RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HC SINH THễNG QUA C -
HIU TH TR TèNH HIN I LP 9
A.đặt vấn đề
I. Lời mở đầu:
Con ngời ta sống một cuộc sống gọi là đầy đủ với hai điều kiện: đầy đủ về vật
chất và đầy đủ về tinh thần. Chỉ nói riêng về cuộc sống tinh thần cũng thật đa dạng và
phong phú. Biểu hiện của sự đa dạng, phong phú ấy là: đợc yêu thơng, biết yêu th-
ơng; đợc ớc mơ, đợc thởng thức cái hay cái đẹp của cuộc đời; đợc thởng thức và đợc
cống hiến. Và một trong những điều mang lại cho con ngời niềm vui trong cuộc sống
là biết thởng thức những cái hay, cái đẹp, ý nghĩa cuộc đời qua những áng thơ văn, dù
sau này con ngời ấy có theo nghề nào đi chăng nữa. Vì ở các tác phẩm văn chơng,
cuộc sống đã đợc kết tinh thành cái đẹp qua tài năng, tình cảm, tâm huyết của ngời
sáng tạo tác phẩm rồi.
Là loại hình tác phẩm đợc cấu trúc bởi một kiểu ngôn ngữ đặc biệt, khác hẳn
ngôn ngữ đời thờng và ngôn ngữ văn xuôi, để bộc lộ ý thức tình cảm con ngời một
cách trực tiếp; là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động
đột xuất, độc đáo - thơ trữ tình đến với ngời đọc tự nhiên mà nồng nàn, giản dị mà
sâu sắc, dễ dàng mà khó quên, bất chợt để trờng tồn, một chút xôn xao để rồi sâu
lắng. Một cái nhìn, một ánh mắt, một tiếng gọi trong thơ ta gặp một lần để rồi cứ
nhấp nháy mời gọi, ngân nga hoài trong ta mãi không thôi. Cái tôi trữ tình luôn
cảm xúc thực sự, bộc lộ hẳn ra.Tiếng nói trữ tình trở thành tiếng lòng thầm kín của
mọi ngời. Quả thật nó là Lời gửi của nghệ sĩ với cuộc đời . Nói nh cố nhà thơ Tố
Hữu: Thơ là tiếng nói của ngời nào đó đến với những ngời nào đó dựa trên cơ sở
đồng ý, đồng tình. Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí .
Tuy nhiên, có những bài thơ ngời ta đọc một lần rồi sau đó mãi mãi để trong
quên lãng; có những bài thơ ngời ta đọc đi đọc lại mãi không muốn thôi. Hoặc lại
cũng có bài thơ, ngời này đọc thấy hay, thấy xúc động, ngời khác lại chẳng thấy gì là
thích thú. Đấy là do sức hấp dẫn từ bản thân tác phẩm và một điều quan trọng nữa là
1
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
hứng thú và kĩ năng cảm nhận ở mỗi ngời khi đến với văn bản thơ. Năng lực cảm thụ
của mỗi ngời không giống nhau, cũng không phải tự nhiên vốn sẵn có mà phải qua
quá trình hình thành bồi dỡng. Nhất là đối với các em học sinh. Với những học sinh
lớp 9 - những học sinh sắp tốt nghiệp THCS - trớc ngã rẽ đầu tiên của cuộc đời (các
em có thể tiếp tục học lên hoặc bớc sang một hớng khác của cuộc sống), để các em
có thêm những nhận thức và tình cảm tốt đẹp với cuộc sống trong và sau tác phẩm
văn chơng, giúp các em tiếp tục nâng cao năng lực cảm thụ khi học văn học ở cấp
THPT, tôi mạnh dạn đa ra vấn đề: Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh
thông qua bài dạy - học đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình . Với phạm vi rất hạn hẹp
là các tiết dạy thơ hiện đại cho đối tợng là học sinh hai lớp 9B, 9C của trờng THCS
Xi Măng; quá trình tích luỹ kinh nghiệm còn rất ngắn. Song tôi hi vọng sẽ nhận đợc
sự góp ý của đồng nghiệp để mình có thể góp một kinh nghiệm nhỏ vào quá trình dạy
học ngữ văn của bản thân với những lớp học sinh tiếp theo.
II. Thực trạng của vấn đề.
Nói đến bồi dỡng năng lực cảm thụ thơ văn là nói đến một vấn đề mang tính
chiến lợc trong quá trình dạy- học văn chơng. Bản thân mỗi tác phẩm văn chơng đã
có khả năng tạo cho ngời đọc sức hấp dẫn để rồi bằng nhiều con đờng, ngời ta đợc
tìm hiểu về nó. Với mỗi học sinh lơp 9 THCS, đặt ra vấn đề bồi dỡng năng lực cảm
thụ thơ văn không phải là sớm nhng cũng không thể nói là muộn. Kể từ khi các em
cha đến trờng các em đã đợc tiếp xúc và cảm thụ các tác phẩm văn chơng. Nghe một
truyện cổ tích, đọc theo ngời lớn một bài thơ, nghe một ngời ngâm thơ trên các ph-
ơng tiện thông tin đại chúng. Khi đến trờng cùng với việc đọc, học bài học ở trờng
các em còn tiếp tục đợc cảm nhận, thởng thức văn chơng qua những sinh hoạt tập thể
của Đội - Đoàn, đoc báo, diễn thơ trong hoạt động văn nghệ, nghe nói chuyện về thơ.
Nhng ở đây, điều tôi muốn nói đến thiên về những việc làm của Thầy và Trò trong
quá trình chuẩn bị và thực hiên đọc- hiểu văn bản thơ trữ tình. Làm thế nào để qua
một bài dạy - học thơ có thể góp thêm một kinh nghiệm để rèn kĩ năng cảm thụ thơ
văn cho các em. Hay nói cách khác những việc làm cụ thể để rèn luyện kĩ năng cảm
2
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
thụ tác phẩm diễn ra trớc, trong và sau tiết bài dạy- học đọc - hiểu văn bản thơ trữ
tình. Đây là những việc làm khó.
Nh trên đã nói, việc cảm thụ văn chơng ở mỗi ngời không hề giống nhau hơn
nữa hoạt động thởng thức văn chơng của học sinh trong nhà trờng không giống nh
hoạt động thởng thức của bạn đọc ở ngoài xã hội. Hoạt động thởng thức văn chơng ở
ngoài xã hội là hoàn toàn tự do, hoàn toàn mang tính chất cá nhân. Còn hoạt động th-
ởng thức văn chơng trong nhà trờng là có giới hạn nhất định về thời gian kể cả trong
chính khoá và ngoại khoá; có sự hớng dẫn của giáo viên, có sự kích thích tác động
lẫn nhau của những ngời cùng thởng thức, đợc khuyến khích phát hiện thởng thức
những cái hay, cái đẹp theo một cách riêng nhng chủ yếu phải thởng thức, tiếp nhận
cái hay, cái đẹp là những kiến thức có tính mục tiêu khái quát về tác phẩm. Và
nguyên tắc dạy học văn cũng chỉ ra rằng: dạy học văn chơng phải vừa dạy môn khoa
học vừa dạy môn nghệ thuật bởi văn học vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Vì thế
việc cảm thụ tác phẩm phải dựa trên cả tính khoa học, nghệ thuật và tính nhà trờng.
Rõ ràng việc rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn, nhất là qua đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình
là một việc đòi hỏi tính liên kết khá cao.
Phần nữa, xét về kĩ năng cảm thụ tác phẩm văn chơng của những học sinh lớp 9
hiện tại - cụ thể là ở hai lớp 9B, 9C của trờng THCS Xi Măng tôi đợc phụ trách cũng
còn nhiều điều nan giải. Chỉ nói về kĩ năng tiếp xúc với tác phẩm đã có rất nhiều điều
phải bàn.
Thứ nhất là các em rất lời đọc. Cha nói đến những kĩ năng cao siêu, đọc là khâu
đầu tiên để học sinh tiếp cận tác phẩm, song vì có lẽ cho là mình đang là ngời lớn nên
phần lớn các em học sinh chỉ đọc bằng cách lia mắt lớt qua để rồi sau đó vội vội
vàng, vàng trả lời mấy câu hỏi hớng dẫn trong sách giáo khoa cho xong việc chuẩn
bị bài để tránh bị cán bộ lớp hoặc cô giáo phê bình. Thử làm một phép điều tra nho
nhỏ đầu năm với bài chuẩn bị học đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh -
trích Hoàng Lê nhất thống chí (đây là một tác phẩm truyện), tôi không khỏi giật
mình. Khi đợc hỏi học sinh học lớp 9B, 9C các em đã cho biết:
Số lần đọc bài: nhiều nhất là một lần .
3
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
Số lợng học sinh đọc đầy đủ từ đầu đến cuối đoạn trích: 9B: 20/34
9C: 31/34
Số còn lại đọc loáng thoáng một số câu, một vài đoạn. Đặc biệt có các em: Mai
Thanh Bình (9C), Nguyễn Trung Kiên (9B) không cần đọc một câu nào. Lý do không
đọc hết hoặc đọc một lần: văn bản dài, là văn xuôi khó đọc.
Đến thơ, tình trạng có khá hơn. Số em đọc bài thơ Bếp lửa từ 2 lần trở lên đã có
: 9B : 16 em
9C : 30 em
Đọc một lần : 9B : 33 em
9C : 30 em
Đấy là việc đọc trớc. Còn việc chuẩn bị trả lời câu hỏi đọc - hiểu văn bản thì sao ?
Cũng đã nói ở trên, vì tâm lý sợ cô giáo và tập thể phê bình nên các em có trả lời
các câu hỏi chuẩn bị bài vào vở bài tập ngữ văn. Song việc trả lời chỉ là sao chép lại
những gợi ý trong sách Để học tốt Văn và Tiếng Việt 9 sao chép không cần suy
nghĩ, miễn sao có đủ bài.
Nh thế, ở khâu đầu tiên tiếp xúc với văn bản, các kĩ năng đọc, tìm hiểu nếu
không đợc rèn luyện sẽ dần dần chuyển sang kĩ năng sao chép tài liệu hớng dẫn
thành thạo hay không thành thạo mà thôi.
Còn trong quá trình đọc - hiểu. Rất nhiều giờ dạy - học, nhất là giờ dạy - học
những bài thơ trữ tình hay. Trớc đây, với phơng pháp dạy học cũ, thầy giảng trò nghe,
dạy những bài thơ nh: Đoàn thuyền đánh cá , không ít giáo viên đã để cháy giáo
án vì thầy giáo quá say sa với những ngôn từ, vẻ đẹp trong cách thể hiện của tác giả.
Hiện nay, với phơng pháp dạy học mới, ngời thầy lại không bị cháy vì mình quá
say sa mà cháy vì học sinh không biết tìm ra những tín hiệu nghệ thuật để phân
tích, hoặc giả các em chẳng hề rung động trớc bất cứ hành động nào. Kĩ năng đọc đã
yếu, kĩ năng phát hiện và cảm nhận các tín hiệu nghệ thuật trong một bài thơ ở các
em lại càng yếu. Học sinh Nguyễn Trung Kiên lớp 9B, khi đợc yêu cầu chỉ ra hình
ảnh trong bài thơ Bếp lửa , em chỉ trả lời gọn lỏn: Bà thơng cháu.
4
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
Hay nói đến các biện pháp nghệ thuật cũng vậy. Học sinh nhầm lẫn biện pháp
nghệ thuật và biện pháp tu từ. Hoặc các em đồng nhất hai khái niệm đó, hoặc nhầm
giữa biện pháp tu từ này với biện pháp tu từ khác và hầu nh việc tìm ra giá trị của
biện pháp nghệ thuật ấy trong bài thơ là rất hạn chế.
Một điều đáng nói nữa là hình tợng trong tác phẩm trữ tình. Nếu nh hình tợng
trong tác phẩm tự sự là hình tợng tính cách, các em dễ hình dung thì hình tợng trong
tác phẩm trữ tình lại là hình tợng tâm sự. Tiếng nói trong tác phẩm trữ tình là tác
phẩm của những tâm trạng. Thơ trữ tình chứa đầy tâm trạng, cảm xúc và tâm trạng đó
đợc gắn liền với sự rung động về vần điệu, hình tợng âm thanh. Việc hiểu tâm trạng
trong thơ để đồng điệu cũng rất khó. Hiểu không đúng dễ dàng dẫn đến cảm nhận
cũng lơ mơ, trệch hớng.
Tóm lại: Thực trạng của vấn đề có nhiều điều tác động, đòi hỏi trong quá trình
thực hiện dạy - học văn bản thơ trữ tình phải giải quyết để đạt hiệu quả:
Làm thế nào để khơi gợi hứng thú cảm nhận cho các em, taọ cơ sở cho việc rèn
kỹ năng cảm thụ ?
Làm thế nào để giúp các em có đợc và phát triển kĩ năng cảm thụ trong điều
kiện thực tế và thời lợng cụ thể giành cho mỗi văn bản thơ trữ tình?
Làm thế nào để các em biết vận dụng kỹ năng cảm thụ để làm tốt bài tập làm
văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong chơng trình để đảm bảo nguyên tắc dạy học
văn theo hớng thích hợp?
Đó là những điều đặt ra với tôi trong quá trình dạy học văn bản thơ trữ tình.
Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh, bám sát đặc điểm loại thể thơ trữ tình;
thông qua một số tiết dạy cụ thể, tôi đã tiến hành các giải pháp nh sau:
B. Các giải pháp thực hiện
1.Đảm bảo nguyên tắc dạy học Ngữ Văn theo đặc trng thể loại - bồi dỡng hứng
thú tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình.
5
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của sự thăng hoa về tâm hồn, và trí tuệ của ng-
ời nghệ sĩ. Vì thế, nó có những giá trị vợt ra ngoài ý đồ sáng tạo của tác giả. Hình t-
ợng càng lớn, càng có tính nghệ thuật cao thì càng có nhiều khía cạnh, nội dung
phong phú, hấp dẫn. Sáng tạo một tác phẩm, nhà văn muốn nói với ngời đọc, muốn
truyền cho ngời đọc qua các thế hệ một cách nhìn, cách hiểu, cách đánh giá với chính
mình và đối với cuộc sống con ngời, đối với thế giới. Những ngời đọc, do sự chi phối
của thời đại,do trình độ, thị hiếu thẩm mỹ và tâm lý lứa tuổi, đến với tác phẩm lại
muốn tìm đợc những điều nào đó phù hợp với mình và cần thiết cho mình. Chính vì
vậy, bản thân hình tợng đã phong phú đa dạng, đối diện với ngời đọc càng làm cho
nó trở nên phong phú đa dạng hơn.
Nh trên đã nói, tác phẩm thơ - đặc biệt là thơ trữ tình - hình tợng trong đó là
hình tợng tâm t. Ngoài cái thông điệp mà tác giả muốn gửi tới ngời đọc còn có cả
những điều mà tác giả muốn bộc lộ ra với ngời đọc. Để học sinh say mê đọc tác
phẩm, tái hiện hình tợng trong tác phẩm, tiếp nhận đợc những giá trị của tác phẩm
cũng nh có sự tòm tòi phát hiện riêng về tác phẩm. Giáo viên phải tác động bằng
nhiều hình thức để các em chủ động đến với tác phẩm một cách hứng thú bằng những
nhu cầu tình cảm, những nhu cầu từ bên trong. Làm sao để các em sống với tác phẩm
bằng cả tâm hồn mình, tiếp nhận kiến thức về tác phẩm bằng những rung động sâu
xa, mãnh liệt của tâm hồn.
Nhận thức tác phẩm tức là học sinh phải trực tiếp đối diện với tác phẩm và từ
đó có nhu cầu và niềm say mê thởng thức, khám phá tác phẩm. Là chủ thể chủ động,
học sinh không chỉ có đọc, sáng tạo lại hình tợng tác phẩm thành hình tợng của mình,
mà qua đó các em nghe đợc tiếng nói, lắng nghe đợc giọng điệu, cảm nhận đợc cái
nhìn của nhà thơ về cuộc sống, con ngời. Các em buồn cái buồn, vui niềm vui của
nhà thơ, bị nhà thơ thuyết phục hoặc tranh luận với nhà thơ. Là chủ thể chủ động, các
em phải có sự giao tiếp, sự cộng hởng cảm xúc với nhà văn, tiếp nhận những thông
điệp thẩm mỹ của nhà văn qua tác phẩm. Để học sinh thực sự trở thành chủ thể tiếp
nhận tác phẩm, trong giờ dạy - học đọc - hiểu văn bản nhất là văn bản trữ tình cần:
6
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
Trớc hết các em phải đợc khơi gợi hứng thú đọc tác phẩm và hớng dẫn chuẩn
bị tìm hiểu tác phẩm ở nhà một cách cụ thể. Làm sao để khi bớc vào giờ học, các em
nh mong muốn đợc thể hiện giọng đọc, sự đồng sáng tạo của mình, muốn trình bày,
muốn tranh luận những điều cảm thụ, nhận thức đợc về tác phẩm. Thởng thức nghệ
thuật chỉ thực sự bắt đầu khi có nhu cầu về thỏa mãn về tình cảm, tâm hồn, trí tuệ,
những nhu cầu về bên trong.
Với chơng trình Ngữ Văn 9, những bài thơ trữ tình đợc đa vào dạy - học phần
lớn đề cập đến những tình cảm đẹp đẽ của con ngời, rất phù hợp với tâm lý tuổi mới
lớn của các em ( tình đồng chí đồng đội, tình bà cháu, tình yêu quê hơng đất nớc, yêu
thiên nhiên.). Ngời giáo viên phải bám sát đặc trng tiếng nói tình cảm của các bài
mà hớng các em vào việc đọc, tìm hiểu, tạo cho các em sự đồng cảm cùng nhà thơ để
đạt hiệu quả cảm thụ.
Tiếp theo việc khơi gợi hng thú đọc là tiến trình dạy - học. Trong tiết dạy -
học, giáo viên cần hớng dẫn các em tự phát hiện, thởng thức tác phẩm, khuyến khích
các em có những cảm nhận, những phát hiện riêng nhng không suy diễn tuỳ tiện, có
những điều trăn trở vấn vơng của các em về tác phẩm cần đợc thầy cô giúp đỡ giải
đáp kịp thời. Sau tiết học, các em đợc mở ra những khả năng mới để tiếp tục thởng
thức, khám phá tác phẩm ở mức sâu, rộng hơn, các em nh cảm nhận đợc những biến
đổi, vận động phong phú hơn trong tâm hồn mình. Với u thế dễ đọc, dễ nhớ và tình
cảm sâu lắng, các bài thơ trữ tình đầy đủ khả năng tạo ra hứng thú cho các em. Ngời
giáo viên bám sát đặc trng thể loại kết hợp với khéo léo khơi dậy tình cảm tiềm ẩn
trong mỗi học trò sẽ từng bớc bồi dỡng đợc hứng thú tiếp nhận tác phẩm cho các em
trong quá trình dạy học.
Cùng với việc bồi dỡng hứng thú, trong điều kiện hiện nay rèn luyện kỹ năng
cảm thụ cho các em, ngời thầy còn phải chú ý đến việc đổi mới phơng pháp bồi dỡng
theo hớng tích hợp, tích cực.
2.Đảm bảo nguyên tắc dạy học văn theo hớng tích hơp, tích cực, giúp các em nắm
vững kiến thức Tiếng Việt để vận dụng phân tích văn bản thơ trữ tình:
7
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
Phát hiện và phân tích bình giá các dấu hiệu nghệ thuật, sử dụng hệ thống câu
hỏi hớng dẫn phân tích bình giá- sử dụng phơng pháp gợi tìm, phơng pháp nghiên
cứu để giúp học sinh làm tốt các bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong chơng trình
lớp 9.
Về chủ quan, các văn bản thơ trữ tình đợc đa vào chơng trình trong thời điểm
cụ thể từng bài, tuần đã đảm bảo tính tích hợp bởi đó là nguyên tắc xây dựng chơng
trình. Tích hợp giữa Văn - Tiếng Việt và Tập làm văn (tích hợp ngang) và tích hợp
dọc các nội dung, các kiểu văn bản đã học từ lớp 6 đến lớp 9. Thực thế dạy - học
Tiếng Việt từ lớp 6 - lớp 9 đã cung cấp cho các em các tri thức về các dấu hiệu nghệ
thuật trong văn bản, nhất là văn bản thơ. Các kiểu từ loại, các kiểu câu, các cách cấu
tạo câu, các phép liên kết , tất cả đều có giá trị sử dụng của chúng. ứng dụng các kiến
thức Tiếng Việt các em sẽ phát hiện và phân tích bình giá các tín hiệu nghệ thuật ấy
để hiểu và cảm thụ bài thơ sâu sắc. Song có điều, những kiến thức về Tiếng Việt có
thể các em đã học từ lớp 6, lớp 7 nên các em dễ quên. Với mỗi bài, các em phải đợc
hớng dẫn ôn tập thờng xuyên để củng cố kiến thức và tăng cờng kỹ năng phát hiện,
vận dụng phân tích. Sau mỗi một bài dạy - học thơ trữ tình cần có bài tập viết đoạn
trình bày cảm thụ để học sinh luyện về kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Thông
thờng, phần luyện tập của mỗi bài đều có, song không nhất thiết phải luyện tập ngay
trên lớp. Phần vì đảm bảo thời gian, phần vì để cho học sinh có độ ngấm sâu hơn
nên cho các em về nhà làm bài tập viết đoạn (vào giấy) và kiểm tra lại bằng cách cho
các em nộp lại cho giáo viên đánh giá.
Phơng pháp dạy học tích cực chỉ ra rằng: ngời học - chủ thể hoạt động - phải tự
mình tìm ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến thức thông qua hành động của chính
mình. Chỉ có bằng hành động tự tìm hiểu khi các em tự nói ra những điều mình cảm
nhận đợc thì bài thơ sẽ sống mãi, và lúc đó quá trình cảm thụ mới thật sự thành
công.
3.Vận dụng cụ thể vào việc rèn kĩ năng.
a. Rèn luyện kĩ năng đọc: Nh trên đã nói, đọc là bớc đầu tạo tiền đề cho hoạt động
tái hiện và có khả năng thực hiện dễ dàng, đầy đủ hoạt động tái hiện. Với tác phẩm
8
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
trữ tình, đọc vừa là đồng cảm, vừa là diễn cảm. Cũng nhờ đọc mà học sinh vừa đợc
chứng kiến, vừa đợc thể nghiệm. Vì thế đọc - tái hiện, tri giác hình tợng thơ là hoạt
động không thể coi nhẹ trong quá trình dạy - học thơ trữ tình. Tái hiện hình tợng
trong thơ không những là một thao tác t duy để đi vào tác phẩm mà còn là một bí
quyết truyền thụ nữa.
Một bài thơ nh bài thơ Bếp lửa chẳng hạn mà việc đọc và tái hiện hình tợng
không thực hiện tốt thì khó thu đợc kết qu. Cả một dòng hoài niệm tuôn chảy theo
thời gian sống dậy trong tâm tởng nhà thơ nếu nh không đợc tái hiện thì khó mà gợi
đợc rung động cảm xúc.
Nhận thức nh vậy nên khi dạy - học bài thơ Bếp lửa tôi chú trọng hớng dẫn
học sinh đọc trớc ở nhà. Đọc và hình dung cảnh Bếp lửa quê hơng có Bà tần tảo
nắng ma, có Bà chăm chút cháu, có Bà gắn liền bên Bếp lửa. Đến lớp, cô giáo bằng
giọng đọc truyền cảm của mình, đọc mẫu cho học sinh đoạn thơ đầu: Một bếp lửa
chờn vờn sống mũi còn cay , sau đó hớng dẫn học sinh đọc và đọc tiếp
trong quá trình phân tích. Kết hợp đọc của thầy, đọc của trò, học sinh đã có những
cảm nhận bớc đầu về bài thơ theo đúng hớng.
Với những bài thơ khác nh bài Đồng chí , Bài thơ về tiểu đội xe không
kính, Mùa xuân nho nhỏ , Viếng lăng Bác là những bài thơ đợc phổ nhạc hoặc
có liên quan đến bài ca nào đó thì bên cạnh việc hớng dẫn đọc, tôi còn hớng dẫn cho
các em su tầm, nghe băng đĩa nhạc, xem băng đĩa hình để giúp các em tái hiện hình
tợng một cách dễ dàng hơn.
b. Cùng với rèn kĩ năng đọc, tái hiện là rèn luyện kĩ năng phát hiện và bình giá
các dấu hiệu nghệ thuật.
Nói đến thơ là nói đến chất thơ, lời thơ. Điều đáng chú ý đầu tiên của hình thức
nghệ thuật trong thơ là nhịp điệu. Thơ là văn bản đợc tổ chức bằng nhịp điệu của
ngôn từ. Nhịp điệu thơ đợc tổ chức đặc biệt để thể hiện nhịp điệu tâm hồn, nhịp điệu
cảm nhận thế giới một cách thầm kín. Nhịp điệu đợc tạo ra bởi sự trùng điệp: Trùng
điệp của âm vận, trùng điệp ở nhịp, ở ý thơ, câu thơ hoặc bộ phận của câu thơ. Ví dụ
nh dạy - học bài Mùa xuân nho nhỏ , phải hớng học sinh chú ý đến nhịp điệu dồn
9
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
dập, hối hả trong bài thơ để thấy đợc khí thế vào xuân tng bừng nhộn nhịp của mùa
xuân đất nớc.
Đặc biệt trong đoạn:
Mùa xuân ngời cầm súng
Lộc giắt đầy trên lng
Mùa xuân ngời ra đồng
Lộc trải dài nơng mạ
Tất cả nh hối hả
Tất cả nh xôn xao
Cùng với nhịp điệu là hình ảnh. Hình ảnh trong thơ trực tiếp truyền đạt sự cảm
nhận thế giới một cách chủ quan. Hình ảnh thơ thờng gợi sự ngâm ngợi và liên tởng.
Hình ảnh trong thơ là yếu tố đợc sử dụng với nhiều chức năng khác nhau (có khi là
những nhân tố trực tiếp của nội dung, là bức tranh nhỏ của cuộc sống, có khi có đợc
qua sự so sánh). Khi dạy các bài thơ trữ tình, cần cho học sinh phát hiện và phân tích
các hình ảnh, giá trị biểu đạt của các hình ảnh để các em cảm thụ nội dung đầy đủ
hơn.
Còn rất nhiều điều các em cần phải phát hiện và phân tích nữa nh: ngôn ngữ,
các biện pháp tu từ, kết cấu. Trong phạm vi thời gian của từng tiết học, dới sự hớng
dẫn của thầy qua mỗi bài sẽ củng cố, rèn luyện thêm cho các em. Bằng hệ thống câu
hỏi hớng dẫn, bằng phơng pháp gợi tìm, nghiên cứu kết hợp với quá trình truyền cảm
thụ của thầy và với tính tích cực đợc phát huy, các em sẽ có đợc kết quả cảm thụ tốt
hơn.
c. Để cho những cảm nhận đợc kiểm nghiệm, để cho những câu thơ, bài thơ hay
sống mãi trong cảm nhận của các em thì chỉ đọc, tìm hiểu cha gọi là đủ. Các em
còn phải biết thể hiện, trình bày cảm nhận của mình.
Kết thúc quá trình dạy - học trên lớp với một tác phẩm trữ tình không phải là
hết mà các em cần tiếp tục suy ngẫm, nhấm nháp, thởng thức. Sau mỗi bài học,
ngời thầy cần ra những bài tập rèn luyện kĩ năng cảm thụ cho học sinh để các em tự
trình bày những điều mà các em đã thu nhận đợc.
10
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
Thông thờng, phần luyện tập của mỗi tiết bài đọc - hiểu đều có bài tập. Thiết
nghĩ không nên yêu cầu học sinh làm ngay tại lớp những bài tập cảm thụ mà nên để
cho học sinh thấm bài học rồi về nhà làm bài tập viết đoạn thể hiện cảm xúc, suy
nghĩ của mình.
Ví dụ: Khi dạy xong bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, tôi yêu cầu các em
làm bài tập cảm thụ.
Bài tập 1: (Cho những học sinh đối tợng trung bình)
Qua bài thơ, em có suy nghĩ gì về những lời hát ru?
Bài tập 2: ( cho học sinh đối tợng khá hơn ).
Suy nghĩ của em về tấm lòng ngời mẹ qua hai câu thơ.
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
Với cả hai bài tập, hai đối tợng sau khi đã đọc, hiểu bài thơ đều đã viết đợc
những đoạn văn thể hiện cảm nhận của mình về lời hát ru. (lời hát ru gắn với tuổi thơ
bên vành nôi và lời hát ru thể hiện tình cảm của ngời mẹ, lời hát ru theo con, tiếp sức
cho con; mẹ là nguồn tình cảm vô tận đối với con , tình thơng của mẹ giành cho con
không gì sánh đợc).
Nói tóm lại: Việc rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua những
bài thơ trữ tình, đặc biệt là những bài thơ hiện đại ở lớp 9 là rất có u thế. Nhng việc tổ
chức biện pháp rèn luyện và nội dung rèn luyện là cả một quá trình đầy những khó
khăn, nhất là với những bài chỉ dạy trong một tiết. Để việc rèn kĩ năng có hiệu quả,
khâu chuẩn bị bài học phải thật chu đáo. Khâu tiếp xúc với tác phẩm phải bằng nhiều
con đờng và tác động nhiều phía. Về nội dung công việc trong tiết dạy - học rèn
luyện kĩ năng phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc, phơng pháp bộ môn. Ngời giáo
viên cần khéo léo khơi gợi hứng thú, có hệ thống câu hỏi xoáy vào những yếu tố
trọng tâm và đặt ra những yêu cầu vừa sức để học sinh từng bớc cảm thụ tác phẩm.
Điều quan trọng là mỗi cá nhân học sinh phải thật sự có ý thức, có tình yêu đối với
tác phẩm và chủ động tìm hiểu thì việc rèn kĩ năng sẽ đạt đợc kết quả trọn vẹn hơn.
d. Sau đây là một vài việc làm trong một tiết bài cụ thể
11
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
Bài Nói với con của Y Phơng ( tiết 122 ).
Nói với con của Y Phơng là một bài thơ nằm trong cảm hứng phổ biến là
lòng thơng yêu con cái, mong muốn thế hệ sau nối tiếp xứng đáng, phát huy truyền
thống của tổ tiên, quê hơng vốn là tình cảm cao đẹp của con ngời Việt Nam từ bao
đời nay. ở bài thơ, Y Phơng đã có một cách nói xúc động của riêng mình. Hình thức
ngời cha tâm tình, dặn dò đối với con đã đem lại cho bài thơ giọng điệu thiết tha trìu
mến, ấm áp và tin cậy. Với bài thơ này khi dạy học, để rèn luyện kỹ năng cảm thụ
cho học sinh, tôi đã tiến hành một số việc làm ở một số công đoạn nh sau:
Để tạo hứng thú tìm hiểu bài thơ, khi hớng dẫn chuẩn bị bài tôi tiến hành đọc
trớc một lần. Với giọng đọc mẫu truyền cảm, tôi gợi cho học sinh hứng thú nghe. Để
các em thích đọc, tôi có giảng giải cho các em đôi điều sơ lợc về cách nói của đồng
bào miền núi - xoá dần cho các các em cảm giác bài thơ này trúc trắc, khó đọc, sau
đó tôi giao nhiệm vụ cụ thể: đọc thầm 2 - 3 lần, đọc to 2 - 3 lần (ở nhà). Nếu có thể
đọc theo trí nhớ 1 - 2 lần (ở lớp) và đọc thuộc lòng khi học xong bài. Và khi dạy -
học trên lớp, tôi có cho điểm đọc. Vì thế học sinh, đầu tiên là quyết tâm đọc để có
điểm cao, sau đó là học thuộc và thích đọc bài thơ.
Cũng để tạo hứng thú, trong giờ học (ngoại khoá) tôi kể chuyện cho các em về
cuộc sống của đồng bào miền núi, dùng hình ảnh giới thiệu cuộc sống của dân tộc
thiểu số (cho các em xem hình ảnh, băng đĩa). Vì thế các em biết đựơc cuộc sống
sinh hoạt của ngời miền núi, giúp các em hiểu cách t duy của đồng bào miền núi,
hiểu các câu thơ trong bài, không ngỡ ngàng khi tìm hiểu tác phẩm.
Khi hớng dẫn các em tìm hiểu bài thơ, tôi gợi ý cho các em tìm hiểu: Nói với
con là khúc tâm tình của ngời cha dặn dò con, thể hiện lòng thơng yêu con của ngời
miền núi mong muốn con phát huy truyền thống của quê hơng. Nội dung này đợc
gắn với nội dung bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên l ng mẹ để các em so
sánh, đối chiếu hiểu thêm về sinh hoạt của các dân tộc ít ngời và niềm ớc mong của
họ, tạo điều kiện cho các em hình thành cảm xúc tự hào, ý nguyện phát huy truyền
thống của cha ông.
12
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
Hoặc khi phân tích đoạn đầu của bài thơ - tôi gợi ý cho các em phân tích hình
ảnh cụ thể gợi không khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc mà ở đó cha mẹ chăm chút
con, thể hiện niềm vui trên từng bớc đi của con Một b ớc chạm tiếng nói, hai bớc
tới tiếng cời , giúp các em hiểu và có thêm tình yêu gia đình và tự hào với gia đình
hạnh phúc.
Để các em có kĩ năng phát hiện và phân tích các biện pháp tu từ của bài thơ,
tôi yêu cầu các em ôn lại các biện pháp điệp ngữ, so sánh để tìm hiểu tác dụng của
chúng trong đoạn thơ; các câu hỏi tập trung khai thác về cách nói giàu hình ảnh,
phóng khoáng và cụ thể, vừa giàu sức khái quát, vừa mộc mạc giàu chất thơ, giọng
điệu thiết tha trìu mến và sau khi học xong bài thơ, tôi yêu cầu các em học sinh suy
nghĩ làm bài tập về nhà.
Bài tập: Nếu em là ngời con trong bài thơ, em sẽ nói với cha mẹ nh thế nào?
Một em học sinh lớp 9C - Em Nguyễn Thị Vân Anh đã phát biểu bằng một bài
thơ rất xúc động:
Nghe cha nói với con
Lời tâm tình tha thiết
Cha ơi cha có biết
Con rất đỗi tự hào
Quê hơng đợc kê cao
Từ bàn tay đục đá
Bàn tay thô sơ đó
Nhng rắn chắc vô cùng.
Quê hơng là tấm lòng,
Nơi mẹ cha ở đó.
Dù con đi xuống bể,
Hay con ở lại rừng
Lời cha con ghi nhớ:
Con chẳng bao giờ nhỏ bé đâu cha!
13
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
c. Kết quả đạt đợc
Qua quá trình dạy - học các tiết bài về tác phẩm thơ trữ tình, với những nội
dung, biện pháp tổ chức thực hiện nh trên, tôi đã đạt đợc kết quả cụ thể là:
1. Kỹ năng đọc diễn cảm.
Cho đến nay học sinh hai lớp 9B, 9C tôi phụ trách đã đạt đợc những kết quả về
kĩ năng đọc là:
Nội dung đọc Lớp Lớp 9B Lớp 9C
- Đọc đúng (ngữ điệu, câu, nhịp thơ)
- Đọc thể hiện tình cảm - đọc sáng tạo
25/34
20/34
30/35
30/35
14
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
2. Kĩ năng phát hiện, phân tích dấu hiệu nghệ thuật
Nội dung Lớp Lớp 9B Lớp 9C
- Biết phát hiện các hình ảnh.
- Biết nhận xét, đánh giá
- Biết trình bày cảm nhận về đoạn thơ, bài thơ
25/34
15/34
25/34
30/35
25/35
32/35
Bài TLV số 6: Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.
Điểm Lớp 9B Lớp 9C
9 10
7 8
5- 6
2
12
13
3
25
7
15
RẩN K NNG CM TH TH VN CHO HS THễNG QUA C - HIU TH TR TèNH HIN I
* Bài học rút ra từ quá trình rèn luyện kĩ năng cảm thụ trên là:
1. Ngời giáo viên dạy thơ phải yêu thơ, ham thích tìm hiểu và có kĩ năng tìm
hiểu, phân tích bình giá thơ và phải có kế hoạch cụ thể để hớng dẫn cho các em.
2. Ngời giáo viên phải khéo léo tác động vào tình cảm của các em, khơi dậy
những tình cảm có sẵn cho các em, tạo điều kiện cho các em nâng cao năng lực cảm
thụ và trong quá trình dạy học; phải có kĩ năng hớng dẫn từng bớc cho học sinh.
3. Sự kết hợp hài hoà giữa chủ động của học sinh với hớng dẫn chu đáo của
giáo viên là điều kiện tất yếu dẫn đến kết quả.
4. Thời lợng quy định trên lớp là bắt buộc song rất ít, cần giành thời gian ngoại
khoá để rèn kĩ năng cho các em.
Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh là việc làm không thể thiếu trong
quá trình dạy học văn chơng, nhất là dạy tác phẩm trữ tình.
Bám sát đặc trng bộ môn, quán triệt các nguyên tắc dạy học, vận dụng phơng
pháp đổi mới, tăng cơng tính tích hợp, tích cực trong quá trình dạy học là những giải
pháp thiết thực để thực hiện rèn kĩ năng .
Bớc đầu những tiết dạy với những nội dung và biện pháp trên, tôi đã thu đợc
kết quả song còn rất hạn chế.
Trong quá trình dạy học những năm sau tôi sẽ tiếp tục bổ sung, rút kinh
nghiệm để đạt hiệu quả tốt hơn.
Ngy thỏng nm 2010
16