Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Lập và quản lý chi phí xây dựng Những vấn đề cần quan tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.15 KB, 5 trang )

Lập và quản lý chi phí xây dựng - Những vấn đề
cần quan tâm

Trong những năm qua, hoạt động xây dựng đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhiều công trình xây
dựng lớn được hoàn thành và đưa vào sử dụng đem lại những hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn
góp phần vào thành tựu chung của đất nước. Tuy nhiên so với tốc độ phát triển cao của hoạt
động xây dựng thì việc hoàn thiện các văn bản pháp quy cũng như việc đào tạo nhân lực cho
công tác lập, kiểm soát và quản lý chi phí xây dựng đã bộc lộ những bất cập cần có sự quan
tâm, điều chỉnh thay đổi cho phù hợp.

Có thể nhận thấy việc lập và quản lý chi phí xây dựng của nhiều dự án lớn, đặc biệt là các dự án
xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi trong thời gian vừa qua đã gặp nhiều khó khăn,
không kiểm soát được. Đây là nhân tố gây ảnh hưởng nhiều tới tiến độ, chất lượng, là một trong
những nguyên nhân gây lãng phí về thời gian, chi phí và ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư chung
cần được nhìn nhận, đề cập một cách đúng mức. Một cách tổng quát, ngay từ yếu tố con người,
từ hệ thống đào tạo loại hình nhân lực thực hiện công tác lập và quản lý chi phí trong xây dựng
đến các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này, hệ thống định mức áp dụng đã chưa thực sự đáp
ứng được yêu cầu. Việc phân tích tổng hợp những nguyên nhân để tìm biện pháp giải quyết
khắc phục, đổi mới trong lập và quản lý chi phí xây dựng là công việc cấp thiết cần làm. Những
vấn đề còn hạn chế, bất cập tập trung ở một số các nguyên nhân:

1. Yếu tố con người và việc đào tạo loại hình kỹ sư giá xây dựng
- Đặc thù của hoạt động xây dựng là trong các giai đoạn đầu tư, từ chuẩn bị, đấu thầu, thực hiện,
thanh quyết toán luôn phải đề cập đến việc lập và quản lý chi phí. Nó liên quan tới tất cả các chủ
thể tham gia dự án từ các cơ quan Quản lý, Tổ chức tư vấn thiết kế, Nhà thầu thi công xây dựng.
Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài, nhận thức về vai trò, vị trí của những người làm công tác
lập, kiểm soát và quản lý chi phí xây dựng chưa được đánh giá đúng mức. Công tác đào tạo để
có được các kỹ sư, chuyên gia trong lĩnh vực này đã chưa được chú trọng quan tâm. Tại các
nước phát triển, các tổ chức Quản lý dự án chuyên nghiệp, các hãng tư vấn lớn đều rất chú
trọng thu hút, đào tạo các kỹ sư, chuyên gia về giá xây dựng, kiểm soát khối lượng, lập hồ sơ
thầu và phân tích lựa chọn nhà thầu xây dựng.


- Nếu xét theo các tiêu chí của hiệp hội các kỹ sư giá Quốc tế “The International Cost
Engineering Council (ICEC)” một tổ chức lớn nhất trong lĩnh vực giá xây dựng và Quản lý dự án
thfi chúng ta hầu như chưa có kỹ sư dự toán, kỹ sư khối lượng do vậy có thể dễ dàng nhận thấy
công tác lập, quản lý chi phí xây dựng còn nhiều tồn tại; kỹ sư lập dự toán ít am hiểu về kết cấu,
nguyên tắc tính khối lượng, trình tự biện pháp thi công, không nắm được quy trình quy phạm,
không nhìn ra được bất cập trong định mức và một số văn bản pháp quy, chưa bóc tách được
tiên lương và xây dựng đơn giá một cách khoa học, phù hợp để lập dự toán chặt chẽ phản ánh
đúng giá trị thực của công trình.
- Một thực tế là hiện nay, ngay trong nhiều tổ chức Tư vấn thiết kế, Cơ quan quản lý, thẩm tra,
thẩm lượng, lực lượng làm công tác lập, thẩm định dự toán đã chưa được quan tâm đào tạo
đúng mức. Phần nhiều các kỹ sư thực hiện công tác này chưa đáp ứng được yêu cầu và có lẽ
cũng chính vì vậy mà chất lượng dự toán cho công trình xây dựng, đặc biệt là những loại công
trình xây dựng mà muốn có được dự toán phù hợp đòi hỏi tính chuyên môn cao, kiến thức tổng
hợp và kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực đã chưa đảm bảo yêu cầu chất lượng.
- Hiện cũng đang tồn tại bất cập trong việc cấp chứng chỉ hành nghề đối với kỹ sư giá xây dựng,
nếu theo như các quy định hiện nay về “Hướng dẫn trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề
xây dựng” thì khó có thể cấp chứng chỉ hành nghề cho loại hình chuyên môn này.

2. Về định mức dự toán
- Định mức dự toán xây dựng công trình là nhân tố quyết định tới giá trị dự toán của công trình
do vậy về nguyên tắc cần được xây dựng sao cho phù hợp thực tế, mang tính đặc trưng của
công việc. Hệ thống định mức của chúng ta mặc dù có nhiều song thực chất lại rất thiếu và phức
tạp, còn nhiều bất cập. Nhiều hạng mục công tác xây dựng trong định mức chưa phù hợp thực tế
dẫn tới không chuẩn xác trong xác định chi phí xây dựng. Đây là một trong những nguyên nhân
khiến cho công tác quản lý giá thành, lập dự toán, thẩm định, phê duyệt và thực hiện dự án xây
dựng gặp khó khăn trong suốt thời gian vừa qua. (Các nhầm lẫn trong định mức, các quy định
bất cập, các bất hợp lý trong quy định tính toán khấu hao, sự thiếu thực tế trong một số loại hình
công tác xây dựng ) Các vấn đề đã từng được phân tích, phản ánh góp ý nhưng chưa được kịp
thời nghiên cứu điều chỉnh.


3. Chi phí chung
- Về chi phí chung (chi phí quản lý của doanh nghiệp, chi phí phục vụ thi công, chi phí điều hành
ở công trường ) Đây hiện đang là vấn đề cần xem xét cho phù hợp giữa các loại hình dự án,
công trình xây dựng khác nhau, còn tồn tại sự bất hợp lý trong các quy định hiện hành. Với mức
chi phí chung (bao gồm cả các chi phí như kho bãi để vật tư, điện, nước phục vụ thi công ) cho
công trình giao thông, thủy lợi là công tác xây dựng đặc thù, các công trình chịu nhiều các yếu tố
chi phối (trải trên địa bàn rộng, quản lý khó khăn, huy động thiết bị và nhân lực lớn, phụ thuộc địa
hình, địa chất, điều kiện thi công, biện pháp thi công, vị trí xây dựng, ứng dụng công nghệ mới,
nguồn và khả năng cung ứng vật liệu ) thì lại thấp hơn của các công trình xây dựng dân dụng,
thường tập trung trong một phạm vi hẹp hơn.
- Trong phương pháp lập dự toán, khi xác định chi phí xây dựng, phần lớn các nước tiên tiến
không đưa chi phí mặt bằng, kho xưởng, bến bãi, huy động, giải thể vào trong chi phí chung và
trực tiếp phí khác như ở Việt Nam bởi đưa như vậy sẽ bất cập cho các loại hình công tác xây
dựng khác nhau.

4. Việc xác định chi phí ca máy thi công
- Việc xây dựng giá ca máy theo phương pháp phân tích chi phí là phương pháp tiếp cận dần
thông lệ tiên tiến, tuy nhiên đi kèm theo đó phải là các quy định đầy đủ và chặt chẽ (từ xác định
nguyên giá, quy trình vận hành, nhân công điều khiển, quy định khấu hao, điều kiện thi công,
năng suất máy ) để đảm bảo trong cùng một điều kiện, công trình, đối tượng nào thực hiện
cũng sẽ phải cho ra kết quả như nhau và có nhưu vậy mới có thể xác định và quản lý được chi
phí xây dựng. Vừa qua, một thông tư hướng dẫn (TT06/2005/TT-BXD) mang định hướng đổi mới
theo hướng tăng cường trao quyền chủ động, tuy nhiên có lẽ do chưa được xem xét một cách
thấu đáo nên đã khiến cho hầu hết các địa phương, các cơ quan quản lý, các đơn vị chủ đầu tư
hết sức lúng túng trong triển khai thực hiện và thực tế đã xuất hiện rất nhiều bất cập, mỗi nơi một
loại giá và điều đáng lưu ý là mức chênh lệch giá của được. Đây là vướng mắc lớn, là một trong
các nguyên nhân dẫn đến việc chậm trễ, không phê duyệt được dự toán để triển khai thực hiện
của nhiều dự án đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, cần kịp thời
có các nghiên cứu điều chỉnh bổ sung sửa đổi.


5. Phương pháp tính chi phí vật liệu
- Tính chi phí vật liệu đầu vào như thế nào cho phù hợp để lập dự toán công trình xây dựng cơ
bản đang là một thực tế tồn tại lớn hiện nay. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo hướng
thị trường hoá, nếu cứ vẫn giữ những nguyên tắc cũ là quy định các địa phương ra thông báo
chung cho vật liệu xây dựng để tính toán chi phí là bất cập. Thực tế đã chứng minh các thông
báo giá này thường có độ vênh lớn so với các biến động thực tế bởi hầu hết các địa phương đã
không thể cập nhật thường xuyên cũng như đưa ra được mức thông báo phù hợp. Nên có các
quy định để làm sao giá cả phù hợp sát với thực tế, có thể xem xét phương án lấy theo báo giá
của một số nhà cung ứng lớn, so sánh lựa chọn và thông qua một tổ chức thẩm định giá. Đối với
các vật liệu có yêu cầu chỉ ra vị trí khai thác chế tạo như đất, đá, cát, sỏi cần xây dựng các định
mức đào, khai thác, nghiền sàng, chế tạo, vận chuyển để hạn chế tối đa sự phụ thuộc vào các
cơ quan chức năng mà thực tế đang làm cản trở tới quá trình thực hiện dự án.
- Cần phân định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của các bên liên quan trong dự án với việc điều tra,
tính toán và làm các thủ tục với các địa phương, các cơ quan chức năng liên quan, các tổ chức
thẩm định để xác định chi phí vật liệu đến chân công trình.

6. Về cách tính chi phí nhân công
- Hiện đang chưa có sự thống nhất trong quy định tính toán chi phí nhân công và các khoản phụ
cấp lương. Mỗi nơi, mỗi đơn vị có các cách hiểu và tính toán khác nhau gây khó khăn trong việc
lập và quản lý chi phí. Tại thông tư 04/2005/TT - BXD hướng dẫn lập và quản lý chi phsi xây
dựng do không quy định rõ việc tính toán khoản phụ cấp không ổn định sản xuất nên có địa
phương thì tính, có địa phương quy định không tính cho cùng loại công trình.
- Các khoản phụ cấp ngoài lương trước đây có quy định thống nhất nguyên tắc thống nhất
nguyên tắc tính (1 + Knc) với hệ số biểu thị quan hệ so với tiền lương tối thiểu và lương cấp bậc
(h1n, h2n) nay do không được làm rõ nên đang có các vận dụng khác nhau, ảnh hưởng tới giá trị
dự toán và phương thức quản lý khoản chi phí này.

7. Phương pháp lập dự toán cho công trình xây dựng
- Việc xác định chi phí xây dựng công trình trên cơ sở các bộ đơn giá xây dựng cơ bản lập sẵn
của các địa phương và sử dụng để khống chế chi phí xây dựng trên thực tế khó có thể xác định

dự toán phù hợp, đặc biệt là các công trình xây dựng cơ bản, giao thông, thuỷ lợi, bến cảng
Các bộ đơn giá xây dựng cơ bản lập sẵn của địa phương chỉ có thể phù hợp với các công trình
đơn giản, ít phức tạp, các công trình nhỏ ít chịu ảnh hưởng của các yếu tố đặc thù. Cần hướng
tới phương pháp phân tích đơn giá trên cơ sở hệ thống định mức chuẩn, hồ sơ thiết kế và điều
kiện cụ thể của mỗi công trình để xác định giá trị dự toán phù hợp.

8. Xử lý trượt giá tại các công trình xây dựng
- Trong thời gian vừa qua, giá cả thị trường trong nước và Quốc tế có nhiều biến động mạnh,
đặc biệt là sự tăng giá nguyên vật liệu, nhiên liệu, các loại vật liệu xây dựng chủ yếu, các chỉ số
tăng chung của hàng hoá cùng các điều chỉnh của Nhà nước về tiền lương. Tuy nhiên việc tính
toán xác định các yếu tố này và thiết lập các nguyên tắc thanh toán khoản kinh phí do chênh lệch
vật liệu, nhân công, giá ca máy đã chưa được giải quyết thấu đáo dẫn tới hàng loạt dự án bị ảnh
hưởng nghiêm trọng về kế hoạch, tiến độ triển khai, vốn và hiệu quả đầu tư, khai thác. Làm cho
không ít nhà thầu rơi vào hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là các nhà thầu xây dựng công trình giao
thông, thủy lợi, một trong các nguyên nhân đẩy nhà thầu đứng trước nguy cơ phá sản hoặc buộc
phải vi phạm các điều kiện hợp đồng.

9. Kinh phí dự phòng cho công trình xây dựng
- Với quy định mức dự phòng tối đa 15% (bước NCKT) và 10% (bước KTKT) cho cả trượt giá và
khối lượng là thực sự không phù hợp. Một thực tế đã được chứng minh là chỉ tính riêng giá trị do
yếu tố trượt giá (vật liệu, nhân công, máy) trong thời gian 2-3 năm gần đây đã là khoảng từ 30%
- 50%. Một công trình xây dựng với tiến độ 2-3 năm thì riêng khoản chi phí cho trượt giá rõ ràng
đã lớn hơn nhiều so với mức quy định do vậy việc phải điều chỉnh dự án và bổ sung chi phí là
không thể tránh khỏi và đi kèm theo đó là hiệu quả đầu tư không đảm bảo như tính toán ban đầu,
gây khó khăn đặc biệt đối với dự án đầu tư từ các nguồn vốn ngoài ngân sách.

* Một số ý kiến đề xuất

1. Việc đào tạo loại hình kỹ sư, chuyên gia giá xây dựng
- Trong thời gian tới, cần khẩn trương xây dựng kế hoạch đào tạo cơ bản (xây dựng giáo trình,

trang bị kiến thức tổng hợp về kết cấu, tổ chức xây dựng, hệ thống luật trong xây dựng, kinh
nghiệm thi công, khả năng phân tích đánh giá dự án, viết hồ sơ thầu ) ngay trong các trường
đại học để đào tạo ra các loại hình kỹ sư cơ bản đáp ứng các yêu cầu cho dự án.
- Cử các kỹ sư, chuyên gia, sinh viên sang du học, thực tập, nghiên cứu về lĩnh vực đào tạo kỹ
sư giá, kỹ sư khối lượng, quản lý dự án tại các quốc gia tiên tiến đang đào tạo như Mỹ, Anh, Ý,
Canada, Úc
- Nghiên cứu quy định lại phạm vi ngành nghề và các lĩnh vực cấp chứng chỉ hành nghề. Xây
dựng cơ chế hướng tới chuyên nghiệp hoá nghề nghiệp này tránh bất cập như hiện nay.

2. Định mức dự toán
- Bổ sung nguồn lực cho các cơ quan chức năng nghiên cứu và xây dựng định mức, xác định
mức chi phí cho công tác theo dõi, tổng hợp lại các công trình, dự án có áp dụng các công nghệ
mới, phối hợp với các đơn vị thi công, tưu vấn giám sát để tổng hợp xây dựng định mức phù
hợp với điều kiện Việt Nam.
- Xem xét việc xã hội hoá công tác xây dựng định mức với sự tham gia của các tổ chức tư vấn
chuyên ngành, các nhà thầu, các hiệp hội xây dựng. Bổ sung các định mức chuyên ngành phù
hợp với các công tác đặc thù, đặc biệt các công trình chịu nhiều các yếu tố chi phối như (địa
hình, địa chất, điều kiện thi công, biện pháp thi công, ứng dụng công nghệ mới nguồn và khả
năng cung ứng vật liệu Xử lý ngay những bất cập trong định mức hiện hành.
- Tham khảo công tác xây dựng định mức của các quốc gia tiên tiến, xây dựng định mức khoa
học, không quá nhiều nhưng đảm bảo đầy đủ cơ sở để lập dự toán một cách phù hợp với từng
loại hình công trình trong các điều kiện thi công cụ thể bằng việc xác định các hàm, công thức
quy chiếu, các bảng tra từ định mức chuẩn thuận tiện, khoa học cho người sử dụng với các kết
quả đảm bảo chính xác, không khác nhau giữa những người lập giá cho cùng một loại công việc.

3. Chi phí chung
- Định nghĩa, xác định rõ các nội dung, cấu thành của chi phí chung. Đối với loại chi phí này, nên
quy định có khoảng khống chế (từ a% đến b%) và cho phép cân đối áp dụng tỷ lệ % trên chi phí
trực tiếp trong khoảng khống chế cho từng loại công trình trên cơ sở các yêu cầu của hồ sơ thiết
kế phù hợp với thực tế dự án.

- Các chi phí thuộc xây lắp không để nằm trong chi phí chung mà nên đưa thành một phần trong
kết cấu dự toán (như các công trình phục vụ thi công, mặt bằng, kho xưởng, bến bãi, đường
công vụ ) được tính toán dựa trên nội dung yêu cầu của thiết kế và hồ sơ mời thầu.

4. Chí phí nhân công
- Xây dựng thống nhất các nguyên tắc trong phương pháp tính và quản lý chi phí nhân công
không để tình trạng mỗi nơi, mỗi đơn vị lại có các cách hiểu, cách tính toán khác nhau, áp dụng
mức lương đảm bảo cuộc sống cho người lao động trong lĩnh vực xây dựng.

5. Xác định chi phí ca máy thi công
- Tiếp tục nghiên cứu bổ sung các điều kiện để có thể thực hiện việc tính toán chi phí ca máy
theo hướng tiếp cận thông lệ Quốc tế. Trước mắt để có thể kiểm soát chi phí, cần nghiên cứu
xây dựng thống nhất bằng giá ca máy gốc để áp dụng cho các công trình xây dựng và các
hướng dẫn áp dụng cụ thể cho từng khu vực (như đồng bằng, miền núi, vùng cao, hải đảo)

6. Phương pháp lập dự toán cho công trình xây dựng
- Nên quy định thống nhất phương pháp lập dự toán cho các công trình xây chủ yếu là phân tích
đơn giá trên cơ sở hồ sơ thiết kế, biện pháp tổ chức xây dựng, điều kiện thực tế tại khu vực triển
khai dự án để có thể có được những dự toán mang tính chính xác cao, phù hợp. Các bộ đơn giá
xây dựng cơ bản của các địa phương nên tham khảo và áp dụng với công trình dân dụng, công
trình nhỏ, ít phức tạp, ít bị các yếu tố chi phối, mang tính đặc thù.
- Việc xây dựng dự toán theo phương pháp phna tích đơn giá còn làm cơ sở phục vụ cho công
tác đấu thầu, phân tích đơn giá dự thầu, xét thầu, chấm thầu đảm bảo khách quan, phù hợp. Đây
cũng là phương pháp tiếp cận thông lệ Quốc tế để có được những dự toán phù hợp giữa hồ sơ
thiết kế và thực tế thi công.

7. Phương pháp tính chi phí vật liệu
- Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án chỉ đạo và phối hợp với tư vấn điều tra nguồn, cự ly và các loại
hình vận chuyển, tính toán chi phí giá vật liệu đến chân công trình.
- Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án chịu trách nhiệm báo cao svaf làm việc với các cơ quan chức

năng địa phương, hoặc thuê thẩm định giá để có cơ sở pháp lý cho việc lập và quản lý chi phí
xây dựng các dư án cụ thể.

8. Xử lý trượt giá tại các công trình xây dựng
- Việc khẩn trương nghiên cứu để thiết lập công thức tính trượt giá là yêu cầu cấp thiết trong bối
cảnh hiện nay khi giá cả thị trường trong nước và Quốc tế có nhiều biến động mạnh, đặc biệt là
sự tăng giá của nguyên, nhiên liệu, các loại vật liệu xây dựng chủ yếu. Tuy nhiên cần có sự đầu
tư nghiên cứu đúng mức để xây dựng được công thức tính trượt giá phù hợp với điều kiện Việt
Nam và thuận tiện trong triển khai thực hiện ,ít chịu chi phối bởi cơ cấu hành chính, đảm bảo giá
trị gần với thực tế cho các nhà thầu. Ngoài ra với việc xác định công thức phù hợp sẽ cho phép
xác định ngay khi lập dự toán một cách tương đối gần khoản kinh phí do trượt giá vật liệu, giúp
cho các chủ đầu tư chủ động trong việc dự trù nguồn vốn cho công trình, dự án. Các nhà thầu
cũng sẽ thu lại được tối đa các chi phí chính đáng bỏ ra trong quá trình xây dựng công trình do
biến động về giá vật liệu.
- Đặc biệt, nếu xây dựng được công thức trượt giá chuẩn xác và cải tiến công tác lập dự toán thfi
công việc điều chỉnh Tổng mức đầu tư, Tổng dự toán, một công tác rất khó khăn phức tạp trong
suốt thời gian vừa qua với tất cả các đơn vị từ Quản lý, Chủ đầu tư, Tư vấn sẽ trở nên đơn giản
và chính xác, với các kết quả tính toán giải trình rõ ràng, minh bạch, thuyết phục.

9. Dự phòng phí cho công trình xây dựng
- Cần tách riêng dự phòng cho trượt giá và khối lượng. Khoản dự phòng cho trượt giá phải được
xem xét tính toán sao cho gần với thực tế biến động bằng các công thức, các hàm theo phương
pháp thống kê, tính toán trên cơ sở độ dài thời gian xây dựng. Chỉ quy định tỷ lệ % dự phòng cho
khối lượng. Có như vậy hiệu quả đầu tư cho dự án mới đảm bảo như tính toán, không bị động
trong quá trình triển khai thực hiện đặc biệt là với các dự án BOT, BT, BTO và các hình thức đầu
tư khác.

KS. Võ Hoàng Anh
(Nguồn tin: T/C Cầu đường Việt Nam, số 10, năm 2006)

×