Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

ứng dụng kỹ thuật tin học trong kiểm toán dự toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 48 trang )


KIÊM TOÁN NHÀ NƯỚC
KIÊM TOÁN NHÀ NƯỚC CHUYÊN NGÀNH IV


ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ





ỨNG DỤNG KỸ THUẬT TIN HỌC TRONG KIỂM TOÁN
DỰ TOÁN CÔNG TRÌNH ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN







Chủ nhiệm đề tài: Th.S LÊ ĐỨC THỌ







9415

Hà Nội, năm 2012


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DNNN - Doanh nghiệp Nhà nước
GPMB - Giải phóng mặt bằng
KTNN - Kiểm toán Nhà nước
NSNN - Ngân sách Nhà nước
TSCĐ - Tài sản cố định
TSLĐ - Tài sản lưu động
XDCB - Xây dựng cơ bản
WB - Ngân hàng thế giới


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 01
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ứng dụng phần mềm hỗ trợ kiểm toán
dự toán trong kiểm toán báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ
bản 04
1.1. Lý luận chung về công trình đầu tư xây dựng cơ bản và dự toán công
trình đầu tư xây dựng cơ bản 04
1.1.1.
Đặc điểm công trình đầu tư xây dựng cơ bản 04
1.1.2. Cơ sở lý luận và yêu cầu lập dự toán công trình XDCB 09
1.2. Cơ sở lý luận về kiểm toán dự toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản
trong cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản 11
1.3. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán báo cáo quyết
toán đầu tư xây dựng cơ bản 18
1.4. Sự cần thiết phải ứng dụng phần mềm hỗ trợ kiểm toán 19
Chương 2. Tổ chức ứng dụng phần mềm hỗ trợ kiểm toán dự toán trong
cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản 22

2.1. Lựa chọn phần mềm hỗ trợ kiểm toán dự toán trong cuộc kiểm toán báo
cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản 22
2.2. Th
ực hiện ứng dụng phần mềm hỗ trợ kiểm toán dự toán 25
2.2.1. Khởi động chương trình và thiết lập các thông số ban đầu 26
2.2.2. Nạp Cơ sở dữ liệu 31
2.2.3. Nhập dữ liệu vào dự toán 32
2.3. Đánh giá hiệu quả ứng dụng phần mềm hỗ trợ kiểm toán dự toán 39
2.3.1. Tính chính xác 39
2.3.2. Tính hiệu quả 40
2.3.3. Nâng cao năng lực kiểm toán 40


2.4 Các giải pháp để đảm bảo thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong kiểm toán 41
KẾT LUẬN 42
Danh mục tài liệu tham khảo 44


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã dành những khoản
ngân sách lớn cho đầu tư xây dựng để phục vụ sự tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế, trong khi đó hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng còn thiếu, chưa đồng bộ và thường
xuyên có s
ự thay đổi dẫn đến nhiều sai sót trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ
bản.
Trong quản lý đầu tư xây dựng, dự toán là một trong những khâu rất

quan trọng, bao gồm lập tổng dự toán xây dựng công trình và dự toán chi tiết
các hạng mục (gọi chung là dự toán). Dự toán là cơ sở để điều chỉnh tổng
mức đầu tư, là căn cứ để triển khai công tác đấu th
ầu xây dựng, mua sắm thiết
bị, xác định giá thành xây dựng, …; là căn cứ để thực hiện giám sát, quản lý
chi phí đầu tư xây dựng và thực hiện quyết toán vốn đầu tư.
Dự toán được lập căn cứ vào khối lượng công việc theo thiết kế kỹ
thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công và đơn giá xây dựng, định mức chi phí.
Trong khi thực tế tại mỗi tỉnh, thành ph
ố, địa phương lại có đơn giá, định mức
khác nhau. Mặt khác, quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng không tránh
khỏi những phát sinh, thay đổi về thiết kế, khối lượng công việc, giá cả
nguyên vật liệu, thiết bị, chi phí nhân công, … dẫn đến những điều chỉnh về
dự toán.
Do vậy, có thể thấy việc lập, thẩm định dự toán là công việc hết sức
phứ
c tạp. Đặc biệt là đối với dự án đầu tư xây dựng quy mô lớn, kỹ thuật cao,
các dự án mà có những công tác xây dựng chưa có trong hệ thống định mức
của Nhà nước.
Chính vì vậy, việc kiểm toán dự toán công trình xây dựng trong kiểm
toán báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản đòi hỏi ở mức độ phức tạp


2
hơn, chuyên sâu hơn nhằm có thể kiểm tra, đánh giá được sự hợp lý trong
công tác lập dự toán và thẩm định dự toán, làm cơ sở để đưa ra đánh giá kết
luận về báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản. Đây là công việc có khối
lượng lớn, tập trung nhiều thời gian, cần thu thập nhiều thông tin (về văn bản
chế độ, chính sách của Nhà nước trong quản lý đầu t
ư xây dựng; về tổng dự

toán, dự toán; về những điều chỉnh tổng dự toán, dự toán do thay đổi thiết kế,
phát sinh khối lượng, thay đổi đơn giá, định mức, … qua nhiều thời gian khác
nhau…)
Như vậy có thể thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình
kiểm toán này là rất cần thiết, nhằm đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán,
giúp cho việc quản lý và sử
dụng các nguồn vốn cho đầu tư XDCB ngày càng
tiết kiệm, hiệu quả, ngăn ngừa tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Kiểm toán Nhà nước trong những năm qua đã từng bước hiện đại hoá
trong kiểm toán bằng việc ứng dụng một số phần mềm hỗ trợ kiểm toán dự
toán công trình XDCB. Tuy nhiên, việc áp dụng còn mang tính chất nhỏ lẻ
cho từng hạng mục công việc và phải dùng nhiều thao tác kết hợ
p, chưa mang
tính toàn diện và hoàn thiện đòi hỏi phải nghiên cứu và đưa ra quy trình và
phương pháp ứng dụng có hiệu quả phần mềm hỗ trợ kiểm toán dự toán trong
cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán dự án đầu tư XDCB.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về tổ chức kiểm toán dự toán trong cuộc kiểm toán
báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản
Đánh giá thực trạng ứng dụ
ng công nghệ thông tin trong kiểm toán báo
cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản của Kiểm toán Nhà nước
Đề xuất giải pháp ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong kiểm
toán dự toán báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


3
- Đối tượng nghiên cứu: Là quy trình kiểm toán dự toán trong kiểm
toán báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản trong điều kiện

ứng dụng công nghệ thông tin
- Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn về kiểm toán dự toán trong cuộc kiểm
toán báo cáo quyết toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp,…
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả và tính chính xác trong việc
kiểm toán dự toán công trình xây dựng cơ bản nói riêng và kiểm toán dự án
đầu tư xây dựng cơ bản nói chung của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu:
Hướng dẫn kiểm toán viên thao tác thành thạo công tác kiểm toán dự
toán trong việc thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán dự án đầu tư xây dựng
một cách nhanh chóng và chính xác. Trên cơ sở đó nâng cao chất lượ
ng kiểm
toán và rút ngắn thời gian thực hiện mỗi cuộc kiểm toán.


4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ỨNG DỤNG PHẦN MỀM HỖ TRỢ
KIỂM TOÁN DỰ TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO QUYẾT TOÁN
CÔNG TRÌNH ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
1.1. Lý luận chung về công trình đầu tư xây dựng cơ bản và dự
toán công trình đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1. Đặc điểm công trình đầu tư xây dựng cơ bản
Thông thường ta có thể hiểu dự án đầu tư xây dựng là tập tài liệu
nghiên cứu các điều kiện kinh tế, kỹ thuật, xã hội… để nhà đầu tư có cơ sở bỏ
vốn vào xây dựng một công trình và khai thác công trình đ
ó nhằm đạt đến
những hiệu quả kinh tế nhất định cho bản thân họ và xã hội.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì dự án đầu tư là tổng thể các chính
sách, hoạt động và chi phí có liên quan nhau được hoạch định nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định
Theo định nghĩa của Luật Xây dựng ngày 26 tháng 11 năm 2003 thì dự
án đầu tư xây dựng công trình là tập hợp các
đề xuất có liên quan đến việc bỏ
vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm
mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm,
dịch vụ trong một thời gian nhất định.
Hoạt động xây dựng bao gồm lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư
xây dựng công trình, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án
đầu tư xây d
ựng công trình, lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng và
các hoạt động khác có liên quan đến xây dựng công trình.
Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của
con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết
định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần
dưới mặt nước và phần trên mặ
t nước, được xây dựng theo thiết kế. Công


5
trình xây dựng bao gồm công trình xây dựng công cộng, nhà ở, công trình
công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, năng lượng và các công trình khác với một
số đặc điểm như sau:
Sản phẩm dự án đầu tư xây dựng có tính chất cố định, nơi đầu tư xây
dựng gắn liền với nơi tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện địa
chất, thuỷ v
ăn;
Sản phẩm dự án đầu tư xây dựng thường có quy mô, kết cấu phức tạp,

chu kỳ sản xuất dài;
Sản phẩm đầu tư xây dựng có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng sản
phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác;
Sản phẩm đầu tư xây dựng mang tính tổng hợp về kinh tế, kỹ thuậ
t, xã
hội, an ninh quốc phòng;
Sản phẩm của dự án đầu tư xây dựng có tính đơn chiếc, riêng lẻ.
Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng
cơ bản:
- Quy hoạch:
Quy hoạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hiệu quả của hoạt động
đầu tư xây dựng cơ bản. Nếu quy ho
ạch sai sẽ dẫn đến lãng phí công trình đầu
tư. Thực tế đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm qua cho thấy, nếu quy
hoạch sai sẽ dẫn đến tình trạng các công trình không đưa vào sử dụng được
hoặc thua lỗ kéo dài phải phá sản. Nếu quy hoạch dàn trải sẽ làm cho việc đầu
tư xây dựng cơ bản manh mún, nhỏ lẻ, ít hiệu quả. Nhưng nếu không có quy
hoạch thì hậu qu
ả lại càng nặng nề hơn. Khi đã có quy hoạch cần phải công
khai quy hoạch để người dân và các cấp chính quyền đều biết. Trên cơ sở quy
hoạch, cần phải đưa vào kế hoạch đầu tư, khuyến khích các khu vực vốn tham
gia đầu tư để tránh tình trạng quy hoạch treo.


6
- Hệ thống các chính sách pháp luật về đầu tư xây dựng
Hệ thống các chính sách pháp luật nói chung và đầu tư xây dựng cơ bản
nói riêng phải được thể chế hoá. Các văn bản quy phạm pháp luật tạo ra hành
lang pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Hệ thống các
chính sách pháp luật có ảnh hưởng sâu rộng và trực tiếp đến hoạt động đầu tư

xây dựng cơ bản và do vậy có ảnh hưởng to lớn đến hiệu quả của hoạt động
đầu tư xây dựng cơ bản. Hệ thống chính sách pháp luật vừa thiếu vừa yếu sẽ
dẫn đến tình trạng có nhiều kẽ hở tạo điều kiện cho tiêu cực, tham nhũng, thất
thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Hệ thống chính sách pháp luật
đầy đủ nh
ưng không sát thực, chồng chéo, nhiều thủ tục phiền hà cũng làm
nản lòng các nhà đầu tư và do vậy gián tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động đầu tư xây dựng cơ bản.
Các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và các văn bản quy phạm
pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản được xây dựng nhằm điều chỉnh các lĩnh
vực hoạt độ
ng của đời sống xã hội. Do vậy các chính sách pháp luật cũng
được bổ sung sửa đổi khi mà bản thân nó không còn đáp ứng được yêu cầu
trong tình hình mới đã thay đổi. Để có thể quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
được tốt, nhà nước phải luôn luôn cập nhật sự thay đổi của tình hình đầu tư
xây dựng cơ bản để từ đó bổ sung sửa đổi hệ thống chính sách pháp lu
ật về
đầu tư xây dựng cơ bản cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
đầu tư xây dựng cơ bản.
- Năng lực bộ máy quản lý hành chính nhà nước
Năng lực tổ chức bộ máy có ảnh hưởng quan trọng quyết định đến hiệu
quả hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Năng lực tổ chức bộ máy
ở đây bao
gồm năng lực con người và năng lực của các tổ chức tham gia vào lĩnh vực
đầu tư xây dựng cơ bản. Nếu năng lực con người và tổ chức bộ máy yếu thì


7
không thể có hiệu quả cao trong đầu tư xây dựng cơ bản. Tổ chức bộ máy
tham gia vào hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản rất rộng, từ khâu lập quy

hoạch kế hoạch, đến khâu chuẩn bị đầu tư, tổ chức đấu thầu, thi công, nghiệm
thu quyết toán, đưa công trình vào sử dụng, Công tác quản lý hành chính
trong đầu tư xây dựng cơ bản cũng có ảnh hưởng l
ớn đến hiệu quả của hoạt
động đầu tư. Thực tế cho thấy nếu quản lý yếu kém, quan liêu, thủ tục rườm
rà sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu tư và hậu quả là hiệu quả hoạt động đầu tư
thấp.
Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng thuộc đối tượng của KTNN
Theo chức năng và nhiệm vụ
của Cơ quan KTNN Việt Nam thì đối
tượng kiểm toán của các kiểm toán chuyên ngành dự án đầu tư xây dựng
thuộc KTNN là các dự án đầu tư xây dựng có sử dụng nguồn vốn NSNN; dự
án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng phát triển của
Nhà nước; dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN có quy mô lớn và
dự án công trình quan trọng quốc gia.
Đặc điể
m của dự án đầu tư xây dựng thuộc đối tượng của KTNN có
ảnh hưởng không nhỏ đến các tác nghiệp của kiểm toán viên khi thực hiện
kiểm toán báo cáo quyết toán dự án đầu tư xây dựng. Cụ thể:
Một là, Dự án đầu tư xây dựng thuộc đối tượng kiểm toán của KTNN là
những dự án lớn có sử dụng nguồn vốn NSNN, nên các ban quản lý dự án
được hình thành và hoạt động theo mô hình các
đơn vị sự nghiệp có thu. Đội
ngũ cán bộ quản lý có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, hệ thống kiểm soát
nội bộ thường hoạt động có hiệu quả. Mặt khác, vì các dự án sử dụng nguồn
vốn NSNN nên cũng thường xuyên chịu sự thanh tra, kiểm tra do các cơ quan
chức năng của Nhà nước thực hiện (Thanh tra Tài chính, thanh tra ngành,
thanh tra địa phương, …). Do vậy, khi thực hiện khảo sát thu thập thông tin
phục vụ
cho việc lập kế hoạch kiểm toán đòi hỏi các kiểm toán viên phải đánh



8
giá đúng đắn về môi trường pháp lý cho hoạt động của các ban quản lý, hệ
thống kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở đó xác định đúng rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm toán trên cơ sở tham khảo các kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm tra
trước đó đối với dự án cũng như ban quản lý dự án.
Hai là, Dự án đầu tư xây dựng thuộc đối tượng kiểm toán củ
a KTNN là
những dự án lớn, trọng điểm quốc gia có vốn đầu tư lớn, ảnh hưởng trên địa
bàn rộng, số lượng các hộ dân bị ảnh hưởng phải di chuyển tái định cư để
phục vụ công tác đền bù GPMB nhiều. Hơn nữa, xuất phát từ đặc điểm khách
quan là sản phẩm dự án đầu tư phụ thuộc trực tiếp vào điều ki
ện địa chất thuỷ
văn, lực lượng sản xuất luôn di động phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên
khi công tác điều tra khảo sát không tốt sẽ dẫn đến lãng phí nghiêm trọng. Do
vậy, cần có biện pháp để kiểm tra và đánh giá việc quản lý và sử dụng vốn
đầu tư ngay từ khâu đầu tiên của quá trình đầu tư là việc xác định chủ trương
đầu tư, lựa ch
ọn địa điểm, điều tra khảo sát để dự án đầu tư đảm bảo tính khả
thi cao.
Ba là, Dự án đầu tư xây dựng thuộc đối tượng kiểm toán của KTNN là
những dự án đòi hỏi khối lượng vốn lớn, vật tư lao động và máy thi công
nhiều. Do vậy, trong quản lý kinh tế, quản lý tài chính, hoạt động đầu tư xây
dựng đòi hỏi các ban quản lý và chủ
đầu tư phải làm tốt công tác kế hoạch
hoá vốn đầu tư, lập định mức kinh tế kỹ thuật và quản lý theo định mức. Với
chu kỳ sản xuất dài, vốn đầu tư bỏ vào để xây dựng dễ bị ứ đọng gây lãng phí.
Nếu thiếu vốn sẽ làm công tác thi công bị gián đoạn, kéo dài thời gian thi
công xây dựng. Do đó yêu cầu trong công tác quản lý tài chính, quản lý kinh

tế phải có kế
hoạch, tiến độ thi công tốt để rút ngắn thời gian xây dựng, tiết
kiệm lao động, chi phí quản lý để giảm được chi phí đầu tư. Trên giác độ tài
chính phải có giải pháp quản lý chi phí và quản lý trong công tác thanh quyết
toán vốn đầu tư.


9
Qua việc phân tích các đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng thuộc đối
tượng kiểm toán của KTNN đòi hỏi khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên
phải đánh giá được công tác quản lý sử dụng vốn và tài sản tại các ban quản
lý, phát hiện được các hành vi gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư của Nhà
nước không những trong quá trình thi công xây dựng dự án mà còn cả vấn đề
lãng phí do công tác điều tra khảo sát không tố
t dẫn đến việc ra quyết định về
chủ trương đầu tư không đúng.
1.1.2. Cơ sở lý luận và yêu cầu lập dự toán công trình xây dựng cơ
bản
Khái niệm, vai trò và đặc điểm dự toán xây dựng công trình
Dự toán xây dựng công trình được lập cho từng công trình, hạng mục
công trình xây dựng theo khối lượng của hồ sơ thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản
vẽ
thi công, và đơn giá, định mức tương ứng.
Dự toán xây dựng công trình được lập là căn cứ để lập kế hoạch và
quản lý vốn đầu tư xây dựng, là cơ sở để xác định Tổng mức đầu tư và giao
nhận thầu xây lắp.
Dự toán công trình giúp cho việc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công
trình đảm bảo mục tiêu, hiệu quả dự án đầu tư xây dựng công trình và các yêu
cầu khách quan c
ủa kinh tế thị trường.

Dự toán công trình giúp cho việc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công
trình, phù hợp với các giai đoạn đầu tư xây dựng công trình, các bước thiết
kế, loại nguồn vốn và các quy định của nhà nước.
Dự toán công trình bao gồm chi phí xây dựng (chi phí trực tiếp, chi phí
chung, thu nhập chịu thuế tính trước, thuế giá trị gia tăng, chi phí nhà tạm tại
hiện trường để ở và điều hành thi công), chi phí thiết bị
, chi phí quản lý dự án,
chi phí tư vấn đầu tư xây dựng, chi phí khác, chi phí dự phòng.
Yêu cầu lập dự toán


10
Việc lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình hay lập dự toán
công trình phải đảm bảo mục tiêu, hiệu quả đầu tư, đồng thời phải đảm bảo
tính khả thi của dự án đầu tư xây dựng công trình; đảm bảo tính đúng, tính đủ,
hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế, yêu cầu khách quan của cơ chế thị
trường và theo quy định của Nhà nước; phù h
ợp với thời gian xây dựng.
Dự toán công trình được lập theo tứng công trình cụ thể và phải phù
hợp với giai đoạn đầu tư xây dựng công trình, các bước thiết kế và phù hợp
với thời gian xây dựng.
Cơ sở lập dự toán:
Dự toán xây dựng công trình (dự toán) đóng vai trò quan trọng trong
việc thiết lập nên kế hoạch tài chính cho một dự án đầu tư xây dựng. Cơ sở để
l
ập dự toán dựa trên cơ sở các tài liệu sau:
- Khối lượng công tác được xác định theo tài liệu thiết kế kỹ thuật, thiết
kế bản vẽ thi công, nhiệm vụ công việc phải thực hiện của công trình, hệ
thống định mức, chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng công trình, định
mức chi phí theo tỷ lệ phần trăm (%) cần thiết để thực hiện khối lượ

ng, nhiệm
vụ công việc đó. Dựa vào các bản vẽ thiết kế của công trình, bao gồm cả bản
vẽ kiến trúc và bản vẽ kết cấu, bản vẽ mặt bằng các tầng, các mặt cắt điển
hình và những chi tiết khác có liên quan của công trình, người lập dự toán có
thể đo bóc các khối lượng chính xác các bản vẽ phải rõ ràng, hoàn chỉnh và
đầy đủ các kích thước, có sự phù hợp giữa kích th
ước thực tế và tỷ lệ thể hiện
trong bản vẽ.
- Các đơn giá được quy đinh theo từng khu vực lãnh thổ và theo từng
loại công tác riêng biệt trên cơ sở các định mức chi phí về vật liệu, lao động,
xe máy thi công cần thiết để hoàn thành một đơn vị khối lượng công tác và
các bảng giá vật liệu, cước vận chuyển, giá ca máy, tiền lương của công nhân
xây lắp. Nếu các bảng giá này được tính phù hợ
p với mức giá trên thị trưởng


11
thì giá sản phẩm xây dựng được xác định bằng phương pháp lập dự toán cũng
sẽ mang tính chất như giá thị trường.
- Các thuyết minh, chỉ dẫn và yêu cầu kỹ thuật trình bày chính xác về
đặc tính và chủng loại nguyên vật liệu sẽ được sử dụng.
Việc xác định đúng đắn khối lượng công tác xây lắp cần thiết để sản
xuất sản phẩm xây dựng cũng như xác
định luận chứng kinh tế giá trị dự toán
đơn vị của các loại công tác, kết cấu xây lắp khác nhau có tính chất quyết
định chất lượng của các tài liệu lập dự toán.
1.2. Cơ sở lý luận về kiểm toán dự toán công trình đầu tư xây dựng
cơ bản trong cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản
Tất cả các dự án đầu tư sử dụng vốn NSNN, v
ốn tín dụng do Nhà nước

bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước sau khi hoàn thành đưa
dự án vào khai thác, sử dụng đều phải quyết toán vốn đầu tư theo quy định
Vốn đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp đã thực hiện
trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng. Chi phí hợp pháp
là chi phí được thực hiện đúng với hồ sơ thiết k
ế - dự toán đã phê duyệt, bảo
đảm đúng quy chuẩn, định mức, đơn giá, chế độ tài chính - kế toán, hợp đồng
kinh tế đã ký kết và những quy định của Nhà nước có liên quan. Vốn đầu tư
được quyết toán phải nằm trong giới hạn tổng mức đầu tư được cấp có thẩm
quyền phê duyệt hoặc điều chỉnh (nếu có).
Yêu cầu đối với báo cáo quy
ết toán dự án đầu tư xây dựng:
Báo cáo quyết toán dự án đầu tư xây dựng phải xác định đầy đủ, chính
xác tổng chi phí đầu tư đã thực hiện; phân định rõ nguồn vốn đầu tư; chi phí
đầu tư được phép không tính vào giá trị tài sản hình thành qua đầu tư dự án;
giá trị tài sản hình thành qua đầu tư: TSCĐ, TSLĐ; đồng thời phải đảm bảo
đúng nội dung, thời gian lập, thẩm tra và phê duy
ệt theo quy định.


12
Đối với các dự án nhóm A gồm nhiều dự án thành phần hoặc tiểu dự
án, trong đó nếu từng dự án thành phần hoặc tiểu dự án có thể độc lập vận
hành khai thác hoặc thực hiện theo phân kỳ đầu tư được ghi trong văn bản phê
duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc văn bản quyết định chủ trương đầu
tư của cấp có thẩm quyền, thì mỗ
i dự án thành phần hoặc tiểu dự án đó được
thực hiện quyết toán vốn đầu tư như một dự án đầu tư độc lập tương ứng với
quy định về phân nhóm dự án (A, B, C) của Quy chế Quản lý đầu tư và xây
dựng phù hợp với từng thời kỳ đầu tư.

Khi toàn bộ dự án hoàn thành, chủ đầu tư và cơ quan quản lý cấp trên
củ
a chủ đầu tư có trách nhiệm quyết toán các chi phí chung liên quan tới dự
án trình Bộ chủ quản phê duyệt và tổng hợp chung vào kết quả quyết toán vốn
đầu tư của toàn dự án để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư.
Đối với các dự án có nhiều công trình, hoặc hạng mục công trình mà
mỗi công trình, hạng mục công trình hoặc nhóm hạng mục khi hoàn thành có
thể được đưa vào để khai thác, s
ử dụng độc lập, thì chủ đầu tư lập báo cáo
quyết toán vốn đầu tư theo hạng mục công trình, trình người có thẩm quyền
phê duyệt. Giá trị đề nghị quyết toán của hạng mục công trình bao gồm: chi
phí xây lắp, chi phí thiết bị và các khoản chi phí khác có liên quan trực tiếp
đến hạng mục đó. Sau khi toàn bộ dự án hoàn thành, chủ đầu tư phải tổng
quyết toán toàn bộ dự án và xác định mức phân bổ
chi phí chung của dự án
cho từng hạng mục công trình thuộc dự án trình người có thẩm quyền phê
duyệt quyết toán phê duyệt.
Đối với các dự án đầu tư có sử dụng vốn nước ngoài (vốn do Nhà nước
bảo lãnh, vốn vay, vốn viện trợ từ các Chính phủ, tổ chức, cá nhân người
nước ngoài) khi hoàn thành phải thực hiện quyết toán vốn đầu tư theo quy
định của Thông tư hướng dẫn quyết toán v
ốn đầu tư do Bộ Tài chính ban


13
hành phù hợp với từng thời kỳ và các quy định liên quan của Điều ước quốc
tế (nếu có).
Vai trò của báo cáo quyết toán dự án đầu tư xây dựng:
Báo cáo quyết toán dự án đầu tư thể hiện kết quả công tác quyết toán

vốn đầu tư nhằm đánh giá kết quả quá trình đầu tư, xác định năng lực sản
xuất, giá trị tài sản mới tăng thêm do đầu tư
mang lại; xác định rõ trách nhiệm
của chủ đầu tư, các nhà thầu, cơ quan cấp vốn, cho vay, kiểm soát thanh toán,
các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan; đồng thời qua đó rút kinh nghiệm
nhằm không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách của nhà nước, nâng cao hiệu
quả của công tác quản lý vốn đầu tư trong cả nước.
Nội dung của báo cáo quyết toán dự án đầu tư xây dựng:
Nguồn vốn đầu tư thực hi
ện dự án tính đến ngày khoá sổ lập báo cáo
quyết toán (chi tiết theo từng nguồn vốn đầu tư);
Chi phí đầu tư đề nghị quyết toán và được lập chi tiết theo cơ cấu xây
lắp, thiết bị, chi phí khác; chi tiết theo hạng mục, khoản mục chi phí đầu tư;
Xác định chi phí đầu tư thiệt hại không tính vào giá trị tài sản hình
thành qua đầu tư như: Chi phí đầu tư thiệt hại do thiên tai, địch họa và các
nguyên nhân bất khả kháng không thuộc phạm vi và đối tượng được bảo
hiểm; Chi phí đầu tư thiệt hại do thực hiện các khối lượng công việc phải huỷ
bỏ theo quyết định của cấp có thẩm quyền;
Xác định số lượng và giá trị tài sản hình thành qua đầu tư của dự án,
chi tiết theo nhóm, loại TSCĐ, TSLĐ theo chi phí thực tế. Đối với các dự án
có thời gian thực hiệ
n hơn 36 tháng tính từ ngày khởi công đến ngày nghiệm
thu bàn giao đưa vào khai thác sử dụng phải thực hiện quy đổi vốn đầu tư về
mặt bằng giá tại thời điểm bàn giao đưa vào khai thác sử dụng. Việc phân bổ
chi phí khác cho từng TSCĐ được xác định theo nguyên tắc: Chi phí trực tiếp
liên quan đến TSCĐ nào thì tính cho TSCĐ đó; chi phí chung liên quan đến


14
nhiều TSCĐ thì phân bổ theo tỷ lệ chi phí trực tiếp của từng TSCĐ so với

tổng số chi phí trực tiếp của toàn bộ tài sản cố định. Trường hợp tài sản do
đầu tư mang lại được bàn giao cho nhiều đơn vị sử dụng phải xác định đầy đủ
danh mục và giá trị của TSCĐ, TSLĐ của dự án bàn giao cho từng đơn vị.
Khái niệm về kiể
m toán:
Thuật ngữ “kiểm toán” thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở nước
ta từ những năm 1990. Vì vậy, trong cách hiểu và cách dùng khái niệm này
chưa được thống nhất.
Theo quan điểm thứ nhất: Kiểm toán được hiểu theo đúng thời cuộc
của nó: Phát sinh cùng với cơ chế thị trường. Theo lời mở đầu “giải thích về
các chuẩn mực ki
ểm toán” của Vương quốc Anh “Kiểm toán là sự kiểm tra
độc lập và bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do
một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo
đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”, hoặc cụ thể hơn, có thể dẫn
ra quan niệm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ “kiểm toán là một quá
trình mà qua đó một ng
ười độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng
về thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt
nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể
lượng hoá với những tiêu chuẩn đã được thiết lập”. Tương tự như vậy là quan
điểm chính thống trong giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hoà Pháp
“Kiểm toán là việ
c nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ
chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành
để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính
thực tế không che dấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính
thức của luật định”.
Các định nghĩa đã nêu tuy khác nhau về từ ngữ với ý nghĩa cụ th
ể xác

định, song đều bao hàm khái niệm kiểm toán gồm 5 yếu tố cơ bản:


15
Chức năng của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến;
Đối tượng trực tiếp của kiểm toán là các bảng khai tài chính;
Khách thể của kiểm toán được xác định là thực thể kinh tế hoặc một tổ
chức;
Người thực hiện kiểm toán là những kiểm toán viên độc lập, có nghiệp
vụ;
Cơ sở thực hiện kiểm toán là những luật định, tiêu chuẩn hay chuẩn
mực chung.
Theo quan đ
iểm thứ hai: Kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế
toán, một chức năng của bản thân kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán.
Nội dung của hoạt động này là rà soát các thông tin kế toán từ chứng từ kế
toán và tổng hợp cân đối kế toán.
Đây là quan điểm mang tính truyền thống trong điều kiện kiểm tra chưa
phát triển và trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung. Từ khi chuyển đổi cơ chế
kinh tế, Nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất. Từ đó, sự can thiệp trực
tiếp của Nhà nước không thể thực hiện đối với các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh; cách thức can thiệp cũng không thể như cũ được nữa,…Vì vậy,
công tác kiểm tra kế toán cần được thực hiện rộng rãi, đa dạng song thật khoa
học, khách quan, trung thực, đủ sức thuyết phục và tạo niềm tin cho mọi
người quan tâm. Việc tách kiểm toán khỏi hoạt động kế toán và hình thành
khoa học kiểm toán độc lập là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử.
Theo quan điểm hiện đại: Phạm vi kiểm toán rất rộng. Nó bao gồm
những lĩnh vực chủ yếu sau:
Kiểm toán về thông tin hướng vào việc đánh giá tính trung th

ực và hợp
pháp của các tài liệu làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các mối quan hệ về
kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán;


16
Kiểm toán tính quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các
thể lệ, chế độ, luật pháp của đơn vị kiểm tra trong quá trình hoạt động;
Kiểm toán hiệu quả có đối tượng trực tiếp là sự kết hợp giữa các yếu tố,
các nguồn lực trong từng lợi hình nghiệp vụ kinh doanh. Kiểm toán này giúp
ích trực tiếp cho việc hoạch địch chính sách và phương hướng, giải pháp cho
việc hoàn thiệ
n hoặc cải tổ hoạt động kinh doanh của đơn vị kiểm toán;
Kiểm toán hiệu năng được đặc biệt quan tâm ở khu vực công, nơi mà
năng lực quản lý cần được đánh giá toàn diện và bồi bổ thường xuyên nhằm
không ngừng nâng cao hiệu năng quản lý của đơn vị kiểm toán.
Từ tất cả các trình bày trên có thể đi đến kết luận “kiểm toán là xác
minh và bày tỏ ý ki
ến về thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống
phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm
toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống
pháp lý có hiệu lực”
Cũng như các hoạt động khác, kiểm toán cần và có thể phân loại theo
nhiều tiêu thức khác nhau:
Nếu phân theo chức năng thì ki
ểm toán được chia thành ba loại hình cơ
bản sau: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt
động.
Kiểm toán báo cáo tài chính là quá trình xem xét, đánh giá và xác nhận
tính hợp pháp, trung thực của các báo cáo tài chính. Đây là loại kiểm toán phổ

biến nhất hiện nay trên thế giới;
Kiểm toán tuân thủ là quá trình xem xét, đánh giá đơn vị được kiểm
toán có tuân thủ theo các thủ tục, các quy định, các quy chế, các nguyên tắc
đã được các cơ quan có thẩm quyền đề ra hay không;
Kiểm toán hoạt
động có thể hiểu là loại kiểm toán để xem xét, đánh giá
tính hiệu lực, hiệu quả của đơn vị được kiểm toán. Trong đó, việc xem xét


17
đánh giá tính hiệu lực là xem xét và đánh giá quá trình thực hiện và khả năng
thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của đơn vị. Đánh giá và xem xét
tính hiệu quả là xem xét và đánh giá công việc đạt được kết quả cao nhất với
chi phí bỏ ra thấp nhất.
Theo bản chất của khách thể kiểm toán có thể phân kiểm toán thành
kiểm toán doanh nghiệp, kiểm toán dự án và các công trình, kiểm toán các
đơn vị dự toán,…
Báo cáo quyế
t toán Dự án đầu tư xây dựng được lập nhằm cung cấp
thông tin về nguồn vốn và vốn đầu tư thực hiện của dự án cần thiết cho việc
kiểm tra, kiểm soát chi phí đầu tư của dự án của Nhà nước, giúp cho Chính
phủ quản lý chặt chẽ các khoản chi trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.
Để thông tin kế toán thực sự hữu ích phục vụ cho công tác quản lý kinh
tế, tài chính có hi
ệu quả thì các thông tin này phải thực sự tin cậy, bảo đảm
tính trung thực và hợp pháp. Vì vậy, việc kiểm tra để xác nhận các thông tin,
tài liệu và báo cáo quyết toán phải được thực hiện thường xuyên và phải được
một cơ quan độc lập với đơn vị được kiểm tra thực hiện để đảm bảo tính trung
thực và khách quan. Theo thông lệ quốc tế, nhiệm vụ này do Cơ quan KTNN
thực hiện.

Mộ
t trong những nhiệm vụ quan trọng của Cơ quan KTNN là kiểm
toán Báo cáo quyết toán Dự án đầu tư xây dựng. Kiểm toán Báo cáo quyết
toán Dự án đầu tư xây dựng là việc kiểm tra và xác nhận tính trung thực và
hợp lý của Báo cáo quyết toán Dự án đầu tư xây dựng, cũng như xem xét mức
độ phù hợp giữa các nội dung trên Báo cáo quyết toán Dự án đầu tư xây dựng
với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và các yêu cầu của pháp lu
ật về lĩnh
vực quản lý đầu tư xây dựng, lĩnh vực tài chính kế toán và các lĩnh vực khác
Các nội dung cơ bản của kiểm toán Báo cáo quyết toán Dự án đầu tư
xây dựng:


18
Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành;
Kiểm toán việc tuân thủ pháp luật, chế độ đầu tư xây dựng;
Trong quá trình kiểm toán Báo cáo quyết toán Dự án đầu tư xây dựng,
kiểm toán viên phải kiểm tra việc tuân thủ Luật Xây dựng, Luật Kế toán và
các chế độ chính sách về lĩnh vực đầu tư dự án và lĩnh vực tài chính kế toán
trong quá trình quản lý, sử dụng nguồn vốn và quyết toán vốn đầ
u tư thực
hiện với Nhà nước. Đồng thời, các kiểm toán viên phải kiểm tra các khoản chi
phí, các hạng mục công trình thành phần của dự án theo đúng đơn giá, định
mức theo quy định của Nhà nước. Thông qua kiểm toán tại đơn vị, kiểm toán
viên đánh giá công tác quản lý đầu tư cũng như quản lý tài chính đối với đơn
vị và có những kiến nghị đối với đơn vị nhằm nâng cao chấ
t lượng quản lý và
đề xuất với cấp có thẩm quyền những quy định phù hợp với thực tiễn.
1.3. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán báo
cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản

Trong những năm qua Kiểm toán Nhà nước đã có sự phát triển mạnh
mẽ về qui mô, chất lượng kiểm toán. Số lượng các cuộc kiểm toán năm sau
cao hơn năm trước, phạ
m vi kiểm toán ngày một mở rộng. Chất lượng Báo
cáo kiểm toán từng bước được nâng lên. Tính hiệu lực của các kết luận, kiến
nghị của Kiểm toán Nhà nước ngày một cao. Kiểm toán Nhà nước trở thành
một công cụ quan trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong kiểm tra giám
sát việc quản lý, sử dụng ngân sách, tiền, tài sản của Nhà nước.
Cùng sự phát triển ngày một lớn mạnh của Kiểm toán Nhà nước, sự

tăng lên về số lượng, chất lượng cuộc kiểm toán, công nghệ thông tin từng
bước đã được ứng dụng vào quá trình kiểm toán. Trong lĩnh vực kiểm toán
Báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản, hiện tại công nghệ thông tin đã
được ứng dụng vào kiểm toán một số bước, một số khâu của quá trình kiểm
toán như kiểm toán việc áp dụng các định mức đơn giá, kiểm toán vi
ệc tính


19
toán khối lượng, kiểm toán chấp hành chế độ quản lý đầu tư Các phần mềm
được sử dụng là Excel, phần mềm lập dự toán, phần mềm Autocad, Nova,
softdest
Việc ứng dụng các phần mềm trên đã đem góp phần nâng cao chất
lượng kiểm toán, rút ngắn thời gian, giảm chi phí cho cuộc kiểm toán.
Tuy nhiên, trong thực tiễn kiểm toán báo cáo quyết toán công trình xây
dựng những năm vừa qua còn có những hạn chế trong việ
c ứng dụng công
nghệ thông tin vào kiểm toán dự toán. Cụ thể:
+ Do năng lực và trình độ về công nghệ thông tin của kiểm toán viên
còn hạn chế, nên nhiều kiểm toán viên vẫn chỉ sử dụng máy vi tính để tính

toán thủ công trên EXCEL, chưa sử dụng các phần mềm hỗ trợ để kiểm tra,
tính toán. Do vậy, thời gian các cuộc kiểm toán dự án đầu tư còn kéo dài, kết
quả số liệu kiểm toán do kiểm toán viên đưa ra ban
đầu còn chưa chính xác,
kết quả kiểm toán sau khi đơn vị giải trình còn phải điều chỉnh nhiều.
+ Các phần mềm được kiểm toán viên sử dụng trong quá trình thực
hiện kiểm toán còn mang tính nhỏ lẻ cho từng hạng mục công việc, chưa có
sự sử dụng thống nhất giữa các kiểm toán viên nên việc tổng hợp còn mất
nhiều thời gian.
+ Chưa có phần mềm chuyên dụng. Khi kiểm toán phả
i áp dụng kết
hợp đồng thời nhiều phần mềm, hiệu quả đem lại chưa cao trong kiểm toán.
1.4. Sự cần thiết phải ứng dụng phần mềm hỗ trợ kiểm toán
Nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ cuộc kiểm toán là một nhiệm
vụ thực tế đặt ra hiện nay của Kiểm toán nhà nước. Để thực hiện tốt điều này
đòi hỏi các kiểm toán viên phải nâng cao trình độ chuyên môn, thành thạo kỹ
năng và có khả năng ứng dụng tốt các phần mềm công nghệ thông tin hỗ trợ
kiểm toán.


20
Trong kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản, một
trong các nội dung quan trọng là kiểm toán dự toán. Các công trình xây dựng
cơ bản (đặc biệt là dự án nhóm A) thường có tính đặc thù, đơn chiếc, vốn đầu
tư lớn, phạm vi thi công rộng, thời gian thi công dài, chế độ chính sách thay
đổi, liên quan đến nhiều đơn vị quản lý khác nhau…. Do đó việc áp dụng các
định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí, đơn giá, các chế độ, chính sách
có liên quan và các kho
ản mục chi phí trong dự toán sẽ phức tạp, tiềm ẩn
nhiều rủi ro, mất nhiều thời gian nếu không ứng dụng các phần mềm hỗ trợ

kiểm toán dự toán. Một nội dung khác của kiểm toán dự toán là kiểm tra sự
phù hợp của khối lượng thiết kế và khối lượng dự toán. Công việc này đòi hỏi
kiểm toán viên phải sử dụng tốt các phần mềm thiế
t kế, tính toán khối lượng
mới đẩy nhanh được tiến độ kiểm toán. Mặt khác, công việc kiểm toán thường
có tính cơ động nên rất khó để mang được hết các văn bản, chế độ, tài liệu cần
thiết do khối lượng lớn và thường xuyên thay đổi. Việc ứng dụng các phần
mềm công nghệ sẽ tạo ra kho giữ liệu cần thiết phục vụ cho việc cập nhật, tra
cứu, lưu trữ thông tin.
Thực tiễn hiện nay, hầu hết các đơn vị thiết kế, lập dự toán đều sử dụng
các phần mềm hỗ trợ. Vì vậy, để tiếp cận nhanh và giảm thiểu rủi ro, kiểm
toán viên phải chủ động học hỏi và sử dụng được các phần mềm ứng dụng
này, từng bước trang bị cho mình các phần mềm hỗ trợ ki
ểm toán.
Việc ứng dụng ngày một sâu rộng những tiến bộ của công nghệ thông
tin vào kiểm toán là một xu thế tất yếu, tạo điều kiện nâng cao chất lượng,
hiệu quả kiểm toán. Cùng với sự phát triển ngày một lớn mạnh của Kiểm toán
nhà nước, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào kiểm toán cũng được chú
trọng phát triển. Kiểm toán nhà nước đã có các chương trình, kế ho
ạch cụ thể
về đào tạo bồi dưỡng kiến thức công nghệ thông tin cho đội ngũ Kiểm toán
viên, chiến lược xây dựng, ứng dụng các phần mềm hỗ trợ kiểm toán đáp ứng


21
yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin vào
kiểm toán dự toán đầu tư xây dựng cơ bản của KTNN còn nhiều hạn chế, mới
ở bước đầu, hiệu quả chưa cao. Vì vậy, nhu cầu phát triển, ứng dụng các phần
mềm chuyên dụng phục vụ kiểm toán dự toán dự án đầu tư trong thời gian tới
là rất cần thiết.

Từ những phân tích
ở trên, cho thấy sự cần thiết phải ứng dụng phần
mềm hỗ trợ kiểm toán dự toán trong kiểm toán Báo cáo quyết toán công trình
đầu tư xây dựng cơ bản.

×