Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

kinh nghiệm cách tạo tình huống có vấn đề trong giảng dạy tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.16 KB, 8 trang )

Kinh nghiệm giảng dạy tiếng việt . Phạm Công Đính THCS PL

Kinh nghiệm :Cách tạo tình huống có vấn đề
trong giảng dạy tiếng việt.
A. Đặt vấn đề .
1. Quan niệm về tình huống có vấn đề trong tiếng việt .
* Trớc khi đến trờng học sinh đã có một số vốn tiếng việt nhất định, nhiệm vụ
của giáo viên ngữ văn không phải là cung cấp cho học sinh tri thức hoàn toàn
mới . Cho nên để giảng dạy một giờ tiếng việt thành công giáo viên phải vận
dụng tổng hợp , sáng tạo các phơng pháp , phơng tiện dạy học . Trong những
năm thực hiện cải cách giáo dục , việc dạy môn tiếng việt là phải tạo ra đợc tình
huống có vấn đề , nghĩa là làm sao để lý thuyết mới về ngôn ngữ học, về tiếng
việt , về ngữ pháp văn bản không phải là kiến thức thuần tuý lý thuyết hiện đại
mà thực sự đợc ứng dụng vào hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh trong
từng tiết tiếng việt . Nh vậy các bài dạy tiếng việt đều phải đa vào tình huống có
vấn đề đó là thử thách cao nhất , khó khăn nhất đối với các nhà s phạm , dạy nh
thế nào để học sinh có hệ thống kiến thức , rèn đợc kỹ năng thực hành bài tập
tiếng việt vào văn bản hàng ngày .
2. Lý do chọn đề tài .
a, Cơ sở lý luận .
+ Với ánh sáng của của lý thuyết hiện đại về ngôn ngữ học , xác lập đợc hệ
thống lý luận , kỹ năng cần rèn luyện và tơng ứng với nó là một hệ thống bài
tập , một hệ thống thao tác dẫn dắt học sinh theo tinh thần cải tiến phơng pháp
dạy và học tiếng việt nói riêng và ngữ văn nói chung nhằm phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo của thày và trò trong giờ ngữ văn .
+ Cho đến nay rất nhiều các công trình nghiên cứu về tiếng việt hiện đại ,về ph-
ơng pháp dạy tiếng việt theo tinh thần đổi mới phơng pháp dạy học , xóa bỏ tình
trạng thụ động của học sinh , thày đọc trò chép
b, Cơ sở thực tiễn :
Qua nhiều năm giảng dạy tiếng việt ở các lớp :6,7,8,9 .ở bài viết này tôi chỉ đề
cập đến một vấn đề nhỏ trong giờ dạy tiếng việt ở trờng THCS . Đó là Cách tạo


tình huống có vấn đề trong giờ giảng dạy tiếng việt.
Thực tế hiện nay học sinh rất lời soạn bài và làm bài tập tiếng việt , một thói
quen rất xấu là chép bài soạn ở các loại sách để học tốt ngữ văn ,và các sách
tham khảo , sách nâng cao , .Học sinh ỷ lại vào sách thiếu suy nghĩ độc lập khi
làm bài tập tiếng việt , nếu ra đề kiểm tra thì kha năng nhận biết các đơn vị kiến
thức trong ngữ liệu đã học rất thấp , có thể do cha tạo đợc tình huống có vấn đề
trong tiếng việt nên các em không vận dụng vào đợc những tình huống tơng tự ,
nên thờng là không làm đợc bài tập đúng nếu có tình huống khác bài học trong
sách giáo khoa .
***********************
- 1 -
Kinh nghiệm giảng dạy tiếng việt . Phạm Công Đính THCS PL
Từ những vấn đề trên tôi xin nêu một số hớng giải quyết vấn đề và những kết
quả cụ thể , qua một số biện pháp chính nhằm thực hiện bài giảng tiếng việt
một cách hiệu quả nhất trong những năm gần đây .

B. giải quyết vấn đề .
I. Những cơ sở để tạo ra tình huống có vấn đề trong giờ tiếng việt .
Qua thực tế điều tra tình hình về việc dạy và học tiếng việt , qua thực tế giảng
dạy, qua dự giờ thăm lớp . Tôi rút ra một số điều sau đây.
+ Muốn có tình huống có vấn đề trong giờ tiếng việt, giáo viên cần làm xuất
hiện những mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái cha biết trong t duy của học sinh
về những hiện tợng , khái niệm, qui tắc ngữ pháp trong tiếng việt
Để tạo tình huống cần tạo thành động lực thúc đẩy học sinh ý thức đợc mâu
thuẫn và coi đó nh một vấn đề . Có thể ngời dạy tiếng việt cần quan tâm đến một
số mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức mới .
- Mâu thuẫn giữa những qui tắc ngữ pháp mang tính cố định và sự biến
động muôn màu muôn vẻ của ngôn ngữ trong giao tiếp.
- Mâu thuẫn giữa năng lực t duy , trình độ ngôn ngữ còn hạn chế của học

sinh với yêu cầu sử dụng ngôn ngữ chuẩn mực trong nhà trờng và yêu
cầu sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt thực tế trong cuộc sống rất phong
phú .
+ Tình huống làm nảy sinh vấn đề trong bài tiếng việt cần có những đặc trng
cụ thể sau :
- Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của học sinh , từ đó kích thích hành
động trí tuệ .
- Hàm chứa nhiệm vụ nhận thức , có nghĩa là thoả mãn nhu cầu tìm tòi
tri thức tiếng việt cho học sinh .
- Phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh .
Tóm lại tình huống có vấn đề thờng đợc cụ thể bằng một câu hỏi có vấn đề
hay bài tập có vấn đề .Câu hỏi nêu vấn đề đó cần dẫn dắt học sinh trực tiếp giải
quyết điểm mấu chốt của quá trình học tập .Cần xuất phát từ nhiệm vụ hình
thành tri thức mới hoặc rèn luyện kỹ năng tiếng việt cho học sinh .
Câu hỏi nêu vấn đề phải ngắn gọn sáng sủa làm rõ mục tiêu trả lời đảm bảo
phát triển đợc tính độc lập sáng tạo của học sinh , để học sinh tự mình tham gia
vào quá trình tìm tòi sáng tạo , đảm bảo cho học sinh nắm vững kiến thức và kỹ
năng làm bài với phơng pháp nghiên cứu ngôn ngữ .
II. Cách tạo tình huống có vấn đề trong bài tiếng việt .

Muốn đa tình huống có vấn đề vào nhận thức của học sinh , giáo viên cần tiến
hành một số bớc nh sau .
B ớc 1 .
Sử dụng ngữ liệu mẫu để giúp học sinh tri giác tài liệu học tập và tái hiện tri
thức cũ .
Đây là bớc khởi động rất cần thiết cho việc nêu tình huống có vấn đề .
B ớc 2 .
- 2 -
Kinh nghiệm giảng dạy tiếng việt . Phạm Công Đính THCS PL
Nêu tình huống có vấn đề đã đợc cụ thể hoá bằng một câu hỏi nêu vấn đề ,

hoặc một bài tập mang nhiệm vụ nhận thức .
Sau đây là một số tình huống có vấn đề đợc tạo ra từ những tiết học cụ thể .
1. Tình huống lựa chọn :
+ Là tình huống đặc trng cho những mâu thuẫn giữa kiến thức cũ và kiến thức
mới , giữa bản năng ngôn ngữ và ý thức của học sinh . Để xử lý tình huống có
vấn đề theo kiểu lựa chọn ,học sinh phải thực hiện các thao tác : So sánh , phân
tích, tổng hợp, phải huy động vốn tri thức ngữ pháp có sẵn của mình để thực hiện
những yêu cầu bài tập giáo viên đặt ra trên những ngữ liệu cụ thể , từ đó chọn đ-
ợc giải pháp đúng đắn nhất .
Ví dụ : Tạo tình huống có vấn đề trong bài Hành động nói tiết 95 SGK văn 8
tập 2.
Bớc 1. GV chuẩn bị bảng phụ ghi ngữ liệu về đoạn văn trong sách giáo
khoa cho học sinh tiếp cận với ngữ liệu đó .
Bớc .2. Nêu tình huống có vấn đề .GV đặt câu hỏi để học sinh suy nghĩ
tham gia ý kiến ,
Có thể có một số câu hỏi theo thứ tự sau :
? Lý Thông nói với Thạch Sanh nhằm mục đích gì ?
? Câu văn nào thể hiện rõ nhất mục đích đó ?
? Lý Thông có đạt đợc mục đích không ?
? Lý Thông thực hiện mục đích của mình bằng phơng tiện gì .?
? Việc làm của Lý Thông có phải là một hành động không ?
Những câu hỏi trên mang ý nghĩa khái quát hành động của Lý Thông đợc thực
hiện liên tiếp đã tạo ra tình huống có vấn đề , đặt ra cho học sinh một nhiệm vụ
cụ thể , tìm ra câu văn có ý rõ nhất để thực hiện mục đích của Lý Thông.
Có thể có ý kiến không giống nhau về câu văn nói rõ mục đích của Lý Thông.
Khó khăn trong khi học sinh trả lời là trong chuỗi câu nói của Lý Thông đều
xoay quanh mục đích là đẩy Thạch Sanh đi để kiếm lợi cho mình chỉ có một câu
trong chuỗi câu nói ấy là đúng còn các câu khác là thái độ của Lý Thông là doạ
dẫm hứa hẹn Cuối cùng là đạt đợc mục đích .
Cuối cùng là học sinh phải phân biệt đợc hành động của Lý Thông đợc thực

hiện bằng phơng tiện gì . Học sinh sẽ chọn đợc câu trả lời đúng nhất là : Đó là
hành động đợc thực hiện bằng lời nói .
xoay quanh câu chuyện Lý Thông và Thạch Sanh những tình huống có vấn đề
lần lợt đợc đa ra và giải quyết , khi giải quyết đợc những tình huống trên là đã
kích thích trí tuệ học sinh làm việc , thúc đẩy học sinh tìm hiểu vấn đề và giải
quyết vấn đề . Học sinh giải đáp đợc những câu hỏi trong sách giáo khoa một
cách tự giác chính là đã thực hiện đợc nhiệm vụ nhận thức , bản chất nhất của
tình huống có vấn đề là thực hiện hiểu rõ đợc phần bài mới thế nào là hành động
nói một cách gián tiếp . Sau khi học sinh đã nắm đợc khái niệm bằng một định
nghĩa cụ thể giáo viên giúp các em ghi nhớ về hành động nói là hành động đợc
thực hiện bằng lời nói nhằm thực hiện mục nhất nhất định .
Nh vậy : tình huống nêu vấn đề ở trên đây là tình huống giáo viên đa ra để
học sinh tự giải quyết một phần , phần còn lại giáo viên hớng dẫn học sinh tự
giải quyết có thể xem nh tình huống lựa chọn .
- 3 -
Kinh nghiệm giảng dạy tiếng việt . Phạm Công Đính THCS PL
2. Tình huống phản bác :
Tình huống phản bác là tình huống có vấn đề đợc tạo ra cho học sinh có cơ hội
tranh luận , bàn bạc , phê phán bác bỏ một hiện tợng ngữ pháp nào đó không phù
hợp với yêu cầu đặt ra của bài học . Qua đó học sinh bàytỏ quan điểm của mình .
Đối với học sinh ở tình huống này ,cần phải huy động kiến thức của nhiều môn ,
nhiều bài phải có bản lĩnh vững vàng và thói quen chín chắn . Khi tạo tình huống
này giáo viên thờng sử dụng các ngữ liệu có những dấu hiệu làm xuất hiện một
số mâu thuẫn đối lập với những tri thức ngữ pháp mà học sinh đã tích luỹ đợc .
Ví dụ : Tạo tình huống có vấn đề ở bài Câu Trần thuật Sách giáo khoa văn 8
tập 2.
Bớc 1 . GV chuẩn bị một bảng phụ ghi ngữ liệu các đoạn văn trong sách
giáo khoa đã in trang 45 ,46. Có 4 đoạn ngữ liệu của 4 tác giả đã học.
Bơc 2. Nêu tình huống có vấn đề bằng các câu hỏi trong sách giáo khoa .
Những câu hỏi tình huống có thể theo thứ tự là :

? Trong các đoạn ttrích trên câu nào không có đặc điểm hình thc của câu nghi
vấn ,câu cầu khiến ,câu cảm thán ?
? Những câu này dùng để làm gì ? .
Thực ra không dễ gì học sinh trả lời chính xác câu hỏi trên , vì sao .? Để trả
lời đúng các câu hỏi nêu ra học sinh cần phải nắm chắc đặc điểm hình thức và
chức năng chính và các chức năng khác cuả 3 loại câu đã học từ lớp 6 và ở những
giờ trớc . Ngoài ra cần phải nắm chắc xuất xứ các đoạn văn nằm ở tác phẩm đã
học nào . Nội dung chính đoạn văn đó nói gì ,có liên quan gì đến đoạn văn trớc
và sau đó .
Học sinh sẽ phải đa ra những lý lẽ để bảo vệ cho ý kiến của mình đồng thời
phản bác ý kiến trái ngợc với mình .
Từ cái sai , tìm ra cái đúng phải có lập luận . Muốn lập luận đợc thì cần phải
nắm chắc văn bản trên cơ sở văn bản đã học về các loại câu : Nghi vấn , cầu
khiến , cảm thán để biết rõ kiểu câu nào đợc dùng nhiều nhất để đi đến kết luận
ở câu hỏi nhận thức sau .Đó là câu hỏi tiếp : Trong các kiểu câu nghi vấn , cầu
khiến , cảm thán và trần thuật ,kiểu câu nào đợc dùng nhiều nhất , vì sao ?.
Có thể học sinh nhận biết rằng : Câu trần thuật đợc dùng nhiều nhất nhng
giải thích vì sao thì cha thoả đáng . Đơng nhiên muốn làm rõ ý trên học sinh phải
nhớ lại các đặc điểm về hình thức và chức năng của 4 loại câu .Vì câu trần thuật
không có đặc điểm hình thức và chức năng của 3 loại câu : Nghi vấn , cầu khiến ,
cảm thán ,nhng khi viết văn ta thấy một điều : Câu trần thuật dùng để kể , thông
báo, nhận định , miêu tả là chức năng chính ngòai ra do ngữ điệu nói và viết
câu trần thuật còn dùng để thực hiện các chức năng vốn có của 3 loại câu trên .
Rõ ràng phạm vi dùng của câu trần thuật có mặt trên mọi tình huống có trong
văn cảnh , vì câu trần thuật là kiểu câu cơ bản và đợc dùng phổ biến nhất trong
giao tiếp .
Sau khi giải quyết đợc các tình huống trên nhiệm vụ cơ bản của bài học đã
đợc thực hiện . Đây là tình huống giáo viên phải chuẩn bị chu đáo thì bài học
mới thực hiện thành cống.
3. Tình huống không phù hợp :


- 4 -
Kinh nghiệm giảng dạy tiếng việt . Phạm Công Đính THCS PL
Là tình huống xuất hiện khi có mâu thuẫn kiến thức đã học hoặc đã tích luỹ đ-
ợc với những kiến thức sẽ đợc học ở bài học mới. Tình huống có vấn đề kiểu này
đợc tạo ra bằng cách giới thiệu những sự kiện , những hiện tợng ngữ pháp
nghịch lý trái với những quan niệm thông thờng của mình về hiện tợng ngữ
pháp . Từ đó biết cách hiểu mới phù hợp với khoa học và quy luật hoạt động của
ngôn ngữ trong hệ thống giao tiếp .
Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ vì ngữ liệu đợc học , và việc làm bài tập cha hẳn đã
nhất quán trong cách xác định kiến thức .
Ví dụ : Khi dạy bài Từ ghép trong sách tiếng việt Lớp 7 tập 1.Có thể xuất hiện
tình huống trong khi cho học sinh phân biệt từ ghép hợp nghĩa và ghép phân
nghĩa trong các loại từ ghép chính phụ và từ ghép đẳng lập
Trong thực tế có những giờ thao giảng cấp huyện có giáo viên cho rằng từ ghép
cây cỏ là từ ghép chính phụ nhng cũng có ý cho rằng đó là từ ghép đẳng lập vì
cây là một từ cỏ là một từ . Giáo viên còn cha thống nhất đợc thì học sinh
theo ai ? Có lẽ đây là một tình huống ngòai ý muốn sợ mất thời gian giải thích
chăng ?

4. Tình huống giả định :

Là tình huống đặt học sinh trớc những giả thiết những phán đoán , những suy lý
về một phơng thức mới để kiểm tra trình độ của học sinh về một tri thức ngữ
pháp cụ thể . Tạo điều kiện cho học sinh sử dụng năng lực t duy và khả năng
ngôn ngữ của mình để nhận xét , phán đoán hoặc bác bỏ tình huống giả định ,
khẳng định sự tồn tại của phơng thức cũ . Từ đó học sinh hiểu sâu giá trị của ph-
ơng thức cũ .
Nh vậy , tình huống giả định có vấn đề có thể tạo dựng đợc ở tất cả các bài
tiếng việt từ bài lý thuyết đến bài luyện tập thực hành bài tập .

Trong quá trình dạy các bài tiếng việt , bịên pháp kích thích t duy của học sinh
là nêu tình huống giả định để học sinh phán đoán , rồi xác định những đơn vị
kiến thức , vận dụng những điều đã học đợc để kiểm chứng , giả định đó , sau đó
giáo viên dẫn dắt hớng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ kiến thức để đa ra kết luận
chính xác , từ đó vận dụng để làm bài tập tiếp theo.
Trên đây là một số biện pháp đã thực hiện với tiết dạy tiếng việt mà tôi đúc
rút thành những tình huống thực hiện , các kiểu bài từ lý thuyết đến bài tập thực
hành . Thực ra chỉ là những khâu rất nhỏ trong quá trình thực hiện một tiết lên
lớp . Biết rằng dạy học là một nghệ thuật , dạy văn , dạy tiếng việt lại càng cần
nghệ thuật tinh xảo hơn . Trong thực tế hiện nay , học sinh không ham học văn ,
vì học văn không đợc định hớng xa để sau này thi vào các khối đại học , nên thực
sự , kỹ năng viết văn của học sinh ngày càng yếu hơn trớc . Bên cạnh các tài liệu
tham khảo ngày càng nhiều đã phần nào bóp nghẹt tính sáng tạo trong các em .
Tâm hồn non nớt thơ ngây của học sinh , không còn sự rung cảm trớc những tác
phẩm mà đáng lẽ ra phải rung động , ngày trớc ta còn cảm thấy xót xa cho số
phận bi thảm của ngời nông dân trong xã hội nửa thực dân , phong kiến thơng
cho chị Dậu , xót xa thay cho số phận ngời nông dân bị bần cùng hoá nh Chí
Phèo , Lão Hạc thì hiện nay không ít học sinh cuời cợt trớc đau khổ của chị
Dậu , chỉ thấy lão Hạc là gàn dở thật là đáng buồn.
- 5 -
Kinh nghiệm giảng dạy tiếng việt . Phạm Công Đính THCS PL
Tuy nhiên khi áp dụng những tình huống chuẩn bị của mình vào các bài dạy
tiếng việt cụ thể tôi thấy có những kết quả nhất định . Sau đây là kết quả thống
kê qua một số bài tiếng việt đã dạy ở tuần 18 đến tuần 23 ở Ngữ văn Lớp 8 nh
sau .
c. Kết quả cụ thể .
( từ tuần 18 đến tuần 23 với các bài tiếng việt )
Lớp Chất lợng khi cha áp dụng
sáng kiến .( Tỉ lệ TB trở lên )
Chất lợng sau khi đã

áp dụng sáng kiến .
số lợng % số luợng %
8a3.(35 ) 15 25
8a5 (40 ) 17 27
Nh vậy việc sử dụng tình huống có vấn đề trong giờ học tiếng việt có thể
làm thay đổi căn bản quá trình của giờ học . Thay đổi phơng thức học tập và
hoạt động của học sinh . Đa tình huống có vấn đề vào dạy tiếng việt là một biện
pháp tốt để học sinh đợc tiến hành giao tiếp , tranh luận , phản bác , chứng minh
bảo vệ quan điểm của mình . Việc sử dụng tình huống có vấn đề trong giờ dạy
tiếng việt , giáo viên có thể đảm bảo đợc các nguyên tắc của các phơng pháp dạy
học theo tinh thần đổi mới , cải tiến lề lối học và dạy của giáo viên và học sinh .
Vừa hớng học sinh vào giao tiếp , vừa chú ý phát triển t duy, vừa căn cứ vào trình
độ của học sinh để uốn nắn những sai lệch để tiếp thu bài tốt hơn .
Tuy vậy không phải là không có những đỉêm hạn chế và bất cập . Tôi xin
nêu một số những hạn chế và những bài học kinh nghiệm sau :

D. Những hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra :
Việc dạy học nêu vấn đề đã đợc đặt ra từ lâu nhng không phải là chiếc chìa
khoá vạn năng vì thực chất có những câu hỏi đề ra có u điểm là kích thích t duy
của học sinh , nhng chỉ với học sinh có ý thức nghiêm túc còn đại bộ phận học
sinh vẫn thụ động coi lời giảng và trình bày của giáo viên là chính mà không có
sự độc lập suy nghĩ sáng tạo gì .
Có một thói quen một nếp nghĩ ăn sâu vào học sinh vì kiểu học và thi cử hiện
tại vẫn là sao chép bài mẫu , nên thiếu tính sáng tạo .
Mặt khác , đối với giáo viên , ngoài những tri thức sẵn có trong sách giáo
khoa ,giáo viên cần suy nghĩ lựa chọn đúng những câu hỏi nêu vấn đề tránh sai
lệch khuôn sáo nhằm thu hút học sinh chú ý ,nhiều ngữ liệu trong sách giáo
khoa nếu áp dụng vào bài dạy cha đảm bảo tính lô gíc trong kiến thức nhng vì đ-
ợc coi là có tính pháp lệnh rồi nên cứ phải tuân theo không dám thay đổi .
Về phía học sinh : Nếu các em không chú ý , không biết huy động vốn kiến

thức có sẵn của mình để so sánh phân tích , tổng hợp thì rất dễ có sự suy nghĩ sai
lệch về kiến thức , không chính xác dẫn đến t tởng ,dễ làm khó bỏ
Từ những điều nhận định trên , tôi rút ra một điều cơ bản là .
- 6 -
Kinh nghiệm giảng dạy tiếng việt . Phạm Công Đính THCS PL
+ Trớc khi soạn bài cần tham khảo đọc kỹ loại bài tiếng việt ( bài lý thuyết ,
bài tập thực hành , bài ôn tập ) đặt vị trí của bài đó vào trong chơng trình để
thấy hết tầm quan trọng của bài đó .
+ Trong khi soạn bài cần tham khảo một hệ thống câu hỏi để đạt tối u những
kỹ năng cần thiết nhất để rèn luỵện học sinh .
+ Cần dự kiến các tình huống có thể xảy ra khi giảng bài tiếng việt đó . Khi
giáo viên tạo ra những tình huống có vấn đề cần hớng học sinh vào hoạt động
nhận thức nhằm kích thích t duy của học sinh .
+ Khi giảng bài trên lớp cần chủ động , sáng tạo , tích cực huy động tối đa học
sinh làm việc theo sự điều khiển dẫn dắt của giáo viên ,để tạo tâm thế tốt cho giờ
học .
Nh vậy , muốn có giờ tiếng việt có hiệu quả , ngời giáo viên cần phải kết
hợp với việc sử dụng tình huống có vấn đề với các phơng pháp dạy học truyền
thống nh quy nạp, thuyết trình , đàm thoại Một giờ tiếng việt thành công chính
là hiệu quả của việc sử dụng tổng hợp sáng tạo các phơng pháp dạy học
Đ: Phạm vi áp dụng .
Trong phạm vi khuôn khổ của một kinh nghiệm nhỏ ,bài viết này chỉ có phạm vi
áp dụng hẹp trong một số bài dạy môn tiếng việt ,trong phân môn ngữ văn có
kiến thức rất rộng lớn không thể áp dụng những tình huống của bài dạy tiếng
việt. Mặt khác ,do đặc trng bộ môn , do yêu cầu riêng với từng loại bài , hệ thống
câu hỏi và cách thức tiến hành lại khác nhau .Chính vì thế tôi chỉ có một mong
muốn : Khi dạy môn tiếng việt , muốn tạo tình huống có vấn đề nhằm kích thích
học sinh học tập , để làm đợc điều đó , ngời giáo viên cần có sự chuẩn bị chu
đáo về bài soạn , từ việc chọn ví dụ tiêu biểu , phù hợp đến đối tợng học sinh ,
đến hệ thống câu hỏi nêu vấn đề sát thực , phù hợp , từ đó giáo viên giúp học

sinh phát huy sáng tạo khả năng phân tích , so sánh, tổng hợp để từ đó nắm
bắt bản chất vấn đề .
E. Những vấn đề cần phải kiến nghị hoặc bỏ ngỏ .
Với những ý kiến trên , tôi mong muốn rằng nếu có điều kiện chỉnh lý sách
giáo khoa thì tiết học tiếng việt cần phải đa ra nhiều tình huống hơn nữa để giúp
việc lựa chọn phù hợp các đối tợng học sinh , giúp cho học sinh học tiếng việt
không có những vấn đề cha thống nhất về kiến thức .
Do trình độ còn hạn chế , kinh nghiệm đa ra bản thân mình còn cha áp dụng
đợc thì ai áp dụng đợc rất mong nhận đợc sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp ,
của các cấp quản lý chuyên môn để thống nhất cao hơn về các loại bài tiếng việt
nói riêng và phân môn ngữ văn nói chung .
Phả lại ngày 6 tháng 3 năm2008.
Ngời viết .
Phạm Công Đính
- 7 -
Kinh nghiÖm gi¶ng d¹y tiÕng viÖt . Ph¹m C«ng §Ýnh THCS PL
- 8 -

×