Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.44 KB, 47 trang )

Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
MỤC LỤC
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
Lời mở đầu
Thời đại chúng ta được phát triển bằng sự liên kết chặt chẽ giữa đầu tư phát
triển công nghệ với sức mạnh công nghiệp của mỗi quốc gia. Tuy vậy, những nền
kinh tế hiện đại phải luôn nghiên cứu, tìm nguồn thu nhập thực sự để chuyển các
phát minh trí tuệ thành những đổi mới mang lại nhiều lợi nhuận.
Do đổi mới là phát minh kỹ thuật đã trở thành sản phẩm kinh tế và kiến thức
cơ bản cùng khoa học ứng dụng ít có khả năng phân ly nên kỹ thuật ngày càng gắn
bó với công nghệ hơn.
Từ mục đích kích thích cạnh tranh công nghiệp, mục tiêu đổi mới công nghệ
đã được mô tả ở nhiều khía cạnh cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Các chương trình
nghiên cứu phát triển công nghệ đã gắn liền với hiệu quả phát triển.Chuyển giao
công nghệ và khai thác kết quả nghiên cứu. Việc phổ biến kết quả nghiên cứu
hướng về doanh nghiệp là một trong những lợi thế ưu tiên. Vấn đề được chỉ ra là
phần lớn các dự án hỗ trợ đã được hình thành từ những kết quả nghiên cứu mang
tính chất áp dụng thương mại.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, sự trao đổi, chuyển giao
công nghệ giữa các quốc gia ngày càng có chiều hướng gia tăng và trở thành
một trong những nội dung quan trọng trong mối bang giao quốc tế hiện nay.
Vì vậy, nhiều nước trên thế giới đang thực sự quan tâm phát triển thị trường
khoa học và công nghệ bên cạnh thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị
trường tài chính... để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, tiếp nhận và đổi
mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong báo cáo này mục đích tìm hiểu những kiến thức, những khái niệm cơ
bản về “Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế”. Được sự
hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo Hoàng Trọng Thanh em đã nhanh
chóng nắm bắt được những vấn đề cơ bản và tầm quan trọng của Văn hóa trong
quản trị sản xuất kinh doanh. Do nội dung kiến thức của đề tài tương đối rộng, điều
kiện thời gian cũng như kiến thức có hạn, điều kiện nghiên cứu chủ yếu dựa trên lý


thuyết và tài liệu tham khảo nên chắc chắn đề tài không thể tránh khỏi những thiếu
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
xót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo để đề tài được chính
xác, đầy đủ và phong phú hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh Tế & Quản Trị
Kinh Doanh đã giúp đỡ em trong thời gian qua. Đặc biệt em xin chân thành cảm
ơn thầy giáo Hoàng Trọng Thanh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng 12 năm
2007.
Sinh viên

Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
I. Các khái niệm
1. Khái niệm công nghệ
Theo tiến sĩ Ngô Văn Quế, trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá tư bản chủ
nghĩa, người ta quen dùng khái niệm công nghệ với nghĩa nó là phương tiện vật chất
như: công cụ, năng lượng, vật liệu được con người sáng tạo và sử dụng trong sản
xuất và dịch vụ. Từ những năm 60 trở lại đây, do mua bán công nghệ ngày càng sôi
động trong kinh doanh quốc tế nên công nghệ đã được hiểu theo nghĩa rộng hơn.
Hiện nay đang tồn tại những quan niệm khác nhau về công nghệ. Song, chưa có
sách vở nào đưa ra một định nghĩa chuẩn xác về công nghệ.
Theo tác giả K.Ramanathan, tồn tại một số quan niệm phổ biến về công
nghệ như sau:
“Công nghệ là máy biến đổi”. Với quan niệm này, công nghệ được thể hiện ở hai
khía cạnh. Thứ nhất, nó thể hiện xu hướng cho rằng khoa học và công nghệ là một
và phải được áp dụng đồng thời, và các nhà khoa học ứng dụng cần tìm ra cách áp
dụng vào thực tế các lý thuyết thuần tuý. Thứ hai, thuật ngữ “công nghệ” liên quan
đến khả năng làm một cái gì đó, ngụ ý rằng nó là những gì làm biến đổi yếu tố đầu
vào thành sản phẩm đầu ra sau cùng.

Quan niệm như vậy đã nhấn mạnh không chỉ tầm quan trọng của công nghệ
trong việc giải quyết các vấn đề thực tế, mà còn nhấn mạnh sự phù hợp của mục
đích kinh tế trong việc áp dụng công nghệ. Tuy nhiên, những định nghĩa này còn rất
chung chung, không đủ cụ thể để mở ra chiếc “hộp đen công nghệ”.
“Công nghệ là công cụ”. Với quan niệm này, công nghệ dựa trên nền tảng là
các máy móc thiết bị. Cách nhìn này vẫn còn phổ biến đến ngày nay, mặc dù một
vài định nghĩa có nói đến sự tác động quan lại giữa máy móc – con người.
Những định nghĩa dựa trên quan niệm “Công nghệ là công cụ” đã mở ra
phần nào chiếc hộp đen công nghệ, tuy nhiên nó vẫn còn thiếu sót. Tác giả Simon
đã nói trong cuốn sách “Technology Policy Formulation and Planning: A Reference
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
Manual” rằng: “Nhìn công nghệ ở khía cạnh máy móc và những vật chất rõ ràng sai
lầm giống như chỉ nhìn thấy cái vỏ của con ốc sên, hay cái mạng của con nhện vậy.”
“Công nghệ là kiến thức” cho rằng kiến thức là bản chất của tất cả các
phương tiện chuyển đổi. Những người ủng hộ quan niệm này cho rằng kiến thức là
khía cạnh quan trọng hàng đầu.
Những định nghĩa đi theo quan niệm này ngụ ý rằng kiến thức có thể được
phân loại thành “know-why” và “know-how”. “Know-why” là những kiến thức
khoa học thuần tuý như các nguyên tắc liên quan đến vật lý và hiện tượng xã hội.
“Know-how” dựa trên kinh nghiệm và kinh nghiệm tăng lên thông qua việc áp dụng
“know-why” vào thực tế (phương pháp thử - sai, kinh nghiệm, học hỏi từ chuyên
gia).
Một trong những đóng góp chính của quan niệm này là giúp mở ra chi tiết
hơn “hộp đen công nghệ” bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của kiến thức và
phác hoạ các dạng kiến thức cần thiết cho các hoạt động chuyển đổi.
“Công nghệ là các hình thái biểu hiện” cố gắng làm sáng tỏ những vấn đề mà
ba quan niệm trên gặp phải và cố mở ra hoàn toàn chiếc hộp đen công nghệ. Quan
niệm này nhìn công nghệ theo những hình thái biểu hiện khác nhau theo cách tiếp
cận chiết trung, dựa trên những ý tưởng phát ra từ ba quan niệm phía trên.
Bí quyết kỹ thuật là thông tin được tích luỹ, khám phá trong quá trình nghiên

cứu, sản xuất, kinh doanh của chủ sở hữu công nghệ có ý nghĩa quyết định chất
lượng, khả năng cạnh tranh của công nghệ, sản phẩm công nghệ.
Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm
công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng
cao; có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoá
ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.
Công nghệ mới là công nghệ lần đầu tiên được tạo ra tại Việt Nam.
Công nghệ tiên tiến là công nghệ hàng đầu, có trình độ công nghệ cao hơn
trình độ công nghệ cùng loại hiện có.
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
Cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ là nơi có
điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ, hỗ trợ cần thiết để
ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ.
Chợ công nghệ, hội chợ công nghệ, triển lãm công nghệ, trung tâm giao
dịch công nghệ là nơi trưng bày, giới thiệu, mua bán công nghệ, xúc tiến chuyển giao
công nghệ và cung cấp các dịch vụ khác về chuyển giao công nghệ.
Một số định nghĩa theo quan niệm này vẫn còn chung chung theo các khía
cạnh “phần cứng” và “phần mềm”, nhưng cũng có những định nghĩa cụ thể hơn và
có ý nghĩa đáng kể trong việc mở ra hộp đen công nghệ (chia công nghệ theo các
thành phần Kỹ thuật, Con người, Thông tin và Tổ chức).
Như trên ta đã thấy, việc xem xét công nghệ theo các hình thái biểu hiện đã
khắc phục những thiếu sót của các quan niệm khác và mở ra chiếc hộp đen công
nghệ một cách đầy đủ. Trong việc đánh giá trình độ công nghệ, cần thiết phải có
một cái nhìn đầy đủ và chi tiết về công nghệ và các thành tố của nó để có thể khảo
sát một cách đầy đủ và sát với thực tế nhất trình độ công nghệ của các ngành công
nghiệp. Trong các định nghĩa về công nghệ dựa trên quan điểm này, định nghĩa
công nghệ của K.Ramanathan với bốn thành phần Thiết bị, Con người, Thông tin và
Tổ chức đã được lựa chọn để xem xét bởi sự toàn diện và cụ thể so với các định

nghĩa khác.
Thành phần Thiết bị (Technoware): bao gồm các công cụ và các phương
tiện sản xuất thực hiện các hoạt động sản xuất để tạo ra các sản phẩm mong muốn.
Technoware bao gồm hệ thống biến đổi nguyên vật liệu và hệ thống xử lý thông tin.
• Hệ thống biến đổi nguyên vật liệu thực hiện các hoạt động cơ học theo thiết kế của
máy móc thiết bị.
• Hệ thống xử lý thông tin thực hiện một chuỗi kiểm soát, có thể được xây dựng
một cách cục bộ hoặc hoàn toàn trong thành phần Thiết bị. Trong một vài trường
hợp, nó có thể không có trong thành phần này. Hệ thống gồm ba giai đoạn: nhận
biết – phân tích – xử lý.
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
Thành phần Con người (Humanware): là kỹ năng và kinh nghiệm sản
xuất biểu hiện về mặt con người của công nghệ. Tầm quan trọng của kỹ năng dựa
trên ba điều cơ bản:
• Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất và là nguồn gốc
giá trị thị trường của các loại hàng hoá.
• Con người có trí thông minh (không như máy móc). Do đó, họ có khả năng suy
nghĩ, phân tích, sáng tạo và phát triển thông tin cần thiết để tạo ra sự sung túc, giàu
có.
• Năng suất lao động của con người có thể tăng hoặc giảm do môi trường làm việc.
Thành phần Tổ chức (Orgaware): đề cập tới sự hỗ trợ về nguyên lý, thực
tiễn, và bố trí để vận hành hiệu quả việc sử dụng Technoware bởi Humanware. Nó
có thể được thể hiện thông qua các thuật ngữ như nội quy công việc, tổ chức công
việc, sự thuận tiện trong công việc, đánh giá công việc và giảm nhẹ công việc.
Thành phần Thông tin (Inforware): biểu thị việc tích luỹ kiến thức bởi
con người. Dù có tổ chức tốt, “Con người” cũng không thể sử dụng “Máy móc”
hiệu quả nếu không có cơ sở “Thông tin, tài liệu”. Inforware được chia làm ba loại:
• Thông tin chuyên về thiết bị: thông tin cần cho việc vận hành, bảo trì và cải tiến.
• Thông tin chuyên về con người: thông tin về những hiểu biết và đánh giá về quy
trình sản xuất và thiết bị được sử dụng.

• Thông tin chuyên về tổ chức: thông tin cần thiết để bảo đảm việc sử dụng hiệu
quả, sự tác động qua lại theo thời gian, và sự có sẵn của Technoware và
Humanware.
Bốn yếu tố này bổ sung cho nhau và tác động lẫn nhau. Chúng đòi hỏi phải
có mặt đồng thời trong hoạt động sản xuất và không có hoạt động chuyển đổi nào
có thể hoàn thành nếu thiếu một trong bốn yếu tố. Hình vẽ dưới đây sẽ cho ta thấy
sự tóm lược của bốn yếu tố công nghệ.
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
Mối quan hệ hữu cơ của các thành phần công nghệ
2. Khái niệm chuyển giao công nghệ
• Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một
phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên
nhận công nghệ.
• Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam là việc chuyển giao công nghệ giữa các tổ
chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam.
• Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam là việc tổ chức, cá nhân
hoạt động ở nước ngoài chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt động
trong lãnh thổ Việt Nam.
• Chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân hoạt
động trong lãnh thổ Việt Nam chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt
động ở nước ngoài.
• Dịch vụ chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ quá trình tìm kiếm, giao kết
và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ.
• Đánh giá công nghệ là hoạt động xác định trình độ, giá trị, hiệu quả kinh tế và
tác động kinh tế - xã hội, môi trường của công nghệ.14. Định giá công nghệ là
hoạt động xác định giá của công nghệ.
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
• Giám định công nghệ là hoạt động kiểm tra, xác định các chỉ tiêu của công nghệ
đã được chuyển giao so với các chỉ tiêu của công nghệ được quy định trong hợp
đồng chuyển giao công nghệ.

• Hoạt động chuyển giao công nghệ bao gồm chuyển giao công nghệ và dịch vụ
chuyển giao công nghệ.
• Môi giới chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ bên có công nghệ, bên cần
công nghệ trong việc tìm kiếm đối tác ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
• Tư vấn chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ các bên trong việc lựa chọn
công nghệ, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ.
II Nguồn gốc và thị trường chuyển giao công nghệ
1. Nguồn gốc chuyển giao công nghệ.
Ngày nay cùng với sự phát triển và nghiên cứu khoa học vào đời sống xã
hội, kinh tế, thì chuyển giao công nghệ là một quá trình rất quan trọng. Để có thể áp
dụng tốt nhất các công nghệ mới đòi hỏi phải có một quy trình cụ thể được nhà
cung cấp dịch vụ ( công nghệ ) bàn giao cho các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp có
nhu cầu sử dụng công nghệ đó. Sau khi triển khai và đưa vào sử dụng nhà cung cấp
sẽ phải chuyển giao công nghệ ( cách sử dụng, quản lý ). Quá trình chuyển giao
chình là quá trình tối quan trọng vì nó phản ánh cho người sử dụng rõ nhất về các
đặc điểm cũng như hiệu quả mà nó mang lại cho doanh nghiệp, tổ chức. Trong quá
trình chuyển giao bên cung cấp luôn phải Support (hỗ trợ) nhằm làm hài lòng nhất
khách hàng của mình.
Hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam trong những năm qua đã
phát triển rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ chưa
được coi trọng do trước đây Nhà nước mới ban hành văn bản dưới dạng Nghị định,
Thông tư có phạm vi điều chỉnh hẹp, hiệu lực pháp lý còn thấp. Nhiều hoạt động
chuyển giao công nghệ mới xuất hiện hoặc các doanh nghiệp có nhu cầu thực hiện
nhưng chưa có quy định pháp luật điều chỉnh cụ thể.
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
Nước ta đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Do đó, việc thu hẹp
không tương thích giữa pháp luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam và pháp luật
quốc tế là một ưu tiên. Một số nội dung của các văn bản pháp luật về chuyển giao
công nghệ trước đây chưa phù hợp, thiếu cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Thị trường chuyển giao công nghệ
Là toàn bộ thị trường kinh tế, bao gồm các đơn vị, tổ chức chính phủ, phi chính
phủ, doanh nghiệp, cá nhân trong nước và nước ngoài có nhu cầu.
3. Tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ.
Theo luật chuyển giao công nghệ quá trình chuyển giao công
nghệ gồm:
Hợp đồng chuyển giao công nghệ.
- Nguyên tắc lập hợp đồng: Mọi hoạt động chuyển giao công nghệ phải thực
hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương
đương văn bản, bao gồm: Điện báo, Telex, Fax, thông điệp dữ liệu và các
hình thức khác theo quy định của pháp luật.
- Nội dung của hợp đồng CGCN:
+ Tên và hình thức công nghệ được chuyển giao;
+ Các khái niệm và thuật ngữ trong hợp đồng;
+ Mục tiêu, nội dung, phạm vi, đặc điểm, chất lượng và kết quả CGCN.
Trong trường hợp công nghệ được chuyển giao có nội dung gắn với đối
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
tượng sở hữu công nghiệp thì hợp đồng phải có điều riêng về chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp.
+ Quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện chuyển giao
công nghệ.
+ Kế hoạch, tiến độ, thời hạn, địa điểm và phương thức CGCN.
+ Giá cả và phương thức thanh toán.
- Ngôn ngữ của hợp đồng CGCN: Hợp đồng và các văn bản kèm theo phải
được lập bằng tiếng Việt và có thể được lập thêm bằng tiếng nước ngoài
thông dụng do các bên thoả thuận.
- Nghĩa vụ bảo mật trong việc cấp giấy phép CGCN:
+ Cơ quan, cá nhân có trách nhiệm trong việc cấp Giấy phép CGCN có trách
nhiệm giữ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh trong hồ sơ đề nghị cấp giấy
phép.

Dịch vụ chuyển giao công nghệ
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ phải có giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ.
- Nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ có 2
nguyên tắc cơ bản:
+ Thực hiện thông qua hợp đồng bằng văn bản hoặc hình thức khác theo quy
định của pháp luật.
+ Hợp đồng được giao kết và thực hiện theo quy định của Luật chuyển giao
công nghệ hay theo quy định của Luật dân sự, Luật thương mại hiện hành và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Dịch vụ giám định công nghệ: Là hoạt động kiểm tra, đánh giá để xác định
mức độ đạt được của công nghệ đã chuyển giao theo hợp đồng chuyển giao
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
công nghệ trong thực tế tại thời điểm giám định công nghệ so với các nội
dung của hợp đồng đã được đăng ký.
Có 2 nội dung giám định công nghệ:
- Giám định công nghệ dự án đầu tư: Là đánh giá sự phù hợp và tính đồng
bộ của máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất so với yêu cầu nêu trong dự
án. Đánh giá chất lượng thực tế của máy móc, thiết bị và dây chuyền sản
xuất với chất lượng thực tế của máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất so
với các tiêu chí đã nêu trong hồ sơ dự án.
- Giám định công nghệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ;
- Đánh giá về tính tiên tiến của công nghệ và thiết bị sản xuất;
- Chất lượng sản phẩm được sản xuất nhờ việc áp dụng công nghệ được
chuyển giao so với tiêu chuẩn chất lượng đã thoả thuận.
- Đánh giá về mức độ hoàn thành các nội dung công nghệ được chuyển giao
so với nội dung đã nêu trong hợp đồng.
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
III . Thực trạng của chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
1. Thực trạng nền kinh tế ở nước ta.

Cơ hội kinh doanh mở ra ngày càng nhiều đã đặt các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp Việt trước sự lựa chọn: theo đuổi sứ mạng kinh doanh hay chạy theo lợi
nhuận?
Trước bối cảnh hội nhập kinh tế, cơ hội kinh doanh xuất hiện ào ạt và liên
tục, nhiều ngành nghề mới được hình thành. Thế giới ngày càng "phẳng" hơn, mang
đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp với thị trường liên thông từ trong nước đến quốc
tế, đồng thời mở ra một vấn đề mới cho các nhà lãnh đạo, đó là theo đuổi những giá
trị kinh doanh cốt lõi của doanh nghiệp (còn gọi là sư mạng) hay nhang cơ hội mới
ập đến với mức lợi nhuận hấp dẫn. Điều đơn giản đầu tiên là lợi nhuận chỉ mang
tính ngắn hạn trong khi sư mạng chính là mục đích cuối cùng.
1.1 Sự thay đổi môi trường kinh doanh
Trước đây, doanh nghiệp Việt Nam chỉ cần chú trọng quản lý thật tốt khách
hàng, sản phẩm, nguồn nhân lực, tài sản... là đã hoàn thành mục tiêu. Nhưng hiện
nay, khi quá trình dân chủ hóa thông tin, tri thức diễn ra hàng ngày trên toàn thế giới
thì những công nghệ, ưng dụng mới nhất, xu hướng ngành cũng như thông tin về thị
trường, đối thủ... không còn là của riêng ban lãnh đạo doanh nghiệp hoặc bất kỳ ai.
Mọi người đều có thể lấy thông tin bàng cách truy cập Internet.
Việc dân chú hóa thông tin và tri thức cũng cho phép ban lãnh đạo doanh
nghiệp đào sâu tìm hiểu kiến thức về những ngành liên quan hoặc lĩnh vực mà họ
quan tâm. Chính những kiến thức này sẽ là động cơ thúc đẩy lãnh đạo doanh nghiệp
hướng Công ty mình thực hiện những hoạt động mới, tạo ra lợi nhuận và bành
trướng doanh nghiệp nhưng lại dần xa rời sứ mạng doanh nghiệp.
Hiện có rất nhiều doanh nghiệp đi theo chiều hướng này. Ví dụ, ngành bất
động sản cụ thể là xây dựng cao ốc văn phòng cho thuê đang rất "sốt", đem lại lợi
nhuận cao, thế là hàng loạt doanh nghiệp đổ xô vào đầu tư và quên mất sứ mạng
chính của mình. Như một Công ty chuyên sản xuất cà phê nhận thấy thị trường phân
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
phối sản phẩm tiêu dùng đang có tiềm năng, họ quyết định đổ hàng ngàn tỉ đồng
thiết lập hệ thống phân phối bán lẻ trải dài cả nước. Lời lỗ của những dự án trên
chưa biết thế nào nhưng trước mất là nguồn lực của họ đã bị dàn trải khiến lợi thế

cạnh tranh đang dần suy yếu.
Kênh phân phối kia sẽ tồn tại như thế nào khi xu hướng người tiêu dùng
đang dần chuyển sự tập trung vào siêu thị. Nghiên cứu về hành vi người tiêu dùng
2007 của báo Sài Gòn Tiếp Thị ở 4 thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM và
Cần Thơ cho thấy, người tiêu dùng đang xem siêu thị là kênh mua sắm chủ yếu ở
các mặt hàng tiêu dừng và gia dụng.
Tương tự như khi doanh nghiệp của bạn dễ dàng nắm bất thông tin của các
ngành khác thì những Công ty ngoài ngành công không quá khó khăn để có thông
tin về ngành hoạt động của bạn, thậm chí là cả thông tin về thị trường, xu hướng
ngành, phát minh công nghệ... mà bạn đang có. Điều này sẽ thôi thúc những đối thủ
tiềm năng nhảy vào, đối thù trực tiếp sẽ cạnh tranh gay gắt hơn. Và đây cũng là một
động lực thúc đẩy các nhà lãnh đạo phát triển những định hướng kinh doanh mới,
tạo ra lợi nhuận cao nhằm giảm thiểu rủi ro về ngành cũng như áp lực cạnh tranh.
Những vấn đề trên là thực tế cửa không ít doanh nghiệp lớn, được xem là
hàng đầu của Việt Nam hiện nay. Vậy nhà lãnh đạo phải làm thế nào, theo đuổi sứ
mạng hay lợi nhuận?
1.2 Sứ mạng hay lợi nhuận
Vấn đề đơn giản hay phức tạp phụ thuộc phần lớn vào cách ta đặt vấn đề.
Cũng giống như ngày xưa khi bao vây thành trì, vị tướng lĩnh chỉ nhìn thấy công
thành là phương pháp duy nhất mà bỏ qua những phương pháp về ngoại giao, chính
tri, kinh tế vì ông bị bó hẹp trong chính quan điểm của mình. Không thể trách vị
tướng đó kém cỏi vì ông ta được đào tạo để chinh phạt. Giá trị để chứng tỏ bản thân
ông là nhũng trận chiến, số lượng thành trì và tù binh chiếm được.
Tương tự với nhà lãnh đạo doanh nghiệp, không thể trách khi họ rời bỏ
những giá trị cốt lõi để chạy theo lợi nhuận. Đương kim CEO của Motorola, Eo
Zander là nhà quản ly xuất thân từ ngành tài chính, sau khi tại vị, ông đã tiến hành
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
cắt giảm nhân sự tại Mỹ hàng loạt, chuyển các bộ phận hỗ trợ sang Malaysia và
Philippines. Một sớm thực dậy, các nhà quản lý cấp trung của Motorola đến văn
phòng không còn nhận được lời chào buổi sáng từ cô thư ký xinh đẹp mà thay vào

đó là cuộc gọi từ Malaysla báo về lịch làm việc trong ngày, một email tư Philippines
cung cấp các hồ sơ chuẩn bị cho cuộc họp quan trọng. Những thay đổi của vị CEO
này đã vấp phải sự phản đối rất lớn từ nhân viên, Chính quyền vì đã làm mất việc
làm của hàng ngàn người Mỹ và chuyển một bộ phận doanh số không nhỏ của
Motorola ra nước ngoài. Nhưng trong báo cáo tổng kết cuối năm 2005, lợi nhuận và
tăng trưởng của Motorola lại cao hơn những gì người tiền nhiệm làm được.
Trở lại Việt Nam, rất nhiêu nhà lãnh đạo đang băn khoan liệu nên tập trung
vào lợi nhuận hay sứ mạng cốt lõi của doanh nghiệp. Khó khăn của họ là đã đặt hai
phạm trù lợi nhuận và sứ mạng ở hai khía cạnh đối nghịch nhau. Trong triết học duy
vật biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen nói rằng, bên trong mâu thuẫn có sự thống
nhất với nhau, mâu thuẫn là tiền đề đề phát triển tiến bộ xã hội. Sự phủ định của
những mâu thuẫn này mang tính biện chứng, tức chúng không phủ định hoàn toàn
mà chi phủ định những mặt gây hạn chế, kìm hãm sự phát triển của nhau. Khi loại
bỏ những yếu tố này thì những yếu tố mâu thuẫn sẽ kết hợp với nhau, tạo nên bước
nhảy cho xa hội.
Nên áp dụng quy luật trên vào hai phạm trù sư mạng và lợi nhuận, xem lợi
nhuận như một công cụ để duy trì mục tiêu sứ mạng của doanh nghiệp. Khi đó, mục
tiêu hàng đầu trong hoạch định chiến lược kinh doanh là xây dựng sức mạnh nội tại
của doanh nghiệp, lợi nhuận chỉ là công cụ thực hiện. Quan điểm này còn thể hiện ở
khía cạnh các doanh nghiệp mở rộng lĩnh vực kinh doanh có liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp đến lĩnh vực, thế mạnh, lợi thế hiện tại của mình. Khi áp dụng quan
điểm này, họ sẽ được những chiến lược kinh doanh nhất quán, khai thác triệt để sức
mạnh nền tảng của doanh nghiệp mà không làm giảm suất sinh lợi và tăng trưởng.
FPT là một ví dụ tốt cho nhận định trên. FPT đang theo đuổi rất nhiều lĩnh
vực như sản xuất gia công phân mém, phân phối thiết bị tin học, cung cấp phần
mềm hỗ trợ quản trị doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ thông tin liên lạc, lắp ráp máy
tính và đào tạo tin học. Nhưng họ chưa bao giờ xa rời triết lý kinh doanh của mình,
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
đó là "Công ty cổ phần đầu tư phát triển công nghệ". Tất cả những hoạt động con
của Công ty dù mới xuất hiện hay tồn tại từ lâu đều tập trung vào mục đích phát

triển công nghệ. Và bản thân những ngành con này đều có suất sinh lợi rất cao (lợi
nhuận và tăng trưởng hàng năm của FPT đều đạt trên 30%).(Theo bản cáo bạch của
Công ty FPT).
2. Vai trò của công nghệ đối với sự phát triển kinh tế
2.1 Tác động của công nghệ đối với nền kinh tế quốc gia
Công nghệ đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát
triển của một quốc gia. Sự thay đổi công nghệ tạo ra một sự thay đổi trong chức
năng sản xuất. Nếu chức năng sản xuất không khó quan sát, so sánh việc sản xuất
tại hai thời điểm khác nhau của nền kinh tế sẽ cho ta thấy tác động của sự thay đổi
công nghệ trong thời đoạn đó như thế nào. Theo tài liệu “Quản lý công nghệ” của
GV. Nguyễn Thị Thu Hằng, sự thay đổi công nghệ đã có những tác động chính vào
nền kinh tế như sau:
• Tác động của thay đổi công nghệ vào sự tăng trưởng kinh tế, với giả định
tốc độ tăng trưởng kinh tế là một hàm của nhiều yếu tố vốn, lao động, nguyên
vật liệu, và công nghệ là một trong các yếu tố đó.
• Tác động của thay đổi công nghệ vào năng suất: công nghệ phát triển làm
tăng tỷ lệ giữa tổng lượng đầu ra và tổng lượng đầu vào đã sử dụng, tức là tăng
sản lượng đầu ra với cùng một lượng đầu vào.
• Việc giới thiệu công nghệ thành công có thể làm chi phí và giá cả thấp hơn,
nhưng nếu thất bại, nó có thể dẫn đến lạm phát.
• Tác động của thay đổi công nghệ vào lực lượng lao động có mặt tích cực và
tiêu cực. Một mặt, nó giúp tăng sự quan tâm đối với những công việc đòi hỏi
nhiều kỹ năng, giúp rút ngắn thời gian sản xuất; nhưng mặt khác, nó làm cho
một số công việc trở nên đơn điệu, nhàm chán.
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
• Những quốc gia tập trung sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao có
khuynh hướng thuận lợi, khả năng duy trì và phát triển cán cân thương mại cao
hơn khi so sánh với các quốc gia sản xuất và xuất khẩu công nghệ thấp.
• Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã chú ý hơn tới đầu tư cho đổi
mới công nghệ. Tuy nhiên, điều đáng nói qua kết quả điều tra, đầu tư của các

doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ tập trung chủ yếu để mua sắm, cải tiến
máy móc thiết bị phần cứng (thông qua nhập khẩu thiết bị hoặc mua thiết bị
trong nước) hơn là đầu tư cho phần mềm công nghệ (như đầu tư cho nghiên cứu
cải tiến quy trình sản xuất hay sản phẩm hiện có hoặc thiết kế các sản phẩm
mới). Thông thường, đầu tư cho công nghệ phần cứng tốn kém hơn nhiều so với
đầu tư cho phần mềm công nghệ và do vậy sẽ làm đội giá thành sản phẩm làm ra
do giá trị khấu hao lớn.
• Làn sóng đầu tư của nước ngoài (FDI) vào VN trong hơn một thập kỷ qua
chưa tạo ra một sự chuyển biến mạnh về chuyển giao công nghệ từ các doanh
nghiệp nước ngoài cho doanh nghiệp trong nước. Nói một cách khác, công nghệ
được đưa vào VN qua đường FDI vẫn chỉ quẩn quanh ở các doanh nghiệp có
vốn nước ngoài.
2.2 Tác động của công nghệ vào lợi ích và sự tăng trưởng của công ty
Những mục tiêu chính dẫn tới thay đổi công nghệ trong một công ty thường là:
• Hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh hiện tại.
• Tạo ra những hoạt động kinh doanh mới.
• Thăm dò những công nghệ mới.
Những mục tiêu đó không nằm ngoài mục đích giúp công ty tồn tại, đứng vững và
phát triển. Tuy hiện nay vẫn còn nhiều thảo luận về những lợi ích mà công nghệ mang
lại so với những thảm hoạ khi sử dụng chúng, chúng ta không thể không thừa nhận vai
trò quan trọng của công nghệ trong việc tăng cường sức mạnh cạnh tranh của một quốc
gia nói chung, cũng như của một công ty cụ thể. Việc tìm ra một định nghĩa công nghệ
thích hợp sẽ giúp đánh giá chính xác hơn trình độ công nghệ, trên cơ sở đó các đơn vị
liên quan có thể đề ra các chiến lược phát triển phù hợp, cải thiện vị thế cạnh tranh của
doanh nghiệp, của ngành, và của cả quốc gia.
Đề án môn học Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ để đổi mới công nghệ
3. Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.
Làn sóng đầu tư của nước ngoài (FDI) vào VN trong hơn một thập kỷ qua
chưa tạo ra một sự chuyển biến mạnh về chuyển giao công nghệ từ các doanh
nghiệp nước ngoài cho doanh nghiệp trong nước. Nói một cách khác, công nghệ

được đưa vào VN qua đường FDI vẫn chỉ quẩn quanh ở các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài.
Điều này có thể lý giải bởi nhiều lý do. Trước hết, hệ thống pháp luật và việc
thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của VN đang còn nhiều bất cập
như: hệ thống luật pháp còn nhiều điểm chưa phù hợp và đầy đủ so với các tiêu
chuẩn và quy định của luật pháp quốc tế; các quy định về sở hữu trí tuệ nằm rải rác
tại các văn bản dưới luật gây cảm giác dễ thay đổi, đặc biệt việc thực thi luật pháp
về quyền sở hữu trí tuệ chưa nghiêm và tính hiệu lực còn thấp. Điều này chưa
khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ. Đến nay, VN đã thu
hút khoảng 6.000 dự án FDI vào VN nhưng mới chỉ có khoảng 200 hợp đồng
chuyển giao công nghệ từ khu vực này là quá thấp.
Thứ hai, các doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ bé, thiếu năng lực về tài
chính để thanh toán các hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong khi đó doanh
nghiệp nhà nước thường muốn nhập khẩu thiết bị từ nước ngoài hơn vì còn có
những lợi ích khác.
Thứ ba, mối liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp nước ngoài còn yếu. Kết quả điều tra vừa qua cho thấy
56% doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ qua con đường nhập khẩu công
nghệ từ nước ngoài; chỉ có 23% thông qua liên kết với các doanh nghiệp FDI mà
thôi.
Nhiều ý kiến cho rằng một trong những lý do chính khiến các doanh nghiệp
chưa nhanh chóng đổi mới công nghệ không chỉ là vấn đề thiếu vốn, thiếu thông tin
về thị trường mà do nền kinh tế của VN chưa bước vào hội nhập toàn diện, đồng
thời vẫn chưa thật sự chú trọng đến bản quyền sở hữu trí tuệ.

×