Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

báo cáo môn công nghệ khai thác và chế biến dầu và than đá tình hình kinh tế xã hội của tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.29 KB, 42 trang )

Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Thái Nguyên
Nguyễn tiến dũng : 20104674
Đào thị hoa :20106175
Hoàng tiến huy :20106179
Phần 1: Tình hình kinh tế xã hôi của tỉnh Thái Nguyên:
1.1. Tình hình kinh tế - xã hội:
1.1.1. Giới thiệu chung về Tỉnh Thái Nguyên:
Thái Nguyên là một tỉnh ở Đông Bắc Việt Nam, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội và là
tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên là một trung tâm kinh
tế - xã hội lớn của khu vực Đông Bắc hay cả Vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997 với việc tách tỉnh Bắc Thái thành hai
tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở
thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội
1.1.1.1 Địa lý:
a. Vị trí:
Tỉnh Thái Nguyên có diện tích 3.562,82 km² phía bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc
Kạn, phía tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía đông giáp với các
tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Tỉnh Thái
Nguyên trung bình cách sân bay quốc tế Nội Bài50 km, cách biên giới Trung Quốc
200 km, cách trung tâm Hà Nội 75 km và cảng Hải Phòng 200 km. Với vị trí địa lý
là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế,giáo dục của khu Việt Bắc nói
riêng, của vùng trung du miền núi phía Bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ
giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Việc giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường
sông hình rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút.
b. Địa chất:
Khu vực tây bắc Thái Nguyên bao gồm huyện Định Hóa và các xã phía tây của
hai huyện Phú Lương, Đại Từ có lịch sử hình thành sớm nhất, thuộc chu kỳ kiến
tạo sơn Caledonia bắt đầu cách đây 480 triệu năm và được hình thành xong
trong đại cổ sinh cách đây 225 triệu năm. Các khu vực núi còn lại của Thái Nguyên
có lịch sử địa chất trẻ hơn. Phần lớn lãnh thổ Thái Nguyên có lịch sử hình thành


suốt trung sinh (bắt đầu từ cách đây 240 triệu năm và kết thúc cách đây 67 triệu
năm, kéo dài trong khảng 173 triệu năm).
Sau khi được hình thành xong (cách đây 67 triệu năm), lãnh thổ Thái Nguyên
ngày nay tồn tại dưới chế độ lục địa liên tục 50 triệu năm. Với thời gian này, địa
hình Thái Nguyên ngày nay được san bằng và trở thành bình nguyên. Đến kiến tạo
sơn Hymalaya cách đây khoảng 25 triệu năm, do vận động nâng lên mãnh liệt,
Thái Nguyên cũng được nâng cao từ 200 đến 500m, làm cho địa hình trẻ lại.
Những miền được nâng cao có địa hình bị cắt xẻ, các vật liệu trầm tích trẻ, mềm bị
ngoại lực bóc mòn, các núi cổ được cấu tạo bằng nham thạch cổ hơn, cứng hơn lại
lộ ra, tái lập lại địa hình như lúc mới hình thành xong (cuối trung sinh).
Hang Phượng Hoàng trên địa bàn Huyện Võ Nhai
c. Địa hình:
Thái Nguyên có nhiều dãy
núi cao chạy theo hướng bắc-
nam và thấp dần xuống phía
nam. Cấu trúc vùng núi phía
Bắc chủ yếu là đa phong hóa
mạnh, tạo thành nhiều hang
động và thung lũng nhỏ.
Phía bắc Thái Nguyên gồm rừng
núi và đồng lầy. Về phía đông
có những dãy núi cao nằm giữa
những ngọn núi đá vôi ở phố
Bình Gia. Về phía đông bắc, có
cao nguyên Vũ Phái được giới
Phía tây bắc Thái Nguyên có thung lũng Chợ Chu bao gồm nhiều cánh đồng và
những thung lũng nhỏ. Giữa Đồn Đủ và Cổ Lương là một cánh đồng giáp với cao
nguyên Trúc Thanh và Độ Tranh gồm nhiều đồi núi lan tới tận khu đồng lầy Phúc
Linh.
Phía tây nam có dãy Tam Đảo dọc theo cao nguyên Văn Lang và cánh đồng Đại

Từ. Tam Đảo có đỉnh cao nhất 1.591 m, các vách núi dựng đứng và kéo dài theo
hướng tây bắc-đông nam. Ngoài dãy núi trên còn có dãy Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc
Kạn chạy theo hướng đông bắc-tây nam đến Võ Nhaivà dãy núi Bắc Sơn cũng
chạy theo hướng tây bắc-đông nam. Cả ba dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc
Sơn đều là những dãy núi cao che chắn gió mùa đông bắc.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi nhưng địa hình lại không phức tạp
lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác, đây là một thuận lợi của Thái Nguyên
cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội nói chung so với các
tỉnh trung du miền núi khác.
d. Thủy văn:
Sông Cầu là con sông chính của tỉnh và gần như chia Thái Nguyên ra thành hai
nửa bằng nhau theo chiều bắc nam. Sông bắt đầu chảy vào Thái Nguyên từ xã Văn
Lăng, huyện Đồng Hỷ và đến địa bàn xã Nga My, huyện Phú Bình, sông trở thành
ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang và sau đó hoàn toàn ra
khỏi địa bàn tỉnh ở xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên. Ngoài ra Thái Nguyên còn có
một số sông suối khác nhưng hầu hết đều là phụ lưu của sông Cầu. Trong đó đáng
kể nhất là sông Đu, sông Nghinh Tường và sông Công. Các sông tại Thái Nguyên
không thuộc lưu vực sông Cầu là sông Rang và các chi lưu của nó tại huyện Võ
Nhai, sông này chảy sang huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn và thuộc lưu vực sông
Thương. Ngoài ra, một phần diện tích nhỏ của huyện Định Hóa thuộc thượng lưu
Tam Đảo là dãy núi tạo thành ranh giới giữa tỉnh
sông Đáy. Ô nhiễm nguồn nước là một vấn đề đáng quan tâm, nhất là tình trạng ô
nhiễm trên sông Cầu.
Ngoài đập sông Cầu, Thái Nguyên còn xây dựng một hệ thống kênh đào nhân
tạo dài 52 km ở phía đông nam của tỉnh với tên gọi là Sông Máng, nối liền sông
Cầu với sông Thương để giúp việc giao thông đường thủy và dẫn nước vào đồng
ruộng được dễ dàng.
Thái Nguyên không có nhiều hồ, và nổi bật trong đó là Hồ Núi Cốc, đây là hồ
nhân tạo được hình thành do việc chặn dòng sông Công. Hồ có độ sâu 35 m và
diện tích mặt hồ rộng 25 km², dung tích của hồ ước tính từ 160 triệu - 200 triệu m³.

Hồ được tạo ra nhằm các mục đích cung cấp nước, thoát lũ cho sông Cầu và du
lịch. Hiện hồ đã có một vài khu du lịch đang được quy hoạch để trở thành khu du
lịch trọng điểm quốc gia.
e. Cơ cấu đất đai:
Tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích là 356.282 ha. Cơ cấu đất đai gồm các loại
sau:
• Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200 m, hình
thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích.
Đất núi thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu
nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh doanh nhưng cũng thích hợp để
trồng cây ăn quả, một phần cây lương thực cho nhân dân vùng cao.
• Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên cát
kết, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất
xen giữa nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ,
Phú Lương ở từ độ cao 150 m đến 200 m có độ dốc từ 50 đến 200
phù hợp đối với cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là
cây chè (trà) (một đặc sản của Thái Nguyên)
• Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần
phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác
động lớn của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán ) khó
khăn cho việc canh tác.
• Trong tổng quỹ đất 356.282 ha, đất đã sử dụng là 246.513 ha (chiếm
69,22% diện tích đất tự nhiên) và đất chưa sử dụng là 109.669 ha
(chiếm 30,78% diện tích tự nhiên). Trong đất chưa sử dụng có 1.714
ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp và 41.250 ha đất có khả năng
sản xuất lâm nghiệp.
f. Khí hậu:
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhưng do địa hình nên khí hậu Thái
Nguyên vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
• Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai.

• Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía nam huyện Võ
Nhai.
• Vùng ấm gồm các huyện: Đại Từ, Thành phố Thái Nguyên, Đồng Hỷ, Phú
Bình, Phổ Yên và Thị xã Sông Công.
Nhiệt độ trung bình của Thái Nguyên là 25 °C; chênh lệch giữa tháng nóng nhất
(tháng 6: 28,9 °C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2 °C) là 13,7 °C. Tại thành phố
Thái Nguyên, nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng được ghi nhận lần lượt là 41,5°C
và 3°C.
[8]
Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân
phối tương đối đều cho các tháng trong năm. Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa
rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 đến 2.500 mm; cao nhất vào tháng
8 và thấp nhất vào tháng 1. Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho
phát triển ngành nông, lâm nghiệp.
1.1.1.2 Lịch sử phát triển:
Từ xa xưa, Thái Nguyên đã là nơi sinh sống của người Việt cổ. Trên địa
bàn hang Ốc thuộc xã Bình Long đã tìm được dấu tích của người tiền sử có niên
đại ít nhất cách đây từ 7000 đến 8000 năm với những vỏ ốc bị chặt đuôi, xương
động vật là những tàn tích thức ăn của người xưa. Từ những năm 1980, cũng tại
huyện Võ Nhai, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra dấu tích của người Việt cổ tại khu
vực Mái Đá Ngườm thuộc xã Thần Sa.
]
Hàng chục ngàn hiện vật từ các hang
Phiêng Tung, Mái đá Hạ Sơn I, Hạ Sơn II, hang Thắm Choong, Nà Ngùn và Mái
Đá Ranh…ở Thần Sa, với những công cụ cuội được ghè đẽo như: Mảnh tước, rìu
tay, công cụ chặt hình núm cuội, công cụ chặt rìa, công cụ chặt 2 lưỡi, công cụ
hình sừng bò Đặc biệt. các nhà khảo cổ đã tìm thấy 3 bộ xương người cổ được
mai táng ở Mái Đá Ngườm, xóm Kim Sơn. Mái Đá Ngườm là một di chỉ quan
trọng bậc nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa với 4 địa tầng văn hóa khảo cổ,

trong đó tầng thứ tư tiêu biểu cho trung kỳ Thời đại đá cũ.
Thái Nguyên xưa thuộc bộ Vũ Định, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Vào
thế kỷ thứ III, Thái Nguyên thuộc huyện Vũ Định, sau đổi tên thành huyện Long
Bình. Có những ý kiến cho rằng quê gốc của Lý Nam Đế là ở thôn Cổ Pháp, xã
Tiên Phong, huyện Phổ Yên, ông tu tại chùa Hương Ấp đến năm 13 tuổi thì theo
Phổ Tổ thiền sư về tu hành tại chùa Giang Xá thuộc Hoài Đức, Hà Nội. Đến thế kỷ
thứ VII được gọi là huyện Vũ Bình, rồi thành châu Thái Nguyên dưới đời nhà Lý.
Cuối thế kỷ 14, châu được đổi thành trấn, năm 1407 đổi lại thành châu, sang 1408
thì trở thành phủ, năm 1677 trở thành trấn. Mãi đến năm 1902, triều đình mới cử
quan chức trấn nhiệm Thái Nguyên, đặt doanh sở ở Ngọc Hà.
Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên đã trở thành phên giậu trực
tiếp che chở phía Bắc kinh thành. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Tống năm 1076-1077, phần đất phía Nam Thái Nguyên từng là địa đầu của phòng
tuyến sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan quân nhà Lý với Nhà
Tống. Đầu thế kỷ 15, nhà Minh đem quân sang Việt Nam, dân chúng Thái Nguyên
lại liên tiếp đứng lên khởi nghĩa. Tiêu biểu là Lưu Nhân Chú, người huyện Đại Từ,
ông cùng cha và anh rể đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.
Vào thời nhà Nguyễn, Thái Nguyên là nơi nổ ra nhiều phong trào khởi nghĩa nông
dân chống lại quan lại phong kiến. Người dân Thái Nguyên từng tham gia các cuộc
khởi nghĩa của Dương Đình Cúc, Nông Văn Vân.
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, đất Thái Nguyên là địa bàn hoạt động thường
xuyên, là hậu cứ của Hoàng Hoa Thám. Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do Trịnh
Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến đã nổ ra và đêm 30-8-1917, nghĩa quân đã chiếm
được tỉnh lị. Tuy nhiên sau đó thực dân Pháp đem viện binh từ Hà Nội lên tấn công
khiến nghĩa quân phải bỏ Thái Nguyên và rút về Vĩnh Yên rồi bị dập tắt sau đó.
Tỉnh Thái Nguyên được thành lập vào năm Minh Mệnh thứ 12 (ngày mùng 1 tháng
10 âm lịch, tức ngày 04-11-1831), tỉnh Thái Nguyên khi đó giáp với các tỉnh:
Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Sơn Tây.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều Ủy viên Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ thường xuyên qua lại hoạt động,

phát triển lực lượng ở Thái Nguyên. Năm 1947, Hồ Chí Minh đã tới Thái Nguyên
và lãnh đạo cuộc Kháng chiến chống Pháp từ căn cứ chính tại ATK Định Hóa.
Cũng tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã quyết định mở Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, chiến dịch Đông-Xuân
1953-1954 cũng như quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và hàng loạt
sự kiện quan trọng khác.
Từ năm 1956 đến 1975, Thái Nguyên là một tỉnh thuộc Khu tự trị Việt
Bắc và thành phố Thái Nguyên là thủ phủ của khu tự trị này. Trước đó, năm 1890,
chính quyền Pháp chia tỉnh Thái Nguyên thời nhà Nguyễn thành hai tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Kạn. Năm 1965, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sáp
nhập hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Tỉnh Bắc Tháicuối
cùng lại tách thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn như ngày nay vào năm 1997.
1.1.1.3 Đơn vị hành chính:
Tỉnh Thái Nguyên được chia thành 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện. Các đơn vị
hành chính này được chia tiếp thành 180 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có
125 xã vùng cao và miền núi, còn lại là các xã đồng bằng và trung du. Cũng như
các tỉnh và thành khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên do
người dân tỉnh bầu nên, là cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh. Hội đồng nhân dân
tỉnh Thái Nguyên hiện nay, nhiệm kỳ 2011–2016 gồm 70 đại biểu, chủ tịch là
ông Vũ Hồng Bắc. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên có trụ sở tại số 18 đường
Nha Trang, Chủ tịch là ông Dương Ngọc Long Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên đang
có kế hoạch xây dựng trung tâm hành chính mới ở phía tây thành phố Thái
Nguyên.Theo kế hoạch của chính quyền tỉnh Thái Nguyên, đến năm 2013, thị xã
Núi Cốc sẽ được thành lập trên cơ sở các xã Tân Thái, Vạn Thọ, Bình Thuận,
Quân Chu, Lục Ba, Cát Nê, Ký Phú và thị trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ; xã
Phúc Tân thuộc huyện Phổ Yên và ba xã Tân Cương, Phúc Xuân và Phúc Trìu ở
phía tây thành phố Thái Nguyên.
Tên Loại
đơn vị
Dân số

(2009)
Diện
tích
(km²)
Thị trấn (đậm) và xã (nhỏ)
Thái
Nguyên
Sông
Công
Thành
phố
277,67
1
(2009)
330.00
0
(2010)
189.7 Phường: Trưng Vương, Thịnh Đán,
Tân Long, Quan Triều, Quang Vinh,
Quang Trung, Hoàng Văn Thụ,
Đồng Quang, Phan Đình Phùng,
Túc Duyên, Tân Thịnh, Gia Sàng,
Tân Lập, Phú Xá, Cam Giá,Trung
Thành, Hương Sơn, Tân Thành,
Tích Lương. Xã:Phúc Hà, Phúc
Xuân, Phúc Trìu, Thịnh Đức,Tân
Cương, Quyết Thắng, Lương Sơn,
Cao Ngạn, Đồng Bẩm.
Thị xã 49.481
(2009)

83,64 Phường: Bách Quang, Cải Đan,
Lương Châu, Mỏ Chè, Phố Cò,
Thắng Lợi. Xã: Bá Xuyên, Bình
Sơn, Tân Quang, Vinh Sơn.
Đại Từ Huyện 159.66
7
578 Đại Từ, Quân Chu, An Khánh, Bản
Ngoại, Bình Thuận, Cát Nê, Cù
Vân, Đức Lương, Hà Thượng,
Hoàng Nông, Hùng Sơn, Khôi Kỳ,
Ký Phú, La Bằng, Lục Ba, Minh
Tiến, Mỹ Yên, Na Mao, Phú Cường,
Phú Lạc, Phú Thịnh, Phú Xuyên,
Phúc Lương, Phục Linh, Quân Chu,
Tân Linh, Tân Thái, Tiên Hội, Vạn
Thọ, Văn Yên, Yên Lãng.
Định
Hóa
Huyện 87.089 521 Chợ Chu, Bảo Cường, Bảo Linh,
Bình Thành, Bình Yên, Bộc Nhiêu,
Điềm Mặc, Định Biên, Đồng Thịnh,
Kim Phượng, Kim Sơn, Lam Vỹ,
Linh Thông, Phú Đình, Phú Tiến,
Phúc Chu, Phượng Tiến, Quy Kỳ,
Sơn Phú, Tân Dương, Tân Thịnh,
Thanh Định, Trung Hội, Trung
Lương.
Đồng
Hỷ
Huyện 107.76

9
461,7 Chùa Hang, Trại Cau, Sông Cầu,
Cây Thị, Hóa Thượng, Hóa Trung,
Hòa Bình, Hợp Tiến,Huống
Thượng, Khe Mo, Linh Sơn, Minh
Lập, Nam Hòa, Quang Sơn, Tân
Long, Tân Lợi, Văn Hán,Văn Lăng.
Phổ
Yên
Huyện 137.81
5
257 Ba Hàng, Bãi Bông, Bắc Sơn, Đắc
Sơn, Đông Cao, Đồng Tiến, Hồng
Tiến, Minh Đức, Nam Tiến, Phúc
Thuận, Phúc Tân, Tân Hương, Tân
Phú, Thành Công, Tiên Phong,
Thuận Thành, Trung Thành, Vạn
Phái.
Phú
Bình
Huyện 134.15
0
249 Hương Sơn, Bàn Đạt, Bảo Lý,
Dương Thành, Đào Xá, Điềm Thụy,
Đồng Liên, Hà Châu, Kha
Sơn,Lương Phú, Nga My, Nhã
Lộng, Tân Đức, Tân Hòa, Tân
Khánh, Tân Kim, Tân Thành, Thanh
Ninh,Thượng Đình, Úc Kỳ, Xuân
Phương

Phú
Lương
Huyện 105.23
3
369 Đu, Giang Tiên, Cổ Lũng, Động
Đạt, Hợp Thành, Ôn Lương, Phấn
Mễ, Phú Đô, Phủ Lý, Sơn Cẩm, Tức
Tranh, Vô Tranh, Yên Đổ, Yên Lạc,
Yên Ninh, Yên Trạch.

Nhai
Huyện 64.241 845 Đình Cả, Bình Long, Cúc Đường,
Dân Tiến, La Hiên, Lâu Thượng,
Liên Minh, Nghinh Tường, Phú
Thượng, Phương Giao, Sảng Mộc,
Thần Sa, Thượng Nung, Tràng Xá,
Vũ Chấn
1.1.1.4 Cơ cấu dân số:
a. Nhân khẩu:
Theo Niên giám thống kê 2010, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.131.300 người,
trong đó nam có 558.900 người chiếm 49,4% và nữ là 572.400 người chiếm
50,6%, tỉ sô giới tính nam/nữ là 97,6/100. Tổng dân số đô thị là 293.600 người
(25,95%) và tổng dân cư nông thôn là 837.700 người (74,05%). Số con trên mỗi
phụ nữ là 1,9 và tỉ lệ tăng dân số là 0,53% bằng một nửa số với tỉ lệ tăng của cả
nước là 1,05%.
Theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, quy mô hộ gia
đình tại tỉnh Thái Nguyên là 3,4 người/hộ. Tỉ số già hóa là 39,5% và tỉ số phụ
thuộc là 42,2%. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cư dân Thái Nguyên là 24
tuổi, trong đó nam là 25,7 tuổi và nữ là 22,3 tuổi, thấp hơn trung bình cả nước với
các số liệu tương ứng là 24,5 tuổi, 26,2 tuổi và 22,8 tuổi. Tỷ lệ xuất cư là 30,2%

còn tỷ lệ nhập cư là 39,6%. Tỉ lệ biết chữ đạt 96,5%, cao hơn mức trung bình cả
nước là 93,5%. Diện tích nhà ở bình quân của Thái Nguyên là 20,1m²/người, trong
đó nhà ở kiên cố đạt 61,7%, nhà ở bán kiên cố đạt 25,6%, nhà ở thiếu kiên cố đạt
4,5% và nhà ở đơn sơ đạt 8,2%. 93,7% nhà ở tại Thái Nguyên là nhà riêng.
Khoảng 35,4% số người xuất cư khỏi Thái Nguyên có điểm đến là Hà Nội và 8,5%
có điểm đến là Thành phố Hồ Chí Minh. Các địa phương có số người nhập cư
nhiều nhất đến Thái Nguyên lần lượt là Bắc Giang, Hà Nội, Bắc Kạn và Cao Bằng.
Cũng như toàn quốc, Thái Nguyên có một dân số trẻ với nhóm tuổi lao động từ
15 đến 60 là 779.261 người, chiếm 69,38% tổng dân số. Nhóm tuổi dưới 15 có
249.001 người, chiếm 22,17% tổng dân số còn nhóm người trên 60 tuổi có 94.854
người, tức chiếm 8,45%
Không như nhiều tỉnh trung du miền núi phía bắc khác, tỉnh Thái Nguyên có đa
số dân cư là người Kinh (73,1%), tỉ lệ người Kinh chiếm cao hơn tại tỉnh lị,thị xã
Sông Công và các huyện phía nam như Phổ Yên, Phú Bình cũng như tại các khu
vực ven quốc lộ, tỉnh lộ và thị trấn tại các huyện còn lại. Người Kinh ban đâu chỉ là
dân tộc bản địa cư trú tại các khu vực trung du ven sông Cầu ở khu vực phía nam
của tỉnh Thái Nguyên ngày nay. Vào thời nhà Trần, Lê, Nguyễn, nhiều làng xóm
của người Kinh hình thành tại các khu vực phía nam của tỉnh và dân cư chủ yếu là
các di dân đến từ các nơi thuộc đồng bắng Sông Hồng và Thanh Hóa ngày nay.
Bên cạnh đó, khi các quan triều đình được cử đến Thái Nguyên, họ thường đem
theo cả gia đình, dòng tộc tới định cư. Ngoài ra, nhiều người đến làm ăn và buôn
bán rồi sau đó ở lại Thái Nguyên lập nghiệp. Đặc biệt, trong thời kỳ thuộc Pháp,
rất nhiều người Kinh từ các tỉnh đồng bằng đã được chế độ thực dân đưa lên Thái
Nguyên để làm việc trong các đồn điền và hầm mỏ. Trong kháng chiến chống
Pháp, vì có vai trò là thủ đô kháng chiến nên số người Kinh đến Thái Nguyên ngày
càng tăng. Quá trình người Kinh nhập cư đến Thái Nguyên tiếp tục tăng nhanh vào
sau năm 1954, khi một số cơ sở công nghiệp lớn được hình thành và việc thực hiện
chương trình "kinh tế mới". Ngay từ năm 1960, người Kinh đã chiếm 74,56% dân
số tỉnh. Người Kinh ở Thái Nguyên nói chung vẫn giữ được nhiều phong tục
truyền thống của cha ông tại miền xuôi, mặc dù vậy nhiều yếu tố đã bị phai nhạt,

đặc biệt là ở khu vực các huyện phía bắc, họ chịu ảnh hưởng của các dân tộc thiểu
số bản địa.
[35]
Dân cư Thái Nguyên phân bố không đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa
thớt, trong khi đó ở thành thị và đồng bằng dân cư lại dày đặc. Mật độ dân số thấp
nhất là huyện Võ Nhai 72 người/km², cao nhất là thành phố Thái Nguyên với mật
độ 1.260 người/km ². Theo tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, trong 10 năm
(1999-2009) dân số tỉnh tăng bình quân 0,7%/năm, thấp hơn mức bình quân của cả
nước là 1,2% do có nhiều người di chuyển đi các tỉnh khác, trong đó ba
huyện Định Hóa, Đại Từ và Phú Bình có tăng trưởng dân số âm.
b. Thành phần dân tộc:
Trên địa bàn tỉnh hiện có 46 dân tộc trên tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam sinh
sống, trong đó 8 dân tộc đông dân nhất là:
Dân tộc Dân số
(người)
Tỉ lệ
so với
tổng
dân số
tỉnh
Dân số đô
thị
(người)
Tỉ lệ
so với
dân số
dân tộc
Dân số
nông
thôn

(người)
Tỉ lệ
so với dân
số
dân tộc
Kinh 821.08
3
73,1% 249.305 30,4% 571.778 69,6%
Tày 123.19
7
11% 21.319 17,3% 101.878 82,7%
Nùng 63.816 5,7% 7.716 12,1% 56.100 87,9%
Sán Dìu 44.134 3,9% 3.941 8,9% 40.193 91,1%
Sán 32.483 2,9% 1.101 3,4% 31.382 96,6%
Chay
Dao 25.360 2,3% 1.186 4,7% 24.174 95,3%
H’Môn
g
7.230 0,6% 237 0,03% 6.993 99,97%
Hoa 2.064 0,18% 712 34,5% 1.352 65,5%
c. Các dân tộc thiểu số:
Năm 1999 dân tộc Tày có 106.238 người, đứng hàng thứ hai trong các dân tộc
của tỉnh (chiếm 10,15%). Họ có mặt ở tất cả các huyện thị xã, thành phố trong tỉnh,
tập trung đông nhất là ở huyện Định Hoá (41,1%), tiếp đến là các huyện: Phú
Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%), Võ Nhai (12,5%).
Trong quá trình phát triển tộc người, người Nùng ở Việt Nam nói chung và
Thái Nguyên nói riêng có hiện tượng là nhiều nhóm Nùng đến sớm đã bị Tày hoá,
còn những nhóm Nùng hiện nay mà ta biết thì tới Việt Nam chỉ khoảng vài trăm
năm nay.
Những người Hoa đầu tiên đã có mặt ở Thái Nguyên khoảng trên dưới 150

năm. Họ là lưu dân có nguồn gốc từ các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (Trung
Quốc). Tổ tiên của một bộ phận trong số họ vốn là những nông dân nghèo đói phải
phiêu bạt mưu sinh, một số ít khác có thể là hậu duệ những chiến binh của phong
trào Thái Bình Thiên Quốc chống lại nhà Thanh, bị đàn áp nên trốn sang Việt
Nam. Khoảng những năm 60-70 của thế kỷ trước, một bộ phận người Hoa cũng
chuyển từ Hà Cối (Quảng Ninh) về Thái Nguyên lập nghiệp.
Theo Tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, người Ngái ở Thái Nguyên chỉ có
422 nhân khẩu, sinh sống phân tán ở các huyện Đại Từ (110 người, nam: 60, nữ:
50), thành phố Thái Nguyên (86 nhân khẩu, nam: 42, nữ: 44), Phổ Yên (31 nhân
khẩu, nam: 21, nữ: 10). Người Ngái còn phân bố ở các huyện Phú Lương và Đồng
Hỷ. Dân tộc Ngái không có các thôn bản riêng, họ sống xen kẽ với người Kinh,
Tày, Hoa và Sán Dìu.
Người Sán Dìu tự gọi mình là Sán Dìu (Sán Dao/Sán Dìu, chữ Hán: 山由, Sơn
Do). Các cộng đồng láng giềng gọi họ bằng nhiều tên khác nhau: Trại Đất, Trại
ruộng, Mán Quần Cộc, Mán Váy Xẻ, Sán Nhiều, Slán Dao. Các nhà ngôn ngữ học
xếp dân tộc Sán Dìu vào nhóm ngôn ngữ Hán, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
Người Dao ở Thái Nguyên thuộc 3 nhóm địa phương: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt
và Dao Lô Gang. Dao Quần Chẹt tập trung chủ yếu ở huyện Đại Từ, Dao Đỏ cư trú
phân tán ở huyện Phú lương và Đồng Hỷ, Dao Lô Gang tập trung ở huyệnVõ Nhai.
Ngoài ra, người Dao còn cư trú rải rác ở Định Hoá, Phổ Yên Tuy thuộc 3 nhóm
khác nhau nhưng đều tự gọi là Dao Đại Bản (Tầm Mả Miền), cùng nói phương ngữ
Kiềm Miền
Theo số liệu của Ban chỉ đạo cuộc Tổng điều tra dân số Việt Nam năm 1979 thì
vào năm này tỉnh Bắc Thái nói chung, Thái Nguyên nói riêng mới có số liệu về
người H'Mông. Năm 1979, toàn tỉnh Bắc Thái có 650 người Hmông thì tại Thái
Nguyên ngày nay có 644 người, trong đó gần 80% tập trung ở huyện Võ Nhai. Sau
đó 10 năm (1989) dân số H'Mông ở Thái Nguyên đã lên tới 2.264 người, huyện có
đông người H'Mông nhất là Đồng Hỷ tăng từ 54 người lên 1.022 người (tăng tuyệt
đối 968 người), huyện Võ Nhai mặc dù đã tăng từ 513 người lên 923 người (tăng
tuyệt đối 410 người) nhưng lại xuống vị trí thứ hai. Đến năm 1999, dân số Hmông

trong toàn tỉnh đã lên tới 4.831 người, tăng hơn gấp đôi trong 10 năm.
[37]
Người Sán Chay bao gồm hai nhóm là Cao Lan và Sán Chí, đều là những cộng
đồng mới di cư sang Việt Nam cách đây một vài trăm năm. Trong Đại Nam nhất
thống chí, ở mục Phong tục tỉnh Thái Nguyên khi đề cập tới người Cao Lan có ghi:
Mán Cao Lan cứ ba năm một lần thay đổi chỗ ở, không ở chỗ nào nhất định.
d. Tôn giáo:
Cũng giống như phần lớn các tỉnh khác tại Miền Bắc Việt Nam, Thái Nguyên
có đại đa số cư dân "không tôn giáo". Theo thống kê năm 2009, số người theo có
tôn giáo tại tỉnh Thái Nguyên là 32.923 người, tức chiếm 2,93% tổng dân số của
tỉnh. Hiện nay, Thái Nguyên có khoảng 100 chùa, gần 50 đền và khoảng 100 đình.
Ðạo Tin Lành ở Thái Nguyên có từ năm 1963 và từ năm 1990 trở lại đây, tôn giáo
này tiếp tục phát triển, tập trung chủ yếu vào người Mông, Dao. Thái Nguyên có 4
xứ đạo Công giáo hoạt động là: Thái Nguyên, Tân Cương, Nhã Lộng (Phú Bình)
và Yên Huy (Ðại Từ), tất cả các hoạt động Công giáo ở Thái Nguyên đều do Toà
giám mục Giáo phận Bắc Ninh chỉ đạo.
Tôn giáo Tín đồ
người
Tỉ lệ so với dân
số
Công giáo 25.430 2,264%
Tin Lành 4.453 0,397%
Phật giáo 3.015 0,268%
Hồi giáo 10 /
Minh Lý
đạo
7 /
Minh Sư
đạo
6 /

Phật giáo
Hòa Hảo
1 /
Baha'i 1 /
1.1.2 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội:
1.1.2.1 Tiềm năng phát triển:
a. Tiềm năng về nông lâm nghiệp:
Được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu và đất đai, Thái Nguyên có nhiều khả năng
phát triển nông lâm nghiệp. Chè Thái Nguyên, đặc biệt là chè Tân Cương là sản
phẩm nổi tiếng trong cả nước Việt Nam đã từ lâu. Toàn tỉnh hiện có trên 15.000 ha
chè, đứng thứ 2 trong cả nước, với hơn 30 cơ sở chế biến chè lớn nhỏ rải đều trên
khắp địa bàn tỉnh. Sản phẩm chè Thái Nguyên đang thực hiện dự án vốn vay ADB
để tạo vùng chè đặc sản năng suất và chất lượng cao. Thái Nguyên khuyến khích
các dự án đầu tư chế biến sản phẩm chè cao cấp tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Diện tích rừng tự nhiên của tỉnh là 73.383 ha và rừng trồng hơn 40.000 ha, hiện
nay đã đến tuổi khai thác, không những đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho nhà máy
ván dăm Lưu Xá đang bắt đầu đi vào ổn định sản xuất mà còn đang là tiềm năng
rất lớn cho việc chế biến lâm sản tạo hàng hoá có giá trị cao.
Hiện nay Thái Nguyên có 15.500 ha cây ăn quả các loại, trong đó có hơn 8.000
ha đã cho thu hoạch. Thái Nguyên khuyến khích các dự án đầu tư chế biến sản
phẩm từ hoa quả, giải quyết tiêu thụ sản phẩm của các hộ nông dân.
Diện tích đất đồi còn rất lớn, đó là tiềm năng để phát triển hàng hoá về cây công
nghiệp, cây ăn quả và phát triển đàn gia súc. Thái Nguyên đã có Nhà máy chế biến
sữa tại huyện Phổ Yên đang thúc đẩy thực hiện nhanh chương trình phát triển chăn
nuôi bò sữa để cung cấp đủ nguyên liệu cho nhà máy này. Thái Nguyên đặc biệt
khuyến khích các dự án đầu tư lớn về chăn nuôi bò, lợn hướng nạc
b. Tiềm năng về tài nguyên khoáng sản
Thái Nguyên có nhiều loại khoáng sản
Nhìn chung tài nguyên khoáng sản của tỉnh Thái Nguyên rất phong phú về
chủng loại, đó là một lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các ngành công

nghiệp luyện kim, khai khoáng… Tỉnh Thái Nguyên khuyến khích các dự án đầu
tư chế biến sâu khoáng sản.
Tỉnh Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai trong cả nước. Than mỡ trữ
lượng trên 15 triệu tấn và than đá trữ lượng khoảng 90 triệu tấn. Chính vì vậy nhà
máy nhiệt điện Cao Ngạn đang được xây dựng tại thành phố Thái Nguyên.
Quặng sắt đang được khai thác cho việc luyện thép của Công ty Gang thép Thái
Nguyên. Ti tan có trữ lượng thăm dò khoảng 18 triệu tấn.
Kim loại màu có thiếc, chì, kẽm,vonfram, vàng, đồng, niken, thuỷ ngân… Hiện
nay, thiếc đã được khai thác và xuất khẩu. Mỏ Vonfram tại huyện Đại Từ đã được
công ty nước ngoài khảo sát thăm dò, là mỏ lớn có trữ lượng lớn tầm cỡ thế giới và
hiện nay Chính phủ đã cấp Giấy phép đầu tư cho dự án khai thác và chế biến
khoáng sản núi pháo với vốn đầu tư 147 triệu USD.
Khoáng sản vật liệu xây dựng là tiềm năng nguyên liệu rất lớn để sản xuất xi
măng, sản xuất đá ốp lát các loại và sản xuất vật liệu xây dựng.
c. Tiềm năng về du lịch:
Thái Nguyên có các điểm du lịch chính như sau:
• Khu du lịch Hồ Núi Cốc đã được đầu tư tương đối nhiều. Hiện nay,
tỉnh đang tập trung đầu tư xây dựng đường ven hồ. Tỉnh Thái Nguyên
khuyến khích các dự án đầu tư mở rộng khu du lịch.
• Khu du lịch Hang Phượng Hoàng, Suối Mỏ Gà tại huyện Võ Nhai
cách thành phố Thái Nguyên 45 km. Nơi đây đang cần vốn đầu tư
công trình cáp treo, nhà nghỉ tiện nghi cao cấp và các công trình vui
chơi giải trí.
• Khu di tích lịch sử ATK huyện Định Hoá đã được đầu tư. Hiện nay
tỉnh đang tiếp tục đầu tư để tái tạo được quang cảnh thiên nhiên như
lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc tại đó. Tỉnh Thái
Nguyên khuyến khích các dự án đầu tư khu du lịch sinh thái tại thác
Khuôn Tát.
• Khu Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam (tại thành phố Thái
Nguyên) và các công trình kiến trúc nghệ thuật đền chùa như Đền

Đuổm (Phú Lương), chùa Hang ( Đồng Hỷ), chùa Phủ Liễn, đền
Xương Rồng, đền Đội Cấn (thành phố Thái Nguyên).
Thái Nguyên có thể hình thành các tuyến du lịch nối các điểm tham quan, du
lịch trong tỉnh với các điểm du lịch của các tỉnh lân cận, như đến cây đa Tân Trào
(Tuyên Quang); Hồ Ba Bể (Bắc Kạn); Pắc Bó (Cao Bằng); Động Tam Thanh, Nhị
Thanh và núi Mẫu Sơn (Lạng Sơn); Tam Đảo - Hồ Đại Lải (Vĩnh Phúc); Đền
Hùng (Phú Thọ); Côn Sơn, Yên Tử, Đền Kiếp Bạc (Hải Dương).
Thái Nguyên có tiềm năng du lịch lớn nhưng chưa phát triển mạnh. Thái
Nguyên đang cần thu hút nguồn vốn đầu tư lớn vào lĩnh vực này, trong đó có cả hệ
thống khách sạn chất lượng dịch vụ cao.
d. Tiềm năng về nguồn nhân lực:
-Thái Nguyên hiện có 5 trường Đại học thuộc Đại học Thái Nguyên là Đại học
Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Y, Đại học Sư phạm, Đại học Kinh tế và Đại học
Nông Lâm. Ngoài ra còn có 16 trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề đáp ứng yêu cầu về cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề không
chỉ riêng cho tỉnh mà còn cung cấp cho cả các tỉnh khác.
Dân số trong độ tuổi lao động khoảng 550.000 thanh niên bước vào tuổi lao
động. Đây là một lợi thế lớn cho tỉnh trong việc đảm bảo nguồn lao động cho việc
phát triển nền kinh tế của tỉnh.
1.1.2.2 Thành tựu:
a. Thành tựu kinh tế - xã hội năm 2007:
năm 2007, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh có nhiều thuận lợi: trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, một số ngành kinh tế trọng điểm đều có sự tăng về năng
lực sản xuất; các thành phần kinh tế đều có sự tăng trưởng, nhất là kinh tế ngoài
quốc doanh đã khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần …
song cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: thiên tai, dịch bệnh
gia súc; giá cả đầu vào ở hầu hết các ngành sản xuất đều tăng làm cho chi phí sản
xuất tăng cao đã đẩy giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng không nhỏ tới sức
cạnh tranh; kết cấu cơ sở hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn miền
núi tuy đã được cải thiện nhưng vẫn thiếu và xuống cấp; môi trường đầu tư tuy đã

được cải thiện nhưng còn thiếu đồng bộ; công tác đền bù giải phóng mặt bằng vẫn
còn nhiều khó khăn. Về lĩnh vực xã hội còn nhiều bức xúc, nhất là tệ nạn ma tuý,
tai nạn giao thông tuy có nhiều biện pháp nhằm kiềm chế nhưng vẫn chưa có xu
hướng giảm… Song với sự chỉ đạo quyết tâm và nỗ lực cố gắng của các cấp, các
ngành và nhân dân toàn tỉnh nên tình hình kinh tế xã hội của tỉnh năm 2007 đã thu
được những kết quả đáng kể, kinh tế tiếp tục phát triển theo chiều hướng tích cực,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Hầu hết
các mục tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của năm 2007 đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Cụ thể:
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn ước đạt 12,46%, vượt
mục tiêu kế hoạch đề ra và là năm có tốc độ tăng trưởng cao nhất từ
trước đến nay.
• Sản lượng lương thực có hạt ước đạt 400 nghìn tấn, đạt 100% kế
hoạch, tăng 5,16% so với năm 2006.
• Diện tích chè trồng mới và phục hồi được 765 ha, đạt 127,5% kế
hoạch.
• Diện tích trồng rừng tập trung toàn tỉnh đạt 4.088 ha, đạt 104,3% kế
hoạch. Trong đó, riêng địa phương trồng đạt 3.556 ha, bằng 104,6%
kế hoạch.
• Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) trên địa bàn ước
đạt 7.222 tỷ đồng, đạt 102,4% kế hoạch, tăng 23,7% so với năm 2006.
• Giá trị xuất khẩu trên địa bàn ước đạt 63,81 triệu USD, đạt 132,9% kế
hoạch, tăng 20,3 % so với năm 2006. Trong đó, xuất khẩu địa phương
ước đạt 44,58 triệu USD, đạt 141,1% kế hoạch, tăng 52,3 % so với
năm 2006.
• Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 831,9 tỷ đồng, đạt 108,6% kế
hoạch đầu năm. Trong đó, thu trong cân đối ước đạt 715,4 tỷ đồng,
đạt 109,8% kế hoạch, tăng 9,4% so với năm 2006.
• Tạo việc làm mới cho 15.000 lao động, đạt 100% kế hoạch.
• Tỷ lệ sinh thô trên địa bàn ước đạt 14,89%0, giảm 0,21%0 so với năm

2006, đạt mục tiêu kế hoạch.
• Dự ước tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh năm 2007 là 20,69%, giảm 3,05% so
với năm 2006, vượt so với kế hoạch năm 2007 là 0,55%.
b. Thành tựu kinh tế - xã hội năm 2008:
Bước vào triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh năm
2008, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn, tình hình kinh tế thế giới biến động phức
tạp, sự suy thoái của nền kinh tế trên phạm vi toàn cầu; đồng thời trên địa bàn tỉnh
lại gặp khó khăn như: về thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài làm cho đàn gia súc, gia
cầm, và nhiều diện tích mạ, lúa mới cấy ở nhiều địa phương chết hàng loạt; tình
hình dịch bệnh trên gia súc gia cầm, kể cả trên người đã xảy ra ở một số địa
phương; lạm phát, giá cả hàng hoá tăng cao… đã làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất
và đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Song được sự chỉ đạo, giúp đỡ hiệu quả của Chính phủ và các Bộ, ngành Trung
ương, các cấp chính quyền đã chủ động theo sát tình hình, phân tích các diễn biến,
tiếp thu các ý kiến chỉ đạo, đóng góp, đề cao trách nhiệm, quyết liệt chỉ đạo điều
hành thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra và với nhiều nỗ lực cố gắng, đoàn
kết vượt qua mọi khó khăn của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân các dân
tộc trong tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội và duy trì được
nhịp độ phát triển.
Kinh tế tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện và nâng cao. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng
sản phẩm trong tỉnh (theo giá thực tế) ước đạt 13.421,78 tỷ đồng. Trong đó, khu vực
công nghiệp, xây dựng chiếm 39,78%; khu vực dịch vụ chiếm 36,24%; khu vực
nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 23,98%. GDP bình quân đầu người ước đạt 11,7
triệu đồng/người/năm, tăng 2,9 triệu đồng/người so với năm 2007. Kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội được tăng cường; văn hoá, xã hội đạt được nhiều tiến bộ; an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững.Cơ bản các chỉ tiêu kinh tế -
xã hội chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra:
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn đạt 11,47%.
• GDP bình quân đầu người năm 2008 đạt 11,7 triệu đồng, vượt kế

hoạch và tăng 2,9 triệu đồng/người so với năm 2007.
• Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.231 tỷ đồng, đạt 144% so với
dự toán đầu năm.
• Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) trên địa bàn đạt
8.600 tỷ đồng, tăng 17,2% so với năm 2007.
• Giá trị xuất khẩu trên địa bàn đạt 113 triệu USD, đạt 166,3% kế hoạch.
Trong đó, xuất khẩu địa phương đạt 72,11 triệu USD, đạt 150,2% kế
hoạch, tăng 60,7% so với cùng kỳ.
• Sản lượng lương thực có hạt ước đạt 417,23 nghìn tấn, đạt 104,31%
kế hoạch, tăng 4,5% so với năm 2007.
• Diện tích trồng rừng tập trung toàn tỉnh được 6.068 ha; trong đó, riêng
địa phương trồng tập trung đạt 5.630 ha, đạt 156,4% kế hoạch.
• Diện tích chè trồng mới và phục hồi được 753 ha, đạt 125,5% kế
hoạch.
• Tỷ lệ che phủ rừng tính đến hết năm 2008 là 48%, đạt mục tiêu kế hoạch.
• Tỷ lệ sử dụng nước sạch ở nông thôn là 78%, đạt mục tiêu kế hoạch.
• Tỷ lệ sinh thô trên địa bàn ước đạt 14,72%o, giảm 0,2%o so với năm 2007.
• Tạo việc làm mới cho 16.250 lao động, đạt 101,6% kế hoạch, trong đó
xuất khẩu được 2.275 lao động.
• Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh năm 2008 còn 17,74%, giảm 2,95% so với
năm 2007.
• Giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống còn 20,6%, đạt
mục tiêu kế hoạch.
c. Thành tựu kinh tế - xã hội năm 2009:
Kinh tế Thái Nguyên với đặc điểm là không có độ mở cao, phụ thuộc không
nhiều vào xuất khẩu và tỷ trọng sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thấp hơn so với bình quân chung cả nước nên kinh tế trên địa bàn tỉnh bị ảnh
hưởng nhẹ hơn bình quân cả nước. Mặt khác, với sự năng động của các cấp chính
quyền đã chủ động theo sát tình hình, phân tích các diễn biến, tiếp thu các ý kiến
chỉ đạo, đóng góp, đề cao trách nhiệm, quyết liệt chỉ đạo điều hành thực hiện các

mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra và với nhiều nỗ lực cố gắng, đoàn kết phấn đấu của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã tổ chức thực
hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội và duy trì được nhịp độ phát triển.
Kinh tế tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện và nâng cao. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng sản
phẩm trong tỉnh (theo giá thực tế) ước đạt 16.488,85 tỷ đồng. Trong đó, khu vực công
nghiệp, xây dựng chiếm 40,42%; khu vực dịch vụ chiếm 36,74%; khu vực nông lâm
nghiệp và thuỷ sản chiếm 22,85%. GDP bình quân đầu người ước đạt 14,6 triệu
đồng/người/năm, tăng 2,5 triệu đồng/người so với năm 2008. Kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội được tăng cường; văn hoá, xã hội đạt được nhiều tiến bộ; an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Cơ bản các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ
yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra:
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn ước đạt 9%, bằng
100% kế hoạch điều chỉnh.
• GDP bình quân đầu người năm 2009 ước đạt 14,6 triệu đồng, vượt kế
hoạch và tăng 2,5 triệu đồng/người so với năm 2008.
• Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 1.317 tỷ đồng, đạt 115% so
với dự toán, tăng 18,8% so với năm trước.
• Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định 1994) trên địa bàn ước đạt
9.950 tỷ đồng, bằng 102,6% kế hoạch điều chỉnh, tăng 13,7% so với
năm trước.
• Giá trị xuất khẩu trên địa bàn ước đạt 70 triệu USD, đạt 100% kế
hoạch; trong đó, xuất khẩu địa phương ước đạt 58,63 triệu USD, đạt
117,2% kế hoạch.
• Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng 4,02% so với năm 2008,
đạt mục tiêu kế hoạch.
 Tổng sản lượng lương thực có hạt, đạt trên 408 nghìn tấn, đạt mục tiêu
kế hoạch.
 Giá trị sản xuất trên 1ha diện tích đất nông nghiệp trồng trọt đạt
47 triệu đồng, đạt mục tiêu kế hoạch.

 Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đạt 625 tỷ đồng, tăng 12,7% so
với năm 2008 và vượt mục tiêu kế hoạch tăng 8%.
 Diện tích trồng rừng mới trên địa bàn: 6.000 ha; trong đó, địa
phương trồng rừng tập trung (theo dự án 661) là: 5.044 ha, đạt
112% kế hoạch.
 Diện tích trồng chè mới, cải tạo và phục hồi: 608 ha, đạt 101,3% kế
hoạch.
 Nâng tỷ lệ độ che phủ rừng lên: 48,6%, thấp hơn 0,4% so với kế
hoạch.
 Cung cấp nước hợp vệ sinh cho dân số nông thôn đạt: 84% đạt
mục tiêu kế hoạch.
• Nhóm các chỉ tiêu xã hội:
 Mức giảm tỷ suất sinh thô trong năm: 0,2%o, đạt mục tiêu kế
hoạch.
 Tạo việc làm mới cho 16.000 lao động, trong đó xuất khẩu 1.500
lao động, đạt mục tiêu kế hoạch.
 Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 19,3%, đạt mục tiêu kế hoạch là
giảm xuống dưới 20%.
 Giảm tỷ lệ hộ nghèo trong năm: 2,75% vượt mục tiêu kế hoạch
(toàn tỉnh còn 15%).
 8. Đảm bảo an ninh trật tự xã hội và công tác quân sự địa phương
và hoàn thành 100% các chỉ tiêu đề ra.
d. Thành tựu kinh tế - xã hội năm 2010:
Trong năm 2010, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực
phấn đấu của các cấp, các ngành và nhân dân toàn tỉnh, kinh tế tiếp tục phát triển,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Cơ cấu
kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong số 18 chỉ tiêu kế hoạch
kinh tế - xã hội chủ yếu của năm 2010, có 17 chỉ tiêu hoàn thành và vượt kế hoạch,
chỉ có 1 chỉ tiêu không hoàn thành kế hoạch.
Tổng sản phẩm trong tỉnh ( theo giá thực tế) ước đạt 19.816,2 tỷ đồng; trong đó

khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 41,54%; khu vực dịch vụ chiếm 36,73%;
khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 21,73%. GDP bình quân đầu người
tăng 3 triệu đồng/người so với năm 2009. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được
tăng cường; văn hóa, xã hội đạt được nhiều tiến bộ; an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Cơ bản các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đều
đạt và vượt kế hoạch đề ra:
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế ( GDP) trên địa bàn năm 2010 ước đạt
11%, đạt kế hoạch.
• GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 17,5 triệu đồng, vượt kế
hoạch và tăng 3 triệu đồng/người so với năm 2009.
• Giá trị sản xuất công nghiệp ( theo giá so sánh ) trên địa bàn ước đạt
12.200 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch cả năm và tăng 18,3% so với
năm 2009. Trong đó công nghiệp Nhà nước Trung ương đạt 6.823 tỷ
đồng, bằng 94% kế hoạch; công nghiệp địa phương đạt 4.662 tỷ đồng,
bằng 110% kế hoạch và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt
715 tỷ đồng, bằng 102% kế hoạch.
• Giá trị xuất khẩu trên địa bàn ước đạt 92 triệu USD, bằng 113,3% kế
hoạch, tăng 32,9%. Trong đó, xuất khẩu địa phương đạt 72,2 triệu
USD, tăng 35,4% so với năm 2009.
• Tổng thu ngân sách nhà nước ước đạt 2.200,8 tỷ đồng, bằng 143,4%
dự toán cả năm và tăng 51,8% so với năm 2009. Trong đó, thu nội địa
ước đạt 1.850,8 tỷ đồng; bằng 133,63% dự toán và tăng 27,7% so với
năm 2009.
• Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản (theo giá so sánh) ước
đạt 2.452 tỷ đồng, tăng 5,7% so với năm 2009 ( chưa đạt mục tiêu kế
hoạch là tăng 6,5%).
• Giá trị sản phẩm trên 1ha đất nông nghiệp trồng trọt ( theo giá thực tế)
ước đạt 54 triệu đồng, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra, tăng 7 triệu đồng
so với năm 2009, tương ứng với tăng 15,3%.
• Sản lượng lương thực có hạt ước đạt 419 nghìn tấn, bằng 104,8% kế

hoạch, tăng 2,9% ( tương đương 11,8 nghìn tấn) so với năm 2009.
• Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi năm ước đạt 694 tỷ đồng, tăng
10,8% so với năm 2009, bằng chỉ tiêu kế hoạch.
• Diện tích trồng rừng tập trung toàn tỉnh ( từ tất cả các nguồn vốn) ước
đạt 6.914 ha, bằng 109,4% kế hoạch, tăng 3,4% so với năm 2009.
Trong đó, riêng địa phương trồng theo dự án 661 là 6.377 ha, bằng
106,3 kế hoạch.
• Diện tích chè trồng mới và trồng lại được 727 ha, bằng 121,2% kế
hoạch, tăng 1% ( tương đương 7 ha) so với trồng mới năm 2009.
• Tỷ lệ che phủ rừng tính đến năm 2010 ước đạt 50%, bằng kế hoạch.
• Tỷ lệ số hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh ở nông thôn là 90%,
đạt mục tiêu kế hoạch.
• Tỷ suất sinh thô trên địa bàn năm 2010 ước đạt 16,7%0, giảm
0,1%0 so với năm 2009, hoàn thành mục tiêu kế hoạch.
• Số lao động được tạo việc làm mới ước đạt 16.000 lao động; trong đó
xuất khẩu đạt 2.000 lao động, bằng 100% kế hoạch.
• Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh năm 2010 là 10,8% giảm 3,19% so với năm
2009, vượt mục tiêu kế hoạch ( kế hoạch là giảm 2,5%).
• Giảm tỷ lệ trẻ em ( dưới 5 tuổi ) suy dinh dưỡng xuống còn 18,4%,
bằng kế hoạch.
• Đảm bảo an ninh trật tự xã hội và công tác quân sự địa phương, hoàn
thành 100% các chỉ tiêu đề ra.
e. Thành tựu kinh tế - xã hội năm 2011
Bước vào năm 2011, khó khăn và thách thức đều lớn hơn so với dự báo. Giá
lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, lạm phát cao và mặt bằng lãi suất tăng cao,
sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế chậm lại Trên địa
bàn tỉnh, tình trạng tồn kho sản phẩm công nghiệp, đặc biệt là sản phẩm thép, xi
măng tương đối lớn; dịch bệnh trên đàn gia súc kéo dài; giá tiêu dùng liên tục tăng
và ở mức cao dẫn đến sức mua của dân cư giảm; tiến độ triển khai các dự án lớn
trên địa bàn tỉnh chậm, kéo dài đã ảnh hưởng đến tốc độ phát triển chung về kinh

tế - xã hội của tỉnh.
Trước tình hình đó, UBND tỉnh tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải
pháp chủ yếu điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; kịp thời thực
hiện hiệu quả các giải pháp của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội; tập trung có trọng tâm, trọng điểm và bám sát chủ đề
của năm; đẩy mạnh công tác quy hoạch, cải cách hành chính và thu hút đầu tư,
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội; tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể và vai trò cá nhân lãnh đạo;
duy trì chế độ họp UBND tỉnh theo đúng quy chế làm việc để chỉ đạo, quyết định
các vấn đề thuộc thẩm quyền, đảm bảo chế độ báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh
ủy, HĐND tỉnh, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương theo đúng quy định và
thẩm quyền.
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, các Ủy viên UBND tỉnh thực hiện tốt nhiệm vụ
được phân công phụ trách về ngành, lĩnh vực và tình hình thực hiện nhiệm vụ của
các huyện, thành phố, thị xã. Duy trì chế độ họp giao ban hàng tuần giữa Chủ tịch,
các Phó Chủ tịch UBND tỉnh và Văn phòng UBND tỉnh, một số Sở, ngành liên
quan để bàn, thống nhất các nội dung chỉ đạo, điều hành và giải quyết các vấn đề
phát sinh vướng mắc. Hoạt động chỉ đạo điều hành của UBND cũng như chính
quyền các cấp được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các chương
trình, đề án, dự án, công trình trọng điểm; đồng thời thường xuyên kiểm tra, nắm
bắt tình hình cơ sở, phát hiện và xử lý kịp thời những vướng mắc, giúp các đơn vị,
địa phương thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Với các giải pháp chỉ đạo, điều hành tích cực, thực hiệnkịp thời và hiệu
quả các chỉ đạo của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, UBND tỉnh đã tổ chức
nhiều cuộc làm việc, báo cáo trực tiếp với Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và
các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước để tăng cường các giải pháp chỉ đạo, điều
hành và huy động các nguồn lực nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng; đã chỉ đạo các ngành chuyên môn xây dựng và
trình HĐND tỉnh ban hành nhiều nghị quyết tại các kỳ họp trong năm, thống nhất
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc

phòng của địa phương.
Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2011
Các chỉ tiêu chủ yếu:
Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực phấn đấu của các
cấp, các ngành và nhân dân toàn tỉnh, kinh tế tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện và nâng cao. Tổng sản phẩm trong
tỉnh - GDP theo giá so sánh đạt 6.958 tỷ đồng (theo giá thực tế là 25.418 tỷ
đồng); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 21,28%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm

×