-1,5 lít. Có những con cho năng suất sữa cao
hơn, đạt 2,0-2,5 lít/ngày.
II. CÁC GIỐNG DÊ VÀ KỸ THUẬT CHỌN GIỐNG
1. Các giống dê chính hiện có tại Việt Nam
a. Giống dê nội
- Dê địa phương (dê cỏ)
+ Dê Cỏ được nuôi ở hầu hết các vùng sinh thái của
nước ta theo phương thức chăn thả quảng canh, với mục đích
lấy thịt. Dê Cỏ thuộc loại dễ nuôi, khả năng thích ứng rộng và
có khả năng chống chịu với bệnh tật rất tốt. Thịt dê Cỏ thơm
ngon, được ưa chuộng.
6


+ Màu sắc lông da của giống dê này rất khác nhau nhưng
đa số có màu vàng nâu hoặc đen loang trắng.

+ Khối lượng cơ thể: trưởng thành: dê cái 28-32kg, dê
đực 32-35kg; Sơ sinh: 1,7 – 1,9kg.
+ Khả năng cho sữa : 350 – 370g/ ngày với chu kỳ cho
sữa từ 90 – 105 ngày.
+ Khả năng sinh sản: Phối giống lần đầu lúc 6 - 7 tháng
tuổi, đẻ trung bình 1,4 lứa/năm và 1,3 con/lứa.
- Dê Bách Thảo

7


+ Có nguồn gốc ở Phan Rang, Ninh Thuận, được lai pha
tạp nhiều đời của một số giống nhập nội. Đây là giống kiêm
dụng sữa – thịt. Dê Bách Thảo hiền lành, phù hợp với nuôi
nhốt hoàn toàn hoặc nuôi nhốt kết hợp với chăn thả.
+ Giống dê Bách Thảo có sống mũi dô, miệng rộng và
thô, phần lớn không có râu cằm. Đầu thô, dài, phần lớn dê
không sừng, một số có sừng thì sừng nhỏ, chếch ra hai bên và
chĩa về phía sau, tai to cúp xuống, nhiều con có hai mấu thịt ở
cổ gọi là hoa tai. Màu lông chủ yếu là đen hoặc đen loang sọc
trắng, vá trắng, đốm trắng, đốm đen.
+ Khối lượng cơ thể: trưởng thành con cái 36 - 40kg;
con đực 46 - 53kg; sơ sinh 2,6 – 2,8kg.
+ Khả năng sinh sản: Phối giống lần đầu lúc 7 - 8 tháng
tuổi, đẻ trung bình 1,7 con/ lứa và 1,8 lứa/ năm.
+ Khả năng cho sữa 1,1 - 1,5 lít/ngày với chu kỳ cho sữa
là 148-150 ngày.
b. Giống dê ngoại nhập
- Dê Jumanpari ( nhập từ Ấn Độ)









8


+ Là giống dê có nguồn gốc ở Ấn Độ, rất nổi tiếng và
được nuôi phổ biến ở hầu khắp Ấn Độ. Dê Jumanpari có tầm
vóc lớn là giống dê kiêm dụng sữa - thịt nhưng đang có chiều
hướng phát triển thành hướng chuyên sữa. Dê Jumnapari
phàm ăn và chịu đựng tốt với thời tiết nóng bức.
+ Màu lông không đồng nhất, chủ yếu là màu trắng vá
nâu ở vùng đầu, cổ. Tai dài, mềm và cụp xuống có thể dài đến
25- 31cm, chân cao.
+ Khối lượng cơ thể: trưởng thành con cái 40 - 45kg,
con đực 70 – 80kg, sơ sinh: 2,8 - 3,5kg.
+ Khả năng cho sữa: 1,3 - 2,5kg/ngày với chu kỳ cho
sữa là 180 - 185 ngày.
+ Khả năng sinh sản: Phối giống lần đầu lúc 8 - 9 tháng
tuổi, đẻ trung bình 1,3 con/ lứa và 1,3 lứa/ năm.
- Dê Beetal (nhập từ Ấn Độ)

9

+ Có nguồn gốc ở Ấn độ, là giống dê kiêm dụng sữa -
thịt. Dê Beetal phàm ăn, có khả năng chịu đựng kham khổ tốt,

hiền lành và dễ nuôi.
+ Màu lông chủ yếu là đen, đen loang trắng, nâu cánh
gián, rám vàng. Chân cao, mặt gồ, sống mũi cong lồi, tai dài
và to rũ xuống. Dê Beetal có sừng cong về sau, đuôi ngắn,
bầu vú phát triển.
+ Khối lượng cơ thể: trưởng thành con cái 45 - 50kg;
con đực 70 - 80kg; sơ sinh 3,0 - 3,5kg.
+ Khả năng cho sữa: 1,7 - 2,6 lít/ngày với chu kỳ cho
sữa là 190-200 ngày.
+ Khả năng sinh sản: Giống dê này thành thục sinh dục
muộn, đẻ 1,4 - 1,5 con/lứa và 1,2 - 1,4 lứa/năm.
- Dê Barbari (nhập từ Ấn Độ)
+ Dê Barbari
có nguồn gốc ở
Ấn Độ và là giống
kiêm dụng thịt -
sữa. Dê Barbari có
tầm vóc vừa phải,
thân hình thon
chắc, dễ nuôi, ăn
tạp, chịu đựng
kham khổ tốt và
hiền lành, thích
ứng rộng.
+ Màu lông trắng, đốm vàng hoặc đen, tai nhỏ.
10

+ Khối lượng cơ thể: trưởng thành: con cái 30 - 35kg và
50-55kg ở con đực.
+ Khả năng cho sữa: 0,9 - 1,1kg/ngày, có con đạt

2,1lít/ngày với chu kỳ cho sữa là 145 - 150 ngày.
+ Khả năng sinh sản tốt, thành thục sớm, mắn đẻ, đẻ
1,7con/lứa và 1,6 lứa/năm.
- Dê Alpine (nhập từ Mỹ)
+ Là giống dê chuyên sữa. Dê có khả năng thích ứng tốt
với khí hậu nhiệt đới.
+ Màu lông nâu và nâu đen. Tai hướng về phía trước.
Thường có sừng và tầm vóc to lớn.
+ Khối lượng cơ thể: trưởng thành con cái 40 - 55kg,
con đực 60 - 70kg.
+ Năng suất sữa trung bình 2,5 - 3,0 lít/ngày với chu kỳ
cho sữa là 240 - 250 ngày.
- Dê Saanen (nhập từ Mỹ)
+ Là giống dê chuyên sữa. Dê có khả năng thích ứng tốt
+ Màu lông trắng sữa, có thể có đốm đen hay nâu, lông
ngắn. Tai tròn và hướng lên trước. Thường có sừng. Dê có
tầm vóc lớn.
+ Khối lượng cơ thể: sơ sinh 2,5-3,0kg; trưởng thành: dê
cái 50-55kg, dê đực 60-70 kg.
+ Khả năng sinh sản: dê cái đẻ 1,4 con/lứa và 1,5
lứa/năm.
+ Khả năng cho sữa: trung bình 3 - 3,5 lít/ngày, có con
đạt 5,2 lít/ngày.
11

2. Kỹ thuật chọn giống
a. Cách chọn dê cái
- Chọn dê cái giống hướng sữa:
Lựa chọn những con có đầu rộng hơi dài, hàm khỏe, vẻ
mặt linh hoạt; cổ dài mềm mại nhọn về phía đầu; chân trước

thẳng, cân đối; lưng thẳng có một lõm ở phía xương chậu thể
hiện khả năng tiêu hóa tốt. Núm vú to dài 4 - 6cm gắn chặt
vào phần bụng, thấy rõ các tĩnh mạch ở phía trước bầu vú,
gân sữa chạy từ bầu vú lên tới nách chân trước, gân sữa càng
gấp khúc dê càng nhiều sữa.
Ngoài ra còn chú ý chọn những con có chỉ tiêu sinh trưởng
cao hơn những con khác trong đàn tại thời điểm sơ sinh, lúc 6
tháng tuổi, lúc phối giống, tuổi đẻ lứa đầu tiên. Nên chọn
những con dê cái từ giống có sức chống chịu cao, ăn tốt và
chịu đựng được những điều kiện ngoại cảnh không phù hợp,
có năng suất sữa cao, dễ vắt sữa, thời gian cho sữa kéo dài.
Có khả năng sinh sản tốt với khoảng cách lứa đẻ đều đặn, số
con đẻ ra, tỷ lệ nuôi sống cao.
- Chọn dê cái giống hướng thịt:
Chọn những dê cái có thân hình đều đặn, đầu nhỏ, cổ vừa
phải và thon; ngực nở và sâu; lưng thẳng và rộng; chân khỏe;
da mềm mại, lông mượt. Bộ phận sinh dục nở nang, khi phối
giống lần đầu đạt thể trọng từ 18 - 20kg lúc 9 - 10 tháng tuổi.
a. Cách chọn dê đực
- Chọn dê đực giống hướng sữa:
12

Nên chọn những dê đực để giống có thân hình cân đối, đầu
rộng, cổ to ngực nở, tứ chi khỏe mạnh, cứng cáp chắc chắn,
hai tinh hoàn to và đều đặn.
Chọn con đực từ bố mẹ có năng suất cao, ở lứa thứ 2 và
thứ 4; chọn con đực là con một; chọn những dê đực có khả
năng thụ tinh mạnh và tỷ lệ thụ thai cao.
Chọn dê bố tốt có vai trò rất quan trọng vì nó góp 50% đặc
tính di truyền tiết sữa của dê con sau này.

- Chọn dê đực giống hướng thịt:
Dê đực có đầu to, cổ khỏe, thân hình cân đối, xương chắc,
đùi nổi bắp thịt, khỏe mạnh. Hai tinh hoàn to và đều nhau,
dáng điệu nhanh nhẹn, linh hoạt, tính dục hăng và được chọn
từ đàn có bố mẹ đẻ sai, đàn con khỏe mạnh, ăn tốt chóng lớn.
Dê đực có sức chống chịu cao, chịu đựng được những điều
kiện ngoại cảnh không phù hợp.
c. Những loại dê không được chọn làm giống.
- Không chọn những con không có nguồn gốc và lý lịch
rõ ràng hoặc bố mẹ, ông bà thuộc loại còi cọc, năng suất thấp.
- Có cách đặc điểm ngoại hình như: đầu dài, trụi lông tai,
cổ ngắn, sườn thẳng, bụng nhỏ. Tứ chi không thẳng, vòng
kiềng, yếu ớt và không chắc chắn. Móng chân không gọn, đều
và thẳng.
- Sờ bầu vú thấy cứng, da vú thô. Các cơ quan sinh dục
không phát triển hoặc có dị tật.
III. CHUỒNG TRẠI CHĂN NUÔI
13

Chuồng
trại dê so
với các
chuồng của
các vật nuôi
khác thì đơn
giản và rẻ
tiền hơn.
Tuy nhiên
cũng cần
phải đáp

ứng các yêu
cầu kỹ thuật
sau đây:
- Giảm được sự bất lợi của thời tiết.
- Tránh rủi ro do trộm cắp.
- Quản lý và đo lường được năng suất chăn nuôi.
- Tránh phiền phức cho xã hội do dê phá phách
1. Vị trí
Do đặc tính dê thích sống nơi cao ráo, thoáng mát do
vậy vị trí chuồng trại phải đáp ứng các yêu cầu trên. Hướng
chuồng nên chọn hướng đông và đông nam để mát về mùa hè
ấm về mùa đông.
Tùy điều kiện đất đai, bãi chăn thả, qui mô đàn để chọn và
định vị trí chuồng trại. Tuy nhiên chuồng không nên quá gần
nhà nhưng cũng không nên quá xa khó chăm sóc và quản lý.
14

2. Vật liệu làm chuồng
Do đặc điểm cấu trúc chuồng dê đơn giản cho nên vật
liệu làm chuồng chủ yếu các vật liệu có sẵn tại địa phương, dễ
kiếm và rẻ tiền: Gỗ tận dụng, tre, thân cây dừa, thân cây cau,
lưới sắt B40
Các loại lá tranh nứa, dừa nước, ngói, tôn hoặc phibrô
ximăng đều có thể làm nguyên liệu lợp mái.
3. Các kiểu chuồng trại
Chuồng dê có thể phân ra thành các loại như sau:
- Chuồng riêng rẻ (chuồng đơn).
- Chuồng sàn có chia ngăn.
- Chuồng sàn không chia ngăn.
- Chuồng trệt không chia ngăn.

- Chuồng nhốt chung trong một khu rào.
Hiện nay ở nước ta 2 dạng chuồng phổ biến nhất là
chuồng sàn có chia ngăn và chuồng sàn không chia ngăn.
- Chuồng sàn có chia ngăn: Chuồng sàn có chia ngăn áp
dụng đối với dê nuôi lấy sữa. Kiểu chuồng này có thể chia
theo nhóm dê như vắt sữa, chửa, hậu bị và dê con.
Kích thước chuồng sàn chia ngăn theo cá thể mỗi ô cần:
dài 1,5 - 1,6m, rộng 0,8 - 1,0m, cao 1,5 - 2,0m
- Chuồng sàn không chia ngăn: Kiểu chuồng này được
phổ biến ở phương thức nuôi chăn thả đặc biệt đối với dê thịt.
Loại này vách ngăn ít tốn kém hơn và chỉ cần cửa rộng cho
toàn bộ đàn dê ra vào dễ dàng. Máng ăn có thể đặt chạy dài
theo mái lợp. Nước uống có thể đặt ở cửa và sân chơi.
15

Kiểu chuồng này có thể áp dụng đối với dê sữa nuôi
nhốt bằng các sợi dây cố định ở mỗi con. Tuy nhiên loại
chuồng này cũng cần có ngăn riêng cho những dê con mới
sinh, hoặc phải có chuồng úm để tránh hao hụt đối với dê con.
- Chuồng úm dê con: Ðể tăng cường sức khỏe và tỷ lệ
nuôi sống cần có chuồng úm dê con, chuồng úm dê con cần
phải sạch sẽ, ấm khi trời lạnh, mát khi thời tiết nóng.
Kích thước chuồng úm dài 0,8 - 1,2m, rộng 0,6 – 0,8m,
cao 0,6 – 0,8m. Quanh chuồng úm có thể làm rèm che chắn
cho dê con, chuồng úm chủ yếu sử dụng cho dê mới sinh.
4. Yêu cầu kỹ thuật chuồng nuôi dê
- Khung chuồng: Khung chuồng dê được làm bằng gỗ
hay tre. Phần chân đỡ chuồng có thể xây bằng gạch có độ cao
50 - 70cm, phía trên đặt các thanh dầm đáy bằng gỗ chắc tạo
khung chuồng dê.

- Sàn chuồng: Là nơi đi lại sinh hoạt của dê hàng ngày
cho nên cần phải làm bằng vật liệu cứng bền như gỗ, sàn cao
so với mặt đất khoảng 50 - 70cm. Các thanh lót chuồng đều
nhẵn và thẳng, có khe hở rộng 1,5 - 2,0cm bảo đảm cho phân
lọt qua dễ dàng song không rộng quá làm kẹt chân dê, nhất là
dê con. Nếu làm bằng tre thì phần cật tre phải hướng lên phía
trên mặt để tránh đọng phân và nước tiểu, các thanh nan phải
thẳng, không cong, vặn và được vát cạnh để giảm độ sắc, có
thể làm xước sát chân và móng dê.
16

- Vách ngăn: Vách ngăn mục đích là cầm giữ dê ở một
vị trí nhất định,
vật liệu làm
vách cũng
giống như vật
liệu làm sàn:
gỗ, tre, hay
lưới sắt B40…
Kích thước
giữa các thang
vách cách nhau
08 - 12cm, có
độ cao từ mặt
sàn lên 1,5 - 1,8m. Vách ngăn phải đảm bảo khoẻ, chắc chắn,
không có móc sắc gây tổn thương cho dê. Vách ngăn tốt nhất
là đóng nan dọc theo ô chuồng tránh kẹt chân dê vào vách.
Ngăn nuôi dê đực cần được làm chắc chắn hơn.
- Cửa chuồng: Cửa lên xuống chuồng dê phải có độ rộng
lớn hơn kích thước thân dê (khoảng 60 - 70cm) để dễ đi lại và

tránh cọ sát, đặc biệt đối với dê đang mang thai. Vật liệu làm
cửa chuồng có thể bằng tre, gỗ, nhựa. Do sàn chuồng thường
cao hơn nền chuồng và sân chơi 0,7-1,0m nên cần làm cầu
thang cho dê lên xuống dễ dàng. Cầu thang có thể làm to hay
nhỏ, bằng gỗ hay tre tùy theo kích thước của chuồng và từng
ô chuồng. Hiện nay do gỗ đắt nên thường dùng các vật liệu
bằng gạch, đá để xây bậc làm cầu thang sẽ bền và rẻ hơn. Cửa
17

chuồng có thể thiết kế để vừa làm cửa chắn vừa làm bậc lên
xuống khi hạ xuống mỗi khi cho dê vào chuồng.
- Mái lợp: Mái chuồng có độ cao vừa phải để tránh gió
lùa, nhưng phải đảm bảo chắc chắn, có độ dốc đảm bảo dễ
thoát nước và nhô ra khỏi thành chuồng ít nhất 60cm để tránh
mưa hắt hay ánh nắng trực tiếp chiếu vào dê. Tùy theo kiểu
chuồng trại và qui mô đàn có thể lợp 1 mái, 2 mái; mái ngắn
hoặc mái dài. Mái chuồng làm bằng tre, gỗ và có thể lợp ngói,
tranh nứa, tôn hoặc phibrô ximăng.
- Nền đất: Nền đất phía dưới sàn chuồng làm cao hơn bề
mặt tự nhiên 0,3m, có độ dốc 30-35
0
hay 30-35% về phía sau
để thuận lợi cho việc vệ sinh chuồng trại. Nền chuồng tốt nhất
là láng bằng lớp vữa ximăng hay đất nện chắc. Phía sau
chuồng nên làm rãnh và hố ủ phân để thu gom và xử lý phân,
rác thải, hạn chế ô nhiễm khu vực chuồng trại và ngăn ngừa
bệnh tật. Phía trước gầm chuồng nên làm hàng rào chắn để
ngăn không cho dê chui vào gầm hay chạy ra đằng sau
- Máng đựng thức ăn, nước uống:
+ Máng thức ăn thô xanh nên làm phía trước, ngoài

thành chuồng, có lỗ cho dê ăn, ô này cách sàn chuồng 40 -
60cm, kích thước 25 x 30 cm để dê dễ dàng thò đầu ra lấy
thức ăn. Máng thức ăn thô xanh có thể làm bằng gỗ, tre nứa
hay bằng nhựa, kích thước 30cm x 50cm x 25cm.
+ Máng thức ăn tinh được làm bằng gỗ, tre hay nhựa và
treo bên trong thành chuồng, cách sàn chuồng 50 - 60cm ở vị
trí mà người nuôi dễ vệ sinh và đổ thức ăn tinh vào. Kích
thước máng thức ăn tinh là: 30cm x 15cm x 10 cm.
18

+ Máng uống được làm bằng nhựa hay sành sứ, cũng có
thể xây máng bằng gạch. Máng uống có thể để ngoài sân chơi
và nên treo, đặt cách mặt đất ít nhất 50cm để dê không dẫm,
lội vào.
- Sân chơi: Để quản lý phối giống và đàn dê nói chung,
chuồng nuôi dê nhất thiết phải có sân chơi. Sân chơi được
làm trước cửa chuồng dê có kích thước đảm bảo tối thiểu
1,5m
2
/01 con dê, Sân chơi thường có diện tích rộng bằng ba
lần diện tích chuồng nuôi. Nền sân chơi láng ximăng hay
bằng đất nện chặt, xung quanh có hàng rào. Hàng rào sân
chơi được làm từ tre, gỗ hay lưới B40, nhưng phải đảm bảo
chắc chắn. Khu vực sân chơi phải quang đãng, thoáng mát, có
bóng râm, phẳng không đọng nước
IV. KỸ THUẬT CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG
1. Chăm sóc, nuôi dưỡng dê con
a. Giai đoạn bú sữa đầu (từ sơ sinh đến 7 ngày tuổi)
- Sau khi dê con sinh ra dùng khăn sạch, khô, mềm lau
toàn bộ cơ thể dê con; móc nhớt trong miệng, mũi; bóc móng

chân.
- Cắt rốn theo cách như sau: dùng tay trái cầm cuống
rốn, kẹp rốn giữa ngón cái và ngón trỏ của tay phải đồng thời
vuốt nhẹ theo hướng ra ngoài, dùng dây chỉ bền chắc thắt chặt
cuống rốn cách bụng khoảng 4 - 5 cm, sau đó dùng kéo cắt
cuống rốn phía ngoài 1,0 - 1,5 cm và sát trùng vết cắt bằng
cồn iốt 5% hoặc nước oxy già.
- Cho dê con bú sữa đầu ngay, không được để chậm. Sữa
đầu rất tốt và quan trọng đối với dê con vì chứa nhiều chất
19

dinh dưỡng và đặc biệt chứa nhiều kháng thể, giúp dê con có
sức đề kháng chống lại bệnh tật và phát triển khoẻ mạnh sau
này. Nếu để chậm cho dê con bú thì lượng các chất dinh
dưỡng và kháng thể trong sữa đầu giảm dần và dê con không
được sử dụng.
Có thể cho bú trực tiếp hoặc bú bằng bình, mỗi ngày 3 -
4 lần hoặc để dê con bú tự do. Nếu dê con yếu, cần vắt sữa ra
bình cho dê bú. Nếu dê mẹ không cho con bú, phải ép cho bú
bằng cách giữ chặt dê mẹ, vắt bỏ những tia sữa đầu rồi vắt
sữa vào miệng dê con, cho đến khi dê mẹ quen và cho con bú.
Cho bú đều cả hai vú.
- Lót ổ bằng rơm rạ mềm, khô cho dê con nằm. Phải giữ
ấm cho dê con, nếu trời lạnh cần sưởi ấm cho dê con. Không
được cho dê con xuống đất tránh tiếp xúc với mầm bệnh.
b. Giai đoạn bú sữa thường (từ 7 ngày tuổi đến cai sữa)
Giai đoạn này kéo dài 3 tháng. Trong chăn nuôi quảng
canh, có thể để dê con theo mẹ và bú tự do cho đến khi cai
sữa. Cũng có thể tách dê con khỏi dê mẹ để vắt sữa:
- Trường hợp nuôi dê cao sản (trên 1lít sữa/ngày): vắt

sữa mỗi ngày 02 lần (sáng và chiều). Ngay sau mỗi lần vắt
sữa cho dê con vào bú mẹ để khai thác hết lượng sữa còn lại.
Xác định lượng sữa dê con bú được bằng cách cân dê
con trước và sau khi bú mẹ. Trên cơ sở lượng sữa bú được có
thể phải cho bú thêm bằng bình, đảm bảo cho mỗi con, mỗi
ngày được ăn 450 - 600ml sữa.
- Đối với chăn nuôi hộ gia đình và dê cho sữa dưới
1lít/ngày: áp dụng phương thức tách dê con khỏi dê mẹ ban
20

đêm (từ 5h00

chiều hôm trước đến 6h30

sáng hôm sau). Vắt
sữa ngày một lần vào buổi sáng, sữa thu được là sữa hàng
hoá. Sau đó cho dê con theo bú mẹ cả ngày và không cần cho
bú thêm bằng bình.
Cần lưu ý: sữa vắt ra cho dê con ăn ngay. Dụng cụ chứa
sữa như bình, xô, chậu …. phải rửa sạch sẽ.
- Bắt đầu từ tuần tuổi thứ ba, tập cho dê con ăn các loại
thức ăn dễ tiêu, chất lượng tốt: cỏ non phơi tái, cỏ khô sạch,
bột cám, bột ngô, bột đậu tương rang…, lượng thức ăn tăng
dần cho đến khi dê con tự ăn và không cần sữa mẹ.
- Cần cung cấp đầy đủ nước uống sạch sẽ cho dê con.
Thường xuyên quét dọn chuồng trại, bảo đảm chuồng trại
luôn khô ráo,
sạch sẽ.
- Mỗi ngày
cần bố trí cho

dê con vận động
1 - 2 giờ trên
sân chơi cạnh
chuồng hoặc
trên bãi chăn.
Những con còi
cọc, cần bổ
sung thêm
premix khoáng,
các vitamin A, D, E, B complex … Trước khi cai sữa, sử
dụng Levamisole tẩy giun đũa cho dê con.
21

c. Lượng sữa và thức ăn tinh hàng ngày cần cho một con dê
- Dưới 3 tuần tuổi: 400 - 600g sữa.
- Từ 22 đến 42 ngày tuổi: 500 - 800g sữa và 30 - 35g
thức ăn tinh.
- Từ 43 đến 90 ngày tuổi: 500 - 600g sữa và 50 - 100g
thức ăn tinh.
2. Chăm sóc, nuôi dưỡng dê hậu bị
- Giai đoạn nuôi hậu bị kéo dài khoảng 4 - 5 tháng, đối
với dê cái (thời gian từ sau khi cai sữa cho đến khi dê có chửa
lần đầu) và 8 - 9 tháng đối với dê đực (thời gian từ sau khi cai
sữa cho đến khi sử dụng dê đực để phối giống).
Dê hậu bị cần tăng trưởng nhanh trong giai đoạn chưa
thành thục sinh dục nên được nuôi dưỡng tốt, nhưng tránh
chúng bị mập mỡ lúc đã trưởng thành sinh dục. Thiếu dinh
dưỡng dê sẽ trưởng thành sinh dục chậm, tính hăng và số
lượng tinh trùng giảm.
- Để đảm bảo đàn giống chất lượng tốt, ngay trước khi

cai sữa, cần tiến hành chọn những con dê đực, dê cái tốt nhất
trong đàn để nuôi hậu bị: chọn những con có ngoại hình đẹp,
cân đối, mang những đặc trưng của giống, sinh trưởng tốt và
có các cơ quan sinh dục phát triển bình thường. Không chọn
nuôi hậu bị làm giống những con còi cọc, ốm yếu, phát triển
không cân đối.
- Trong giai đoạn nuôi hậu bị cần bảo đảm (thông qua
chăn thả hoặc cho ăn tại chuồng) cho mỗi con, mỗi ngày (tùy
theo khối lượng và tuổi dê):
+ Thức ăn thô: 2 - 5kg
22

+ Thức ăn tinh: 0,2 - 0,5 kg
Đối với thức ăn tinh, cần hạn chế sử dụng các loại thức
ăn giầu năng lượng như ngô, sắn, gạo … để tránh cho dê hậu
bị nhanh béo mà vẫn bảo đảm cho dê sinh trưởng, phát triển
bình thường.
- Cung cấp đầy đủ nước sạch cho dê.
- Mỗi ngày cho dê vận động 3 - 4 giờ
- Hàng ngày làm vệ sinh chuồng nuôi, sân chơi, máng
ăn, máng uống. Luôn bảo đảm chuồng nuôi khô ráo, sạch sẽ
- Đối với dê đực giống hậu bị, phải nuôi tách riêng và
chỉ cho giao phối khi đạt 11 - 12 tháng tuổi
- Thời kỳ đầu sau khi cai sữa là thời kỳ chuyển tiếp từ bú
sữa mẹ sang tự thu nhận các loại thức ăn vì thế dê con thường
bị khủng khoảng, dễ mắc các bệnh đường tiêu hóa như
chướng bụng đầy hơi, ỉa chảy. Để đề phòng những trường
hợp này cần lưu ý cho dê ăn các loại thức ăn chất lượng tốt;
thức ăn, nước uống phải rất sạch sẽ; chuồng nuôi, sân chơi
phải khô, sạch. Nếu chẳng may dê bị ỉa chảy hoặc chướng

bụng đầy hơi, phải xem xét nguồn thức ăn, nước uống và có
biện pháp điều trị kịp thời.
3. Chăm sóc, nuôi dưỡng dê đực giống
- Dê đực giống phải nhốt tách riêng với dê cái. Có thể
nhốt vào ô cuối chuồng để tạo tính hăng cho chúng. Chuồng
trại bảo đảm khô ráo và sạch sẽ
- Khẩu phần thức ăn hàng ngày cho một dê đực giống có
khối lượng khoảng 50kg như sau:
+ Cỏ: 04 kg
23

+ Lá cây giầu đạm: 1,5kg
+ Thức ăn tinh: 0,4kg
- Với chế độ phối giống mỗi ngày hai lần, cần cho ăn
thêm 0,3 kg rá đỗ hoặc 1 - 2 quả trứng
- Thường xuyên chải khô cho dê. Bảo đảm cho dê vận
động mỗi ngày hai lần, mỗi lần khoảng 2 giờ
- Cần có sổ theo dõi việc sử dụng và hiệu quả phối giống
của từng dê đực giống. Khi hiệu quả phối giống của dê không
đạt được 60% hoặc tuổi quá 6 năm thì nên loại thải.
4. Chăm sóc, nuôi dưỡng dê cái sinh sản
a. Phối giống
- Đối với dê cái, nên cho phối giống lần đầu khi đạt tuổi
và trọng lượng tối thiểu cần thiết. Dê Bách Thảo thường là 7-
9 tháng tuổi, trọng lượng 19 - 20kg. Trong thực tế sản xuất,
áp dụng bằng cách bỏ qua 2 lần động dục đầu tiên của dê cái,
sau đó mới phối giống. Đối với dê cái đang sinh sản, thường
sau khi đẻ 1,5 – 2,0 tháng, đã phục hồi sức khoẻ mới cho phối
giống lại.
- Tuyệt đối không cho dê đực giống phối với dê cái có quan

hệ là anh chị em ruột hoặc là con cháu của dê đực giống đó.
- Chu kỳ động dục của dê là 19 - 21 ngày, kéo dài 1 - 3
ngày. Khi động dục, âm hộ hơi sưng, có màu đỏ hồng, chảy
dịch nhờn, kêu la bỏ ăn, nhảy lên lưng con khác, nếu đang tiết
sữa thì giảm sữa đột ngột. Khi phát hiện được triệu chứng dê
động dục bằng cách quan sát theo dõi hoặc sử dụng đực đeo
bao dương vật thì sau 18 - 36 giờ cho giao phối là thích hợp.
Trong sản xuất, khi phát hiện dê động dục ngáy hôm nay thì
24

sáng sớm hôm sau cho giao phối 2 lần vào buổi sáng và chiều
là phù hợp.
- Phải có sổ theo dõi phối giống để ghi chép ngày phối,
kết quả phối giống và dự định ngày dê đẻ.
b. Dê cái mang thai
- Sau khi phối giống, theo dõi nếu đến chu kỳ động dục
bình thường (21 -23 ngày) mà không thấy dê động dục trở lại
là có thể dê đã thụ thai. Dê mang thai trung bình 150 ngày
(biến động từ 145 - 157 ngày), vì vậy phải chuẩn bị đỡ đẻ cho
dê trước 140 ngày.
- Khi dê có chửa, nhu cầu dinh dưỡng tăng dần, đặc biệt
ở 2 tháng cuối cùng dê cái chịu kiếm ăn hơn, phàm ăn hơn
bình thường, biểu hiện ở thể trạng bên ngoài là lông mượt và
tăng cân. Cần đáp ứng đủ số lượng và chất lượng thức ăn để
dê nuôi thai tốt và có nhiều sữa sau khi sinh.
+ Ba tháng chửa đầu tiên: 3 - 5 kg thức ăn thô/con/
ngày; 0,3 - 0,5 kg ăn tinh/con/ngày.
+ Hai tháng chửa cuối: 4 - 5kg thức ăn
thô/con/ngày; 0,4 - 0,6 kg thức ăn tinh/con/ ngày.
(Nếu nuôi theo phương thức bán chăn thả thì tùy theo

tình hình và năng suất bãi chăn, lượng thức ăn thô bổ sung tại
chuồng có thể bằng ½ khẩu phần nêu trên).
- Đối với dê đang cho sữa, tuổi thai càng lớn, lượng sữa
của dê mẹ khai thác càng giảm để bào thai phát triển tốt và
tránh sản lượng sữa giảm ở các chu kỳ sau.
Chú ý: Cho dê cạn sữa từ từ bằng cách giảm dần số lần
vắt như ngày 1 lần, rồi 2 ngày 1 lần, 3 ngày 1 lần và cắt hẳn.
25

- Không chăn dê quá xa chuồng và tránh dồn đuổi, đánh
đập, tuyệt đối không nhốt dê đực giống trong đàn cái đang chửa.
- Đối với dê chửa lần đầu cần xoa bóp nhẹ bầu vú để
kích thích tuyến sữa phát triển và tập cho dê quen dần với
việc vắt sữa sau này.
- Dự tính ngày dê đẻ để chuẩn bị trực, chủ động đỡ đẻ và
chăm sóc dê con sơ sinh được chu đáo.
c. Dê đẻ.
- Dê sắp đẻ nên nhốt riêng từng con ở chuồng đã được
vệ sinh tiêu độc, khô, sạch, ấm và yên tĩnh.
- Trước khi đẻ 5-10 ngày nên giảm bớt thức ăn tinh ở
những dê cái có năng suất sữa cao để tránh viêm vú, sốt sữa.
- Có người trực dê đẻ, chuẩn bị cũi, lót ổ nằm cho dê con
sau khi sinh và các loại dụng cụ như cồn iốt, giẻ lau, kéo, chỉ
để cắt rốn cho dê sơ sinh.
- Dê đẻ có những biểu hiện: Dê khó chịu, đi đái luôn,
bầu vú và âm hộ sưng đỏ, bụng sa, bầu vú căng. ở âm hộ có
dịch đặc chảy thành dòng và xuất hiện bọc nước ối là dê sắp
đẻ. Khi nước ối vỡ ra là dê đẻ. Bình thường thai sẽ được đẩy
ra từ từ theo nhịp rặn của dê mẹ. Thường dê đẻ từ 1 - 4 giờ
tuỳ theo số lượng thai và vị trí thai.

- Nếu dê con đang ra mà bị kẹt, khó đẻ, dê mẹ thường
kêu la, cần hỗ trợ bằng cách đưa tay đã sát trùng vào đẩy thai
theo chiều thuận, khi lôi thai ra phải cẩn thận, hai tay nắm
phần thân phía ngoài kéo nhẹ ra theo nhịp rặn của dê mẹ.
Điều quan trọng trước khi can thiệp là xác định đúng vị trí
ngôi thai hiện tại.

×