Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tên đề tài dạy và học từ vay mượn môn ngữ văn trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.38 KB, 11 trang )

-1-

PHÒNG GIÁO DỤC-TP QUY NHƠN
TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH

Chuyên đ ề Ngữ văn :
TÊN ĐỀ TÀI:

Dạy & học từ vay mượn
môn Ngữ văn
trường Trung học cơ sở

Tổ xã hội
GV:Lê Văn Bình

Năm học 2005 - 2006


-2-

PHẦN I : Mở đầu
1/ Cơ sở lý luận về việc dạy và học từ vay mượn trong môn Ngữ Văn ở
trường THCS .
a.Cơ sở lý luận :
Do sự tiếp xúc giữa các quốc gia và do nhu cầu của từng ngôn ngữ
một, trên thế giới không một ngôn ngữ nào không vay mượn những đơn vị
từ vựng của một ngôn ngữ khác.
Trong Tiếng Việt, các đơn vị từ vay mượn phần lớn là các từ.Ngoài
ra có một số ngữ cố định và quán ngữ có nguồn gốc nước ngoài.
Không phải bất cứ sự thâm nhập từ nước ngoài nào vào ngôn ngữ
cũng là từ vay mượn .Những từ vay mượn phải được cải tạo để có hình


thức ngữ âm, đặc điểm ngữ pháp phù hợp với hệ thống ngữ âm và ngữ
pháp của ngôn ngữ “đi vay”.Sự biến đổi ngữ nghóa của các từ vay mượn
cũng là điều thường thấy .Ví dụ, từ “tử tế”,đây là một từ phức Hán với
nghóa “tỉ mỉ, kỹ càng “.Sang tiếng Việt nó chỉ “cách đối xử giữa người
với người đúng mức, không khinh rẻ, không hắt hủi “… Việc những người
biết ngoại ngữ chen vào trong lời nói bằng tiếng bản ngư,õ những từ giữ
nguyên cách phát âm và ý nghiã nước ngoài thì không phải sự vay mượn.
Do vậy, việc dạy và học từ vay mượn trong môn Ngữ Văn ở trường
THCS là vấn đề cần phải chú trọng .Bỡi vì trong kho tàng ngôn ngữ
Tiếng Việt, lớp từ vay mượn khá nhiều.Do vậy, không nắm và hiểu lớp từ
vay mượn thì không thể dạy và học tốt môn ngữ văn ở trường
THCS.Không thể cảm nhận tác phẩm văn chương.
b.Thực tiễn :
Học sinh bậc THCS, phần lớn không hiểu nghóa của từ vay mượn
(trừ những từ ngữ có trong sách giáo khoa).Các em dùng từ vay mượn
không đúng, tạo sự buồn cười trong khi nói, viết.Ví dụ, văn bản “Ca dao,
dân ca”, lớp 7, tập I, bài”Những câu hát về tình cảm gia đình “có một bài
ca dao nhỏ như sau :
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy.
Học sinh hiểu từ “hai thân” là hai anh cùng vui vẻ.Nhưng thực ra từ “hai
thân” là từ ghép Hán Việt chỉ thân phụ và thân mẫu (cha và mẹ)mới vui
vẻ, khi anh em hoà thuận nhau .
2/Nhiệm vụ của về việc dạy và học từ vay mượn trong môn Ngữ Văn ở
trường THCS .


-3-


a.Nhiệm vụ của về việc dạy và học từ vay mượn trong môn Ngữ
Văn ở trường THCS là phải nắm vốn từ vay mượn .Hiểu thế nào là từ vay
mượn ?
b.Những cơ sở của việc vay mượn và mục đích của việc vay mượn
từ .
c.Học sinh có ý thức sử dụng lớp từ vay mượn để giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt.
3/Những phương pháp và cách thức thực hiện về việc dạy và học từ vay
mượn trong môn Ngữ Văn ở trường THCS .
Sưu tầm lớp từ vay mượn theo từng giai đoạn lịch sử.
Qua các tiết trả bài tập làm văn, giáo viên sửa chữa việc dùng từ
vay mượn của các em.
4/Cơ sở và thời gian tiến hành chuyên đề
-Các bài học về từ mượn của sách giáo khoa môn Ngữ văn bậc
THCS.
-Thời gian tiến hành : Từ tháng 03 năm 2006 .
-Đối tượng nghiên cứu : Học sinh trường THCS Lương Thế Vinh.
PHẦN II : KẾT QUẢ
1/ Thực trạng việc dạy và học từ vay mượn trong môn Ngữ Văn ở trường
THCS .
1.1- Thế nào là từ vay mượn ?
Trong quá trình giao lưu văn hoá, chính trị, kinh tế, sự tiếp xúc
ngôn ngữ giữa dân tộc này với dân tộc khác là đương nhiên. Trong quá
trình đó, ngôn ngữ này vay mượn từ của ngôn ngữ khác để làm giàu cho
tiếng của mình nhằm diễn đạt đầy đủ chính xác suy nghó của con người.
Quá trình vay mượn đó xảy ra liên tục, xuyên suốt từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ khác. Tuy nhiên các từ được vay mượn có hiện tượng“nhập gia
tuỳ tục “nghóa là có hình thức âm thanh cũng như ngữ pháp phù hợp với
hệ thống ngôn ngữ của mình .

Chính sự vay mượn lâu đời mà ngày nay chúng ta khó biết từ nào là
của tiếng Việt, từ nào là vay mượn. Từ nào có hình thức ngữ âm và ngữ
pháp giống tiếng Việt ta cho là từ thuần Việt. Từ nào có hình thức ngữ
âm và ngữ pháp không giống tiếng Việt ta cho là từ vay mượn.
2.1- Cơ sở của việc vay mượn từ :


-4-

Tiếng Việt có những cách thức vay mượn như sau :
a.Giữ về cơ bản dạng âm thanh của từ nước ngoài chỉ âm tiết hoá
hay rút gọn chúng . Như “xà phòng “,”len”,”dạ”…
b.Dịch ý : Đây là cách dùng các từ tố thuần Việt hay Hán Việt để
dịch nghóa của các từ tố trong các từ nước ngoài. Như”ngôi sao” chỉ”
người đẹp,diễn viên xuất sắc” là dịch ý từ “star”của tiếng Anh…
c.Sao phỏng : Là cách vay mượn nghóa của từ tố và quan hệ ngữ
nghóa giữa các từ tố của từ nước ngoài, nhưng từ tố không phải từ tố nước
ngoài mà là từ tố Việt hay Hán Việt. Đây là cách vay mượn cái “Hình
thái bên trong” của từ nước ngoài . Thí dụ : từ “chắn bùn” của tiếng Việt
là sao phỏng từ garde boue của tiếng Pháp (“garde: giữ để chống lại,
boue: bùn)”
Hai cách vay mượn sau là vay mượn không hoàn toàn.
Trong tiếng Việt có những từ vay mượn từ tiếng Hán hay từ tiếng
Nhật hay tiếng Pháp… qua tiếng Hán. Cần phân biệt những từ này với
những từ Hán Việt do tiếng Việt tạo ra.
Thí dụ, từ Hán thật sự “ chế độ , triều đình, ân xá…”.Những từ
mượn tiếng Nhật qua tiếng Hán: đại bản doanh, biện chứng pháp, cộng
hoà …” Hoặc những từ gốc Phạn qua tiếng Hán : Phật, Thích ca, di lặc…
Ngoài những từ vay mượn tiếng Hán, còn khá nhiều từ vay mượn
tiếng Pháp. Những từ này còn giữ dạng đa âm thì tính ngoại lai còn khá

rõ như “xà phòng “, “bù loong”, xăng ti mét… Nếu chúng đã bị rút gọn
còn một âm tiết thì dễ lẫn vào những từ thuần Việt hay Hán Việt đã bị
Việt hoá. Như “lốp “,”phanh”,”len”, “dạ”… Có một số từ vay mượn từ
tiếng Anh sang tiếng Pháp :”mít tinh,bồi “… Các từ vay mượn từ tiếng
Nga theo hình thức nguyên âm thì ít.Chủ yếu tiếng Việt mượn theo lối
dịch ý hay sao phỏng,như:”xô viết”,”kế hoạch năm năm”,”sự thật”(báo
sự thật)…
Các ngữ cố định sau đây cũng vay mượn từ tiếng Hán hay tiếng Ấn u
theo cách phát âm Hán Việt hoặc dịch ý,sao phỏng…
Lấy máu trả máu
->
Dó huyết hoàn huyết
Nhịn ăn nhịn mặc
->
Tiết y súc thực
Từ những cách thức vay mượn trên cho nên việc dạy và học từ vay
mượn trong môn Ngữ Văn ở trường THCS gặp nhiều khó khăn .Học sinh
không nắm được đâu là từ vay mượn, đâu là từ thuần Việt.Khi nào nên
hay không nên dùng từ vay mượn .
3.1- Mục đích của việc vay mượn từ nước ngoaøi :


-5-

Vay mượn từ ngữ nước ngoài để làm phong phú kho tàng từ Tiếng
Việt. Tránh lạm dụng từ mượn quá nhiều trong giao tiếp.Mượn phải đúng
lúc, đúng chỗ.
2/ Nội dung và giải pháp việc dạy và học từ vay mượn trong môn Ngữ
Văn ở trường THCS .
1.1-Những nội dung của lớp từ vay mượn :

Vay mượn vừa là một hiện tượng không tránh khỏi vừa là một biện
pháp tích cực làm phong phú thêm tiếng nói dân tộc.Thái độ “thuần tuý
chủ nghóa”-tức là thái độ từ chối mọi yếu tố ngoại lai-chẳng qua làm
nghèo nàn mà còn làm méo mó và tạo ra những sự quái lạ trong tiếng nói
dân tộc(như sự thay thế”độc lập” bằng”đứng một” mà Bác Hồ đã đưa ra
làm thí dụ để phê phán).Nhưng sự lạm dụng từ vay mượn còn đáng phê
phán hơn nữa.Hiện nay, sự lạm dụng tiếng nước ngoài có hai biểu hiện
chính.Thứ nhất trong việc tạo ra các từ mơí .Gặp một sự vật,hiện tượng,
khái niệm mới, không chịu suy nghó thật kỹ càng để tận dụng khả năng
các từ tố và phương thức tạo từ tiếng Việt (dù rằng có khi các từ mới tạo
ra theo lối Việt Nam chưa thật thoả đáng) để tạo ra từ mới mà đã vội
dùng ngay các từ nước ngoài mà mình biết để biểu thị.Thứ hai là, trong
lời nói, trong khi viết lách, không chịu suy nghó kỹ để dùng các phương
tiện đồng nghóa Việt Nam mà dùng ngay các từ vay mượn đã có trong
tiếng Việt, mặc dầu việc dùng từ vay mượn ở chỗ đó là không cần thiết.
Thí dụ, không phải lúc nào cũng cứ phải dùng:phương tiện, phong trào,
quan sát, tham quan mà có thể dùng mặt, phía, làn sóng, xem xét, đi
thăm…
Hiện nay trong tiếng Việt đang có xu hướng thay thế các từ vay
mượn chỉ những sự vật, hiện tượng thông thường trong cuộc sống bằng
những từ Việt hoặc đã Việt hoá.Sự thay thế này có khi rất tự nhiên, rất
chính xác như sự thay thế”pit tông” bằng quả “nén”,”xi lanh” bằng”hộp
nén”hay sự thay thế”mì chính”bằng”bột ngọt”,”xà phòng bột”bằng”bột
giặt”.Những sự thay thế như vậy ngoài việc đem lại những từ ngữ dễ
hiểu,
chính xác còn có tác dụng sâu xa,lâu dài là luyện cho tiếng Việt (trước
hết là luyện cho các từ tố Việt hoặc đã Việt hoá) những năng lực tạo từ
mới.
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội. Nó không ngừng biến đổi theo
sự vận động của xã hội.



-6-

Sự phát triển của tiếng Việt , cũng như ngôn ngữ nói chung, được
thể hiện trên cả ba mặt :ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.Sự phát triển của từ
vựng diễn theo hai cách :
a. Sự phát triển nghóa của từ ngữ
b. Phát triển số lượng các từ ngữ .
Hầu hết các từ ngữ khi mới hình thành chỉ có một nghóa. Qua quá
trình phát triển, từ ngữ có thêm nghóa mới .Khi nghóa mới hình thành mà
nghóa cũ không bị mất đi thì kết cấu nghóa của từ ngữ trở nên phong phú
hơn, phức tạp hơn và xuất hiện cái gọi là từ ngữ nhiều nghóa. Nhờ đó, từ
ngữ có khả năng biểu đạt nhiều khái niệm hơn, nghóa là từ vựng có khả
năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhận thức và giao tiếp của người bản
ngữ .Phương thức chủ yếu trong sự phát triển nghóa của từ : phương thức
ẩn dụ và hoán dụ , lớp 6 các em đã học.
Sự phát triển từ ngữ về lượng khác với cách phát triển nghóa là phát
triển về chất .Khi tạo thêm từ ngữ , cần lưu ý là rất ít khi một từ ngữ mới
mang vỏ ngữ âm mới hoàn toàn mà thường là được hình thành trên cơ sở
những yếu tố đã có sẵn theo hai phương thức cấu tạo cơ bản là ghép và
láy .Tuy nhiên, hiện nay chỉ có phương thức ghép là có sức sản sinh cao,
nói cách khác, các từ ngữ mới chủ yếu được hình thành theo cách dùng
các yếu tố có sẵn ghép lại với nhau.
Lớp từ vay mượn cũng là hình thức phát triển từ vựng.
Cần lưu ý những lớp từ mới xuất hiện gần đây như : VINAMILK,
VINACAFE … đây là hình thức ngoại lai để tăng sức hấp dẫn khi quảng
cáo sản phẩm chứ nó không phải là lớp từ vay mượn .Những lớp từ ngoại
lai này trở thành khẩu ngữ, ví dụ như HOTEL THANH BÌNH, SHOP
VIỆT TIẾN …

2.2- Những giải pháp của việc dạy và học từ vay mượn :
Phần lớn các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn bậc trung học
cơ sở có rất nhiều từ Hán Việt .Vậy dạy và học từ Hán Việt như thế nào ?
2.2/1.Từ Hán Việt là gì ?
-Từ Hán Việt là từ gốc Hán nhưng đọc theo cách Việt, viết bằng chữ cái
La-tinh và đặt vào trong câu theo văn phạm Việt Nam.
-Nhiều nhà ngôn ngữ học cho biết từ Hán Việt chiếm một tỉ lệ khoảng 60
– 70% số từ trong tiếng Việt.-Lúc nói và viết, việc hiểu đúng, dùng đúng
từ Hán Việt rất quan trọng.Có hiểu từ Hán Việt mới có thể hiểu sâu và
thưởng thức được cái hay cái đẹp của thơ văn cổ Việt Nam, bản sắc văn
hoá Việt Nam, mới có thể nói và viết vừa đúng vừa hay.
2.2/2.Yếu tố Hán Việt.


-7-

a-Tiếng (chữ) để cấu tạo từ Hán Việt gọi là yếu tố Hán Việt
Ví dụ:
-Xuất / quy û/ nhập / thần -> 4chữ, 4 tiếng, 4 yếu tố Hán Việt.
b-Có những yếu tố Hán Việt được dùng độc lập như : sơn, thuỷ,
thiên, địa, phong, vân, tuyết, nguyệt, mộc, chi, diệp,v.v…Đó là các danh
từ, tính từ, động từ, trạng từ, số từ, … mà ta dễ tìm thấy.
c-Có những yếu tố Hán Việt không dùng độc lập, hoặc ít dùng độc
lập như từ, mà chỉ dùng để tạo từ ghép .
Ví dụ :
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt có 28 yếu tố Hán
Việt nhưng các từ : “tiệt nhiên “, “như hà”ø, “nhữ đẳng” đều được ghép
bằng 2 yếu tố Hán Việt mới có nghóa .
-Tiệt nhiên : rõ ràng như thế không thể khác
-Như hà: làm sao (cớ chi )

-Nhữ đẳng : bọn chúng mày
d.Có những yếu tố Hán Việt đồng âm nhưng nghóa khác xa.Phải
nhìn mặt chữ (nếu biết chữ Nho )Hoặc qua văn cảnh, ngữ cảnh mà hiểu
được yếu tố Hán Việt, hiểu được câu, chữ Hán.
Ví dụ : Yếu tố Hán Việt “Hữu”
-Hữu : bạn
-> tình bằng hữu.
-Hữu : bên phải -> hữu ngạn sông Hồng
-Hữu : có
-> hữu danh vô thực.
e.Có hiểu được nghóa của yếu tố Hán Việt thì mới hiểu được nghóa
của từ Hán Việt, mới hiểu được câu văn câu thơ.
Ví dụ : chữ “ngưu” có nghóa là con trâu ; cũng có nghóa là sao
Ngưu.Câu thơ thứ hai trong bài “Thuật hoài “ của Phạm Ngũ Lão :”Tam
quân tì hổ khí thôn Ngưu “.Có nghóa là :Ba quân (hùng mạnh như ) hổ
báo, có thể nuốt, làm mờ đi (thôn :thôn tính) sao Ngưu (trên bầu trời )
Vì không hiểu nghóa chữ Ngưu nên có vị giáo sư, đầu những năm
60 của thế kỷ XX đã dịch thành : “Ba quân hùng khí nuốt trôi trâu “
Thật là ngô nghê, buồn cười !
2.2/3.Từ ghép Hán Việt
a.Từ ghép Hán Việt có hai loại :Từ ghép đẳng lập và từ ghép chính
phụ.
b.Từ ghép đẳng lập do hai hoặc hơn hai tiếng Hán Việt có nghóa
hợp thành. Các tiếng ấy phải cùng chung từ loại :Danh từ ghép với danh
từ ,tính từ ghép với tính từ, động từ ghép với động từ.Và phải căn cứ vào
văn cảnh để xem xét. Ví dụ:


-8-


-Quốc gia
->quốc (nước) +gia(nhà)
Thi ca
->thi (thơ) +ca(bài hát )

Câu thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư “, chỉ có “sơn hà”
là từ ghép đẳng lập

Hai câu thơ sau, thì “phong nguyệt”(trăng gió ) và“yên hà
(khói sóng) là từ ghép đẳng lập :
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
2.2/4.Từ ghép chính phụ.
Từ ghép chính phụ Hán Việt được ghép theo hai kiểu trật tự :Tiếng chính
đứng trước, tiếng phụ đứng sau; tiếng phụ đứng trước, tiếng chính đứng
sau.
a.Từ ghép chính phụ Hán Việt: Tiếng chính đứng trước, tiếng phụ
đứng sau :
Ví dụ : ái quốc, đại diện (đại :thay ; diện : mặt),(hữu hiệu…)
Nay ta hát một thiên ái quốc,
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta
->Cách ghép chính phụ này giống cách ghép chính phụ trong tiếng Việt.
b.Từ ghép chính phụ Hán Việt :Tiếng phụ đứng trước, tiếng chính
đứng sau:
-Khi tiếng chính chỉ sự vật, tiếng phụ bổ ngữ cho tiếng chính .Ví dụ:
Quốc kỳ
: cờ của nước
Hồng ngọc : ngọc màu đỏ
-Khi tiếng chính chỉ hoạt động, tính chất, tiếng phụ miêu tả mức độ sắc
thái , địa điểm, …của hoạt động, tính chất.

Ví dụ: Kịch tính : Tính chất kịch
2.2/5.Sử dụng từ Hán Việt :
Phải hiểu nghóa từ Hán Việt để sử dụng cho đúng , cho hợp lý, cho hay
lúc giao tiếp, để hiểu đúng văn bản, nhất là học thơ văn cổ. Tiếng Việt
trong sáng , giàu đẹp, một phần do ông cha ta đã sử dụng một cách sáng
tạo từ Hán Việt.
Sử dụng từ Hán Việt đúng cảnh, đúng người, đúng tình… có thể tạo
nên không khí nghiêm trang, trọng thể, biểu thị thái độ tôn kính, trân
trọng lúc giao tiếp . Từ Hán Việt có thể làm cho thơ văn thêm đẹp : cổ
kính, hoa mỹ, trang trọng và tao nhã.
2.2/6-Thông qua các bài học về Tiếng Việt, học sinh có một lớp từ
vay mượn nhất định trong vốn từ của các em .Ngoài ra, trong các giờ hoïc


-9-

văn, giáo viên cần cho học sinh đọc chú thích , chú giải từ và giáo viên
khăùc sâu những từ Hán Việt cho học sinh cần nắm .
2.2/7-Học sinh nắm sự phát triển nghóa của từ : Hai phương thức
chủ yếu phát triển nghóa của từ ngữ : Phương thức ẩn dụ và phương thức
hoán dụ.
Ví dụ :Từ ”chân”trong câu :

a)

Đề hều lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con
(Nguyễn Du)
b)Năm em học sinh lớp 9A có chân trong đội tuyển của trường đi
dự “Hội khoẻ Phù Đổng “.

c)
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân
Từ “chân “ ở câu a dùng với nghóa gốc. Từ “chân “ ở câu dùng với
nghóa chuyển theo phương thức hoán dụ. Từ “chân “ ở câu c dùng với
nghóa chuyển theo phương thức ẩn dụ.
-Cho học sinh tạo thêm từ ngữ mới bằng cách ghép một yếu tố x
+yếu tố Hán Việt cho sẵn. Ví dụ : x+tặc =Lâm tặc/ không tặc / hải tặc…
2.2/8-Học sinh phải thấy được tại sao người ta dùng từ Hán Việt để
đặt tên người như :Nhân, Nghóa, Lễ, Trí, Đức…Vì đó là những từ gốc
Hánmang màu sắc trang trọng. Trong khi đó dùng từ thuần Việt đặt tên
địa danh, tên chợ, tên sông… như chợ Lớn , chợ Cây Me… , đặt như vậy
thật là gần gũi và bình dị .
PHẦN III : KẾT LUẬN
1-Xuất phát từ cơ sở lý luận, thực tiễn dạy và học môn ngữ văn ở
trường THCS, cho nên việc dạy và học từ vay mượn là vấn đề rất quan
trọng và cần thiết. Nếu như việc dạy tốt và học tốt từ vay mượn thì chúng
ta hiểu đúng nội dung và tinh thần , giá trị của những tác phẩm văn
chương. Chúng ta cũng đã góp phần giữ gìn và trau dồi, làm giàu thêm
kho tàng tiếng Việt. Chúng ta cũng đã giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Chúng ta tránh những suy nghó mặc cảm là tiếng mẹ đẻ của chúng
ta sử dụng nhiều từ ngữ vay mượn , mặt khác , có ý thức chọn lọc, cân
nhắc khi sử dụng từ ngữ vay mượn, không nên lạm dụng.
2-Với những khả năng và tư duy, kinh nghiệm giảng dạy bộ môn cóù
giới hạn , tôi mong rằng chuyên đề “Dạy và học từ vay mượn trường


- 10 -

THCS “ sẽ góp một phần nhỏ trong việc dạy và học lớp từ vay mượn

được tốt hơn, hiệu quả hơn.
Ví dụ, qua các bài kiểm tra môn ngữ văn theo hướng trắc nghiệm
và tự luận, hầu hết các em học sinh đều trả lời đúng và sử dụng từ vay
mượn một cách có ý thức.Cụ thể, ở các tiết kiểm tra có phần Tiếng Việt,
thí dụ, trong các từ sau từ nào là từ Hán Việt ?
A. Tráng só
B. Người lính
C. Trẻ em.
Các em sẽ chọn phương án trả lời là A.
Trong phần tập làm văn, với đề bài : Hãy tả phiên chợ theo tưởng
tượng của em.Học sinh đã xây dựng đoạn văn có dùng nhiều từ Hán Việt,
tạo sắc thái trang trọng.
“Chợ quê Bình Định tấp nập và đông vui là biểu hiện sinh hoạt
mang tính văn hoá cộng đồng cùa người Việt. Đó là nơi giao lưu, trao đổi
hàng hoá. Chợ là biểu tượng của sự thanh bình, sung túc và trù phú. Em
mong sao chợ quê Bình Định mãi mãi là phiên chợ an sinh, sầm uất.”
(Bài viết em Võ Ngọc i Vi, lớp 6A1 – năm học 2005-2006)
Quy Nhơn, ngày 20 tháng 05 naêm 2006


- 11 -



×