1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ 8
1.1. CÁC KHÁI NIỆM 8
1.2. CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ẢNH CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ 13
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ 22
1.4. KINH NGHIỆM CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG 32
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG CỦA TỈNH TRÀ VINH 35
2.1. TÌNH HÌNH CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA
TỈNH TRÀ VINH 35
2.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ 60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 80
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA TỈNH 81
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỈNH TRÀ VINH 81
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
TRONG THỜI GIAN TỚI 83
KẾT LUẬN 109
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh quy mô tăng
lên hay giảm đi của nền kinh tế ở năm này so với năm trước đó hoặc của một
thời kỳ này so với thời kỳ trước đó. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu hiện bằng
quy mô tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng. Quy mô tăng trưởng phản ảnh sự
gia tăng lên hay giảm đi nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng
với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ảnh sự tăng nhanh hay chậm của nền
kinh tế giữa năm hay các thời kỳ. Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta
thường dùng 2 chỉ số chủ yếu: phần tăng, giảm quy mô của nền kinh tế (tính
theo GDP), hoặc tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (tính theo GDP). Nói tóm
lại tăng trưởng kinh tế cho phép gia tăng nhanh quy mô nền kinh tế. Do xuất
phát điểm về kinh tế thấp nên tăng trưởng kinh tế nhanh đang là mục tiêu của
nhiều địa phương, lãnh thổ của Việt Nam. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng
nhanh hơn họ đều phải huy đọng mọi khả năng và nguồn lực có thể. Nhiều
nơi đã đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng nhìn lại kết quả đạt
được và những gì phải hy sinh thì cái giá phải trả là khá lớn đó là sự hủy hoại
môi trường, các mâu thuẫn xã hội nảy sinh,… Thực tế cho thấy nhiều “loại”
tăng trưởng không đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại
còn để lại những hậu quả không tốt cho các thế hệ tương lai phải gánh chịu.
Năm 1996, UNDP đã chỉ ra 05 lại tăng trưởng xấu để các quốc gia tham khảo,
đó là: (1) Tăng trưởng không việc làm: Tăng trưởng không tạo ra việc làm
mới, (2) Tăng trưởng không lương tâm: Tăng trưởng chỉ đem lại lợi ích cho
một bộ phận nhỏ người giàu, điều kiện sống của phần đông người nghèo
không được cải thiện, (3) Tăng trưởng không tiếng nói: Tăng trưởng không
gắn với sự cả thiện về dân chủ, (4) Tăng trưởng không gốc rễ: Tăng trưởng
nhưng đạo đức xã hội bị suy thoái, (5) Tăng trưởng không tương lai: Tăng
3
trưởng nhưng hủy hoại mô trường sống của con người. Bối cảnh này đã đặt
nhiều nền kinh tế trước vấn đề nan giải là làm thế nào để bảo đảm và nâng
cao chất lượng tăng trưởng kinh tế? Khi bàn về chất lượng tăng trưởng hầu
như chưa có sự thống nhất về quan niệm, nội dung và tiêu chí nhất định cho
dù dưới các khía cạnh của nó đã được đề cặp tới.
Trà Vinh là một tỉnh nghèo nằm trong khu vực các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long, xuất phát điểm nền kinh tế thấp so với các tỉnh và cả nước, cơ cấu
kinh tế khu vực I chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu nền kinh tế của tỉnh
(chiếm khoảng 50% trong cơ cấu kinh tế), là tỉnh được chia tách từ tỉnh Cửu
Long năm 1992. Với những điều kiện của mình Tỉnh đã và đang cố gắn đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh
tế là 11,74% cao hơn mức trung bình cả nước thời kỳ 2006-2012. Thu nhập
bình quân đầu người ngày cũng được cải thiện, GDP bình quân đầu người đã
tăng gấp 2,07 lần so với năm 2005. Thế nhưng, chất lượng tăng trưởng kinh tế
của tỉnh cũng đang gặp phải nhiều vấn đề đáng quan tâm. Trình độ khoa học
của các doanh nghiệp chưa cao, sản phẩm chế biến sâu chưa nhiều, tỷ lệ lao
động qua đào tạo thấp, các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất vẫn chưa
thật sự sử dụng có hiệu quả,…Nếu các vấn đề này không sớm quan tâm thích
đáng thì trong tương lai không xa nó sẽ là vật cản trên con đường phát triển
kinh tế của tỉnh, đây chính là lý do để tôi chọn “Chất lượng kinh tế của tỉnh
Trà Vinh” làm đề tài nghiên cứu từ đó đề ra một số giải pháp nâng cao chất
lượng kinh tế của tỉnh Trà Vinh trong thời gian tới, giúp cho tỉnh Trà Vinh có
cái nhìn toàn diện hơn trong quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế
của tỉnh trong thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này hướng tới giải quyết một số mục tiêu cơ bản sau đây:
4
Thứ nhất là: Khái quát được lý luận chất lượng tăng trưởng và các yếu
tố ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng từ đó hình thành khung nội dung và
phương pháp nghiên cứu.
Thứ hai là: Chỉ ra được những điểm mạnh và các vấn đề trong chất
lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh Trà Vinh.
Thứ ba là: Tìm ra các cách thức nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng
kinh tế tỉnh Trà Vinh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: đối tượng nghiên cứu của đề tài
được xác định là chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh Trà Vinh.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt không gian: Tỉnh Trà Vinh.
+ Về mặt thời gian: từ năm 2005 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, đề tài kết hợp sử dụng nhiều
phương pháp: như phương pháp thống kê mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá,
mô hình hóa,…. Ưu điểm nổi bật của việc sử dụng kết hợp các phương pháp
là các phương pháp đó có thể bổ sung cho nhau, giúp nghiên cứu sâu đối
tượng nghiên cứu và đưa ra kết quả đáng tin cậy.
Đề tài sẽ sử dụng các phương pháp thu thập tài liệu, thông tin như: Kế
thừa các công trình nghiên cứu trước đó là quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2020; tổng hợp các nguồn số liệu thông qua báo cáo, tổng
kết của các sở, ban, ngành trong tỉnh; số liệu thống kê; lấy thông tin qua các
phương tiện thông tin đại chúng: như trang http.gso.gov.vn, Báo chí, Internet,
…
5
5. Điểm mới của đề tài
Điểm khác biệt của đề tài: là ở chổ chưa có những nghiên cứu về chất
lượng tăng trưởng kinh tế trong phạm vi một địa phương (cụ thể là tỉnh Trà
Vinh), khung nội dung phân tích được bổ sung thêm trên cơ sở tổng kết các
nghiên cứu mới của thế giới và Việt Nam. Đề tài đưa ra những khuyến nghị
nhằm thực hiện nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trong các thời kỳ
phát triển nhất định với bối cảnh kinh tế-xã hội và thực tiển của tỉnh Trà Vinh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thông qua nghiên cứu này, đề tài mong muốn đóng góp một phần nhỏ
vào việc làm rõ hơn khía cạnh chất lượng tăng trưởng kinh tế về mặt phương
pháp luận.
Về thực tiễn, đề tài đưa ra một số đánh giá bước đầu về chất lượng tăng
trưởng kinh tế của tỉnh Trà Vinh, và đề xuất nhằm nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế của tỉnh. Nhiều khía cạnh chưa chưa được nghiên cứu sâu và
đầy đủ cũng là gợi mở cho các đề tài tiếp theo.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng kinh tế
Chương 2. Thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế tại
tỉnh Trà Vinh
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng
kinh tế tỉnh Trà Vinh
8. Tổng quan nghiên cứu
Các công trình ở nước ngoài về đề tài chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế tuy chưa bàn tới trực tiếp nhưng đã
được bàn tới từ lâu trong Kinh tế học. Các tác phẩm kinh điển đã đề cập tới
6
như Ricardo (1821) trong tác phẩm “Những nguyên tắc về thuế và chính sách
kinh tế” đã khẳng định phải khai thác hiệu quả đất đai thì mới bảo đảm phát
triển. Marx trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bộ Tư bản, quyển I được
xuất bản năm 1867 đã cho rằng tiến bộ công nghệ và sử dụng hiệu quả lao
động sẽ là động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Solow (1956) cho rằng nếu chỉ dựa vào vốn thì tăng trưởng chỉ trong
ngắn hạn và sau này Mankiw (2006) đã phát triển và chỉ ra việc nâng cao chất
lượng lao động sẽ tăng hiệu quả của lao động - yếu tố tiến bộ kỹ thuật sẽ bảo
đảm chất lượng tăng trưởng. Còn theo Kaldor, N (1961) tiến bộ kỹ thuật
quyết định tăng trưởng kinh tế.
Theo Sung Sang Park (1992), tăng trưởng kinh tế phải dựa vào không
chỉ tích lũy vốn sản xuất mà còn phụ thuộc nhiều vào tích lũy vốn con người
của lao động ở đó. Vốn con người của lao động là kết quả của quá trình tích
lũy về kiến thức, kỹ năng và kiến thức,…trong cuộc sống sản xuất và đào tạo
của xã hội. Vốn vô hình này là cơ sở để nâng cao trình độ kỹ thuật để sản xuất
nền tảng để thay đổi cách thức sản xuất của nền kinh tế.
Để đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế, một số nhà kinh tế thế giới
tiêu biểu như Lucas (1993); Sen (1999) và Stiglitz (2006) và Ngân hành thế
giới, Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc đã đưa ra một số chỉ tiêu cơ
bản như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh được
những biến động từ bên ngoài, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, được thể
hiện ở sự đóng góp của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp TFP cao và không
ngừng gia tăng, tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tăng trưởng đi kèm theo phát triển
môi trường bền vững, tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới,
đến lượt nó thúc đẩy cho tăng trưởng ở tỷ lệ cao hơn, tăng trưởng phải đạt
được mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và giảm được đói nghèo.
7
Các công trình nghiên cứu trong nước
Vấn đề tăng trưởng kinh tế mới chỉ được các nhà nghiên cứu kinh tế
trên thế giới quan tâm nghiên cứu từ lâu, và ở Việt Nam trễ hơn. Vấn đề tăng
trưởng được các nhà nghiên cứu phân tích theo nhiều góc độ khác nhau.
Theo nghiên cứu của Lê Đức Huy (2004) thì nâng cao chất lượng tăng
trưởng được đặc trưng ở những yêu cầu chủ yếu như là: Phát huy lợi thế so
sánh nhằm tăng trưởng nhanh và đạt hiệu quả kinh tế cao, đẩy mạnh xuất
khẩu; tăng nhanh được năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ và tăng
trưởng kinh tế gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường.
Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt (2006) đã đưa ra các phương diện
cần tiến hành đánh giá như: (1) chuyển dịch cơ cấu kinh tế; (2) hiệu quả sử
dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là đóng góp của TFP vào tăng trưởng; (3)
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế; (4) phân
phối thành quả tăng trưởng; (5) tăng trưởng đi đôi với bảo vệ tài nguyên môi
trường.
Nguyễn Hữu Hiểu (2009) lại đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế
dưới góc độ hiệu quả sản xuất bằng ước lượng mức độ đóng góp của các nhân
tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất (vốn, lao động, tiến bộ công nghệ)
tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Bùi Quang Bình (2012) lại nhấn mạnh chất lượng tăng trưởng trên góc
độ cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó xem xét toàn diện cơ
cấu ngành, các yếu tố sản xuất,… Nguyễn Đình Cử (2012) tập trung vào khía
cạnh khai thác và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. CÁC KHÁI NIỆM
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế không đồng nghĩa với việc phát triển kinh tế, tăng
trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý thuyết về phát triển
kinh tế và hiện đang là vấn đề thời sự và được quan tâm bởi nhiều đối tượng
khác nhau từ nhà nghiên cứu, chính trị hay người dân và doanh nghiệp. Đây
là một khái niệm tiền đề, là nền tảng của nhiều mối quan hệ góp phần tạo nên
các mối quan hệ đa chiều của xã hội. Các mối quan hệ đó có thể bao gồm
giữa tăng trưởng và công bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế và văn hóa, tăng
trưởng kinh tế và môi trường, tăng trưởng kinh tế và tham nhũng,…. Do đó,
việc nắm rõ các khái niệm cũng như các lý luận và lý thuyết về tăng trưởng sẽ
góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống hơn về mối quan hệ của tăng
trưởng với các khái niệm và phạm trù khác, và để từ đó góp phần hài hòa khái
niệm này với các khái khái niệm và phạm trù khác.
Có rất nhiều nghiên cứu khác nhau nhưng phần lớn đều cho rằng Tăng
trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế nó phản ánh quy mô tăng lên hay giảm
đi của nền kinh tế ở năm này so với năm trước đó hoặc của một thời kỳ này so
với thời kỳ trước đó. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu hiện bằng quy mô tăng
trưởng và tốc độ tăng trưởng. Quy mô tăng trưởng phản ảnh sự gia tăng lên
hay giảm đi nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so
sánh tương đối và phản ảnh sự tăng nhanh hay chậm của nền kinh tế giữa năm
hay các thời kỳ. Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng 2 chỉ
số chủ yếu: phần tăng, giảm quy mô của nền kinh tế (tính theo GDP), hoặc tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế (tính theo GDP).
9
Tương tự như vậy Bùi Quang Bình, 2012 cho rằng “Tăng trưởng kinh
tế là sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế (GDP) hay sản lượng
của nền kinh tế tính trên đầu người (GDP/ng) qua một thời gian nhất định.
Thường được phản ánh qua mức tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng”.
Có hai điểm chung nhất trong các khái niệm:
(1)
Tăng trưởng kinh tế liên
quan đến sự gia tăng thu nhập quốc dân thực trên đầu người chứ không phải
là thu nhập doanh nghĩa do đó cần phải điều chỉnh lạm phát khi tính toán.
(2)
Quy mô sản lượng của nền kinh tế tính trên đầu người lại phụ thuộc vào quy
mô sản lượng của nền kinh tế và dân số quốc gia. Nếu sự gia tăng của nền
kinh tế cả hai yếu tố này khác nhau sẽ làm cho quy mô sản lượng của nền
kinh tế tính trên đầu người thay đổi. Do vậy, trong nhiều trường hợp thu nhập
bình quân đầu người không hề được cải thiện mặc dù có mức tăng trưởng
dương.
1.1.2. Chất lượng tăng trưởng kinh tế
Sự gia tăng sản lượng GDP hay GDP/ng của nền kinh tế chỉ mới phản
ánh một mặt lượng của tăng trưởng. Nhưng sự gia tăng quy mô sản lượng của
nhiều nền kinh tế gần đây đang có những vấn đề lớn khi đằng sau sự tăng
trưởng nhanh có nhiều vấn đề lớn như: tăng trưởng không ổn định dễ biến
động, lãng phí nguồn lực, bất bình đẳng ngày càng lớn, tài nguyên môi trường
bị khai thác cạn kiệt cùng với tình trạng ô nhiễm nặng nề,…. Vì thế người ta
bắt đầu chúng trọng hơn việc ổn định tăng trưởng nhằm duy trì dài hạn hay
nâng cao chất lượng tăng trưởng cùng với đó là nhiều nghiên cứu tập trung
vào giải quyết vấn đề này.
Các nhà kinh tế học trước đây tuy không nói rõ chất lượng tăng trưởng
là gì nhưng cũng nhấn mạnh sự tăng trưởng chỉ được tạo ra ổn định chắc chắn
nhờ tăng năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh như Ricardo
1();
(
2
) PGS.TS. Bùi Quang Bình – Kinh tế phát triển, Đà Nẵng
2
10
(1821), ông khẳng định: Phải khai thác sử dụng hiệu quả đất đai thì mới đảm
bảo phát triển. Marx (1867) cho rằng: Tiến bộ công nghệ và sử dụng hiệu quả
lao động sẽ là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Solow (1956) cho rằng: Nếu
chỉ dựa vào vốn thì tăng trưởng chỉ trong ngắn hạn. Mankiw (2006) đã phát
triển và cho rằng: Việc nâng cao chất lượng lao động sẽ tăng hiệu quả của lao
động - yếu tố tiến bộ kỹ thuật sẽ bảo đảm chất lượng tăng trưởng, nghĩa là
chất lượng tăng trưởng thể hiện sự đóng góp của yếu tố tiến bộ ngày càng lớn.
Kaldor, N (1961) tiến bộ kỹ thuật quyết định tăng trưởng kinh tế. Sung Sang
Park (1992) cho rằng: Tăng trưởng kinh tế có chất lượng khi sự gia tăng GDP
đó dựa vào vốn con người (vốn sản xuất và trình độ, kỹ năng và kiến thức lao
động) chứ không chỉ là vốn sản xuất. Nghĩa là chú trọng gia tăng GDP trên
khía cạnh chiều sâu. Khác với tăng trưởng theo chiều rộng là tăng trưởng dựa
vào vốn, tăng lao động và tăng cường khai thác tài nguyên. Tăng trưởng theo
chiều sâu thể hiện ở tăng năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn sản xuất
nâng cao với thước đo tổng hợp năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng
lên. Theo như các nhà kinh tế học trường khái này (đã nêu ở phần tổng quan)
thì đối với các nước đang phát triển chiều rộng vẫn là chủ đạo trong yếu tố
tăng trưởng. Như vậy, chất lượng tăng trưởng được quan niệm theo nguồn
gốc tăng trưởng. Theo đó, để tăng trưởng có hiệu quả kinh tế cao, cần đầu tư
nâng cao chất lượng ngành giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, nghiên cứu
triển khai.
Quan điểm của Zhao Guahao (2006), Joseph E.stiglitz (2002) cũng như
quan điểm của giáo sư kinh tế thuộc nhiều trường đại học ở Mỹ cho rằng tăng
trưởng kinh tế có chất lượng khi cơ cấu kinh tế được đảm bảo. Trong cơ cấu
kinh tế cơ cấu kinh tế ngành kinh tế rất được xem trọng. Tính hợp lý của quan
niệm này là coi chất lượng sự vật là sự biến đổi cơ cấu bên trong của sự vật,
không gắn chất lượng sự vật với mục đích tồn tại, bối cảnh, môi trường, điều
11
kiện mà sự vật tồn tại. Cơ cấu ngành là tương quan giữa các ngành trong tổng
thể kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại lẫn nhau cả về
lượng và chất giữa các ngành. Để làm rõ tác động của các ngành tới sự tăng
trưởng của nền kinh tế cần thiết nghiên cứu thêm cơ cấu tăng trưởng. Cơ cấu
tăng trưởng thể hiện ở chỉ tiêu điểm phần trăm đóng góp của các ngành vào
tăng trưởng và chỉ tiêu tỷ trọng đóng góp của mỗi bộ phận trong 100% mức
tăng trưởng. Cơ cấu tăng trưởng có thể xem xét theo khu vực thể chế, thành
phần kinh tế, vùng, miền và theo yếu tố sản xuất: vốn, lao động, TFP.
Trước đây cũng đã có một lý thuyết kinh tế đã khẳng định mối gắn kết
chặt chẽ giữa cơ cấu ngành kinh tế và mức độ phát triển của nền kinh tế. Tiêu
biểu nhất phải kể đến lý thuyết “cất cánh” của Rostow. Rostow đã tổng hợp
theo lịch sử các giai đoạn phát triển trong hiện đại thành 5 giai đoạn đó là giai
đoạn “xã hội truyền thống”, giai đoạn “chuẩn bị cất cánh”, giai đoạn “cất
cánh”, giai đoạn “trưởng thành” và giai đoạn “tiêu dùng cao”. Ứng với mỗi
giai đoạn lại có những đặc trưng riêng được dễ dàng nhận biết qua sự thay đổi
của cơ cấu ngành kinh tế với quy luật chung là khi nền kinh tế đạ trạng thái
phát triển càng cao thì tỷ trọng ngành nông nghiệp trong tổng sản phẩm càng
thấp, dần nhường chổ cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Một lý thuyết
khác đó là lý thuyết về thay đổi cơ cấu của Hollis Chenery, dựa vào nghiên
cứu về sự thay đổi của thu nhập bình quân đầu người ứng với các giai đoạn
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nhiều nước trên thế giới ông đưa ra kết luận: tỷ
trọng nông nghiệp có xu hướng giảm dần, tỷ trọng trong công nghiệp có xu
hướng tăng dần ứng với GDP/ng tằng dần.
Gần đây người ta bàn kỹ hơn khía cạnh xã hội nhiều hơn của tăng
trưởng chẳng hạn quan niệm của Rizwanul (nhà kinh tế thuộc tổ chức ILO)
như đã đề cặp đến ở phần trước và còn là quan niệm của các nhà kinh tế học
của các tổ chức OXFAM. Phúc lợi xã hội không chỉ thể hiện ở thu nhập bình
12
quân đầu người mà còn là chất lượng của cuộc sống, môi trường xã hội, môi
trường tự nhiên, cơ hội học tập và chăm sóc sức khỏe,…. Nếu quá quan tâm
đến tăng trưởng mà ít chú ý đến công bằng xã hội sẽ dẫn đến bất ôn xã hội và
tăng trưởng thể bền vững, ngược lại, nếu quá đề cao công bằng xã hội thì
không có động lực để thúc đẩy tăng trưởng. Sự kết hợp hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ tạo ra chất lượng của tăng trưởng kinh
tế.
Vấn đề tăng trưởng mới chỉ được các nhà kinh tế trên thế giới quan tâm
nghiên cứu từ lâu. Vấn đề chất lượng tăng trưởng kinh tế được các nhà kinh tế
Việt Nam xem xét theo nhiều góc độ khác nhau.
Một số cho rằng tăng trưởng có chất lượng khi nâng cao chất lượng
tăng trưởng được đặc trưng ở những yêu cầu chủ yếu như là: Phát huy được
lợi thế so sánh nhằm tăng trưởng nhanh và đạt hiệu quả kinh tế cao, đẩy mạnh
xuất khẩu; tăng nhanh được năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ và
tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường (Lê Đức Huy
(2004)).
Chất lượng tăng trưởng được tiến hành đánh giá như: (1) chuyển dịch
cơ cấu kinh tế; (2) hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là đóng góp
của TFP vào tăng trưởng; (3) khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
toàn bộ nền kinh tế; (4) phân phối thành quả tăng trưởng; (5) tăng trưởng đi
đôi với bảo vệ tài nguyên môi trường (Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt
(2006)).
Hay đánh giá chất lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả sản xuất
bằng cách ước lượng mức độ đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản của quá
trình sản xuất (vốn, lao động, tiến bộ công nghệ) tới tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam của Nguyễn Hữu Hiểu (2009).
13
Bùi Quang Bình (2012) lại nhấn mạnh chất lượng tăng trưởng trên góc
độ cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó xem xét toàn diện cơ
cấu ngành, các yếu tố sản xuất,… Nguyễn Đình Cử (2012) tập trung vào khía
cạnh khai thác và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nhìn chung, chất lượng tăng trưởng kinh tế được các nhà kinh tế đề cặp
đến nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau nhưng có cùng những điểm chung
nhất định. Tổng hợp các các nguyên cứu về đều này của các chuyên gia trên
thế giới và trong nước, đề tài xin đưa ra một quan niệm về chất lượng tăng
trưởng kinh tế và sử dụng nó thống nhất cho toàn bộ nghiên cứu:
Một nền kinh tế tăng trưởng có chất lượng là tăng trưởng có tốc độ
tăng tương xứng với sản lượng tiềm năng, ổn định trước những cú sốc do dựa
trên khai thác và sử dụng các nguồn lực có chiều sâu, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch phù hợp với yêu cầu phát triển; cùng với quá trình đó xã hội ngày càng
tiến bộ và công bằng hơn, môi trường sinh thái không bị hủy hoại.
1.2. CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ẢNH CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
Phần trên đã trình bày về các khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế
nhưng chỉ đề cặp đến những nội dung cơ bản của nó về kinh tế - xã hội và
môi trường. Trong phần này sẽ đi sâu nghiên cứu vào những chỉ tiêu phản ảnh
các mặt làm cơ sở đo lường chất lượng tăng trưởng kinh tế. Đây là cơ sở để
đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế trong thực tiễn của địa phương.
1.2.1. Chỉ tiêu phản ảnh tăng trưởng kinh tế
Các chỉ tiêu phản ảnh tăng trưởng kinh tế dựa theo hệ thống tài khoản
quốc gia (SNA) mà Việt Nam áp dụng từ năm 1993 bao gồm: tổng giá trị sản
xuất (GO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc gia (GNP),
tổng thu nhập quốc dân (GNI), thu nhập quốc dân (NI), tổng sản phẩm tính
bình quân đầu người. Tùy theo điều kiện của mỗi quốc gia mà người ta sử
14
dụng khác nhau, với những nước xuất khẩu vốn thì dùng GNP và những nước
nhập khẩu vốn như Việt Nam thường sử dụng GDP. Nhớ rằng GDP thực tế
phản ảnh toàn bộ lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trên lãnh thổ
nào đó trong một thời kỳ. Quy mô GDP hay quy mô sản lượng hàng hóa dịch
vụ này phản ảnh quy mô của nền kinh tế và được sử dụng để so sánh giữa các
nền kinh tế với nhau. Với điều kiện Việt Nam nghiên cứu quan tâm đến chỉ
tiêu GDP là chính.
Các công thức đo lường tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế có
thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tốc độ
tăng trưởng).
- Mức tăng trưởng kinh tế thay kỳ gốc:
Nếu gọi: Y là GDP hay GNP.
Y
t
là GDP hay GNP tại thời điểm t của kỳ phân tích (t = 0, 1, 2,…).
Y
t-1
là GDP hay GNP tại thời điểm t -1 của kỳ phân tích.
Y
0
là GDP hay GNP tại thời điểm gốc của kỳ phân tích.
ΔY là mức tăng trưởng so với kỳ gốc.
Khi đó: ΔY = Y
t
– Y
0
(1.1)
Khi đó: ΔY
t
= Y
t
– Y
t -1
(1.2)
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cho biết quy mô sản lượng gia tăng qua
các thời kỳ khác nhau. Sử dụng kết quả phần trên ta có
Tốc đố tăng trưởng giữa thời điểm t so với thời điểm gốc
g
Y
= ΔY*100/Y
0
= (Y
t
– Y
0
)*100/Y
0
(1.3)
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn
g
Yi
= ΔY
t
*100/Y
t-1
= (Y
t
– Y
t-1
)*100/Y
t-1
(1.4)
Tốc đố tăng trưởng trung bình giai đoạn từ năm 0, 1, 2,… n được tính
bằng công thức sau:
15
n
n
Y
Y
Y
g
0
=
- 1 (1.5)
Với Y
n
là GDP năm cuối cùng của thời kỳ
Y
0
là GDP năm đầu tiên cùa thời kỳ tính toán
1.2.2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế
a. Nhóm chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất
Chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả sử dụng lao động - Năng suất lao động
Để tính năng suất lao động cho toàn bộ nền kinh tế, có thể đơn giản lấy
GDP (tính theo giá cố định) chia cho số lao động (hoặc giờ lao động). Nếu
GDP bình quân trên mỗi lao động được đánh giá trên cả ba khía cạnh:
Thứ nhất, NSLĐ tăng có thể là kết quả của lao động có tay nghề cao
hơn hoặc vốn đầu tư nhiều hơn, hoặc do yếu tố công nghệ, hiệu quả kỹ thuật
thể hiệu qua TFP hay sự kết hợp của tất cả các yếu tố này.
Thứ hai, NSLĐ bình quân tăng có thể là kết quả chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, làm cho tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành có năng suất cao tăng
lên, hoặc do tăng năng suất nội bộ ngành nhờ đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, NSLĐ tăng có thể là do chuyển dịch cơ cấu doanh nghiệp theo
các khu vực trong ngành kinh tế (giữa khu vực nước ngoài và trong nước,
giữa khu vực tư nhân và nhà nước) do mỗi khu vực có mức năng suất và mức
độ tăng năng suất khác nhau.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn - Hệ số ICOR
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là chỉ tiêu cho biết để tăng thêm
một đơn vị GDP đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư thực
hiện. Vì vậy, hệ số này phản ảnh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư dẫn
đến tăng trưởng kinh tế. Với nội dung đó, hệ số Icor được coi là một trong
những chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế. Theo Harrod-
Domar, hệ số ICOR được tính như sau:
16
Y
I
Y
K
ICOR
∆
=
∆
∆
=
(1.6)
Trong đó, I là tổng vốn đầu tư của năm nghiên cứu, ΔY là mức tăng
trưởng GDP của năm nghiên cứu so với năm trước đó, ΔK là lượng vốn sản
xuất tăng thêm của năm nghiên cứu so với năm trước đó. Các chỉ tiêu về vốn
đầu tư và GDP để tính hệ số ICOR theo phương pháp này phải được đo theo
cùng một loại giá (theo giá thực tế hoặc theo giá so sánh).
Vì I = s*Y thay vào (1.6)
Ta có:
)7.1(
g
s
ICOR
=
Từ (1.7) tăng trưởng kinh tế phục thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn sản
xuất, khi hiệu quả này càng cao sử dụng vốn càng cao thì GDP tăng trưởng
cao.
Tổng các nhân tố năng suất (TFP)
Mặc dù 2 chỉ tiêu năng suất lao động xã hội và hiệu quả sử dụng vốn
được sử dụng nhiều trong phân tích hiệu quả kinh tế, nhưng quá trình sản xuất
có 3 yếu tố chính làm tăng GDP: lao động, vốn sản xuất và TFP. Nếu chỉ chia
GDP/lao động hay vốn đầu tư chi mức tăng GDP, thì những chỉ số này không
thể phản ánh đóng góp riêng của yếu tố năng suất. Phần thặng dư này phản
ánh việc tăng chất lượng tổ chức lao động, chất lượng máy móc, vai trò của
quản lý và tổ chức sản xuất, được gọi chung là tổng nhân tố năng suất (TFP).
Người ta thường dùng phương pháp hạch toán tăng trưởng của Solow
để xác định mức đóng góp của các nhân tố của quá trình sản xuất, đặc biệt là
năng suất của các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng GDP dựa vào số liệu thực
tế. Nếu như một nền kinh tế có tỷ lệ đóng góp của lao động (L) và vốn sản
xuất (K) vào GDP cao, ta nói nền kinh tế đó tăng trưởng theo chiều rộng,
ngược lại nếu tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế các yếu tố tổng hợp (hay
17
năng suất nhân tố tổng hợp) cao ta nói nền kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu.
Tổng nhân tố năng suất cao (Total Factor Pruductivity), giúp duy trì tăng
trưởng kinh tế dài hạn và tránh được các biến đọng kinh tế từ môi trường bên
ngoài. Theo mô hình tăng trưởng tân cổ điển (Solow, 1956).
Dưạ vào hàm sản xuất Cobb - Douglas:
Y = aK
α
L
β
(1.8)
Trong đó, Y là sản lượng của nền kinh tế; K là khối lượng tư bản của
nền kinh tế; L là quy mô lao động; a là tổng nhân tố năng suất (TFP) như
công nghệ và trình độ tổ chức quản lý.
α, β: là độ co giản của vốn và lao động theo sản lượng.
Hệ số β bằng tỷ số giữa thu nhập của người lao động và giá giá trị gia
tăng, còn α = 1- β nếu hàm này có lợi suất không thay đổi theo quy mô.
Chuyển đổi thành dạng tuyến tính và lấy vi phân hai vế ta có
g
Y
= g
TFP
+ αg
L
+ βg
K
g
TFP
= g
Y
- αg
L
- βg
K
(1.9)
Trong phương trình trên, g
Y
là mức tăng trưởng của tổng thu nhập hay
GDP; g
L
và g
K
lần lượt là tỷ lệ tăng lao động và tăng trưởng trữ lượng vốn (K)
như vậy TFP thể hiện năng suất của nền kinh tế a = g
TFP
là tỷ lệ thay đổi của
TFP.
Với ý nghĩa của hệ số α và β người ta tính toán dựa vào phương pháp
hoạch toán như sau:
β
=
Thu nhập của người lao động từ sản xuất
GDP
Tức β là tỷ lệ thu nhập của người lao động trong GDP. Từ đó suy ra α =
1 – β
Thu nhập của người lao động sản xuất là toàn bộ tiền lương và các
khoản thu nhập khác ngoài tiền lương từ sản xuất.
18
Trong thống kê, khi tính được tỷ lệ thu nhập từ lao động của các nhân
tố trong nền kinh tế (α) và thu nhập từ vốn (β) thì áp dụng công thức (1.9)
cũng có thể tính ra sự đóng góp của TFP.
Điều quan trọng là từ (1.9) có thể tìm được tốc độ tăng của TFP và tỷ lệ
của nhân tố này trong 1% tăng trưởng như thông lệ phân tích chất lượng tăng
trưởng kinh tế.
b. Chỉ tiêu phản ánh liên tục tăng trưởng
Thường người ta tính khoảng thời gian mà tốc độ tăng trưởng dương
được duy trì bao nhiêu năm, ngoài xu hướng của nó sẽ được sử dụng để đánh
giá tính liên tục. Nguyên tắc 70 được áp dụng cho thấy nếu một nền kinh tế
tăng trưởng 7% năm thì 10 năm quy mô GDP sẽ tăng gấp đôi. Nếu tăng
trưởng 10% năm thì 7 năm nền kinh tế sẽ tăng GDP gấp đôi. Do vậy, nếu tăng
trưởng liên tục và với tốc độ ổn định lâu dài 7% còn cho phép phát triển
nhanh và tránh được bẫy của nước trung bình mà đang là vấn đề lớn cho tất cả
các nước đang phát triển hiện nay.
c. Chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của tăng trưởng - hệ số biến thiên
Để đo lường độ ổn định của tăng trưởng, trong nghiên cứu kinh tế
người ta thường sử dụng hệ số biến thiên - tỷ số giữa độ lệch chuẩn của tăng
trưởng và tốc độ tăng trưởng. Phương sai là trung bình của các biến thiên bình
phương giữa từng quan sát trong tập dữ liệu so với giá trị trung bình của nó.
Độ lệch chuẩn đơn giản là đại lượng được tính bằng cách lấy căn bậc hai của
phương sai.
Phương sai của tổng thể được ký hiệu bằng σ
2
. Công thức tính như sau:
N
X
N
i
i
∑
=
−
=
1
2
2
)(
µ
σ
(1.10)
Trong đó: N là số quan sát hay quy mô tổng thể
19
X
i
là giá trị quan sát thứ i (trong đề tài này là tốc độ tăng trưởng năm i).
µ là trung bình của tổng thể (trong trường hợp này là g
Y
là tốc độ tăng
trưởng trung bình của thời kỳ tính toán).
Độ lệch chuẩn tổng thể được kí hiệu là
2
σσ
=
(1.11)
Hệ số ổn định của tăng trưởng ở mỗi giai đoạn tạm ký hiệu là:
Y
g
a
σ
=
(1.12)
Do đó, hệ số biến thiên này càng thấp thì tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế càng ổn định ít biến động trong thời kỳ nghiên cứu và ngược lại.
d. Chỉ tiêu phản ánh khía cạnh tổng cầu của tăng trưởng
Tổng cầu Y = C + I + G + NX. Trong đó phần tiêu dùng của hộ gia
đình C chiếm tỷ trọng rất lớn và ảnh hưởng mạnh đến tăng trưởng thông qua
số nhân chi tiêu. Tiêu dùng của hộ gia đình phụ thuộc vào xu hướng tiêu dùng
biên MPC của họ và qua đó làm thay đổi số nhân chi tiêu.
Có nhiều cách xác định số nhân chi tiêu tùy theo số liệu thống kê nhất
là số liệu của các tỉnh có thể sử dụng tỷ lệ tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch
vụ so với GDP. Khi hệ số này cao thì nghĩa là xu hướng tiêu dùng cao nên số
nhân cao.
e. Các chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế có rất nhiều cách phân chia, tuy nhiên ở đề tài này chỉ
quan tâm chất lượng tăng trưởng kinh tế dưới góc độ ngành. Theo phân ngành
của Tổng cục Thống kê, nền kinh tế được phân chia thành 03 nhóm ngành lớn
là Nông - lâm nghiệp - Thủy sản, Công nghiệp - Xây dựng và Dịch vụ.
Cơ cấu kinh tế ngành phản ảnh ty trọng của mỗi ngành ở cả đầu vào và
đầu ra của sản lượng của nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác theo
hướng hiện đại hơn và tiên tiến hơn, mà cụ thể là tăng tỷ trọng của nhóm
20
ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng nhóm ngành nông
nghiệp trong GDP.
Thường thì người ta sẽ xem xét sự thay đổi tỷ trọng giá trị gia tăng của
các ngành này trong GDP theo công thức:
Nếu gọi Y
i
là
giá tăng của ngành i trong GDP nền kinh tế.
Tỷ trọng của ngành i trong GDP của nền kinh tế là 100*Y
i
/Y
Sự thay đổi tỷ trọng này trong thời kỳ nghiên cứu phản ánh vai trò của
mỗi ngành trong tạo ra sản lượng của nền kinh tế. Ngoài ra người ta còn
nghiên cứu xu hướng thay đổi của tỷ trọng mỗi ngành trong 1% tăng trưởng
để đánh giá chính xác hơn. Và được xác định như sau:
Nếu gọi ΔY
t
là mức độ tăng trưởng GDP của năm t so với năm trước đó
và ΔY
a
, ΔY
i
, ΔY
s
là mức tăng trưởng của ngành nông, công nghiệp và dịch vụ
thì ΔY
t
= ΔY
a
+ ΔY
i
+ ΔY
s
(1.13)
Tỷ trọng trong 1% tăng trưởng sẽ bằng quan hệ so sánh giữa mức tăng
trưởng và mức tăng GDP.
Để đo lường mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong một thời kỳ nhất
định bằng cách sử dụng hệ số cosφ hoặc góc φ theo công thức do các chuyên
gia Ngân hàng thế giới đề xuất.
∑ ∑
∑
=
)()(
)()(
1
2
2
2
12
tStS
tStS
Cos
ii
ii
ϕ
Trong đó: S
i
(t) là tỷ trọng ngành i trong GDP năm t. Góc φ (0
0
<φ<
90
0
) là góc giữa hai véc tơ cơ cấu kinh tế.
Nếu φ = 0
0
không có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nếu φ = 90
0
có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế lớn
f. Chất lượng tăng trưởng về mặt xã hội
Chất lượng tăng trưởng còn phải có tác động lan toả thành quả của tăng
trưởng đến các đối tượng chịu ảnh hưởng trong xã hội. Đều này được đề cặp
(1.14)
21
bắt nguồn từ mối quan hệ giữa hai mặt luôn đi liền với nhau là kinh tế và xã
hội. Tăng trưởng kinh tế mà các thành quả từ tăng trưởng không được sử
dụng vào giải quyết các vấn đề xã hội về lâu dài tăng trưởng sẽ bị hạn chế.
Các vấn đề xã hội được giải quyết tốt phúc lợi con người được nâng cao sẽ
cho phép nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết bất bình đẳng, mở
rộng thị trường sẽ tác động tốt tăng trưởng.
Quá trình tăng trưởng kinh tế phải kéo theo sự gia tăng các chỉ tiêu
phúc lợi xã hội dưới các mặt:
- Hệ số co dãn việc làm và tăng trưởng kinh tế:
Y
EM
g
g
e
=
e là hệ số co dãn việc làm của nền kinh tế.
g
EM
là tốc độ tăng trưởng việc làm.
g
Y
là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Ý nghĩa kinh tế: 1% tăng trưởng sẽ tạo được bao nhiêu phần trăm việc
làm tăng thêm trong nền kinh tế.
Với mỗi ngành kinh tế thì cũng áp dụng công thức này, chẳng hạn với
ngành công nghiệp.
Yi
Ei
i
g
g
e
=
e
i
là hệ số co dãn việc làm của khu vực công nghiệp
g
Ei
là tốc độ tăng trưởng việc làm ở khu vực công nghiệp.
g
Yi
là tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp (GDP công
nghiệp).
Ý nghĩa kinh tế: 1% gia tăng giá trị gia tăng sẽ tạo được bao nhiêu phần
trăm việc làm tăng thêm ở khu vực công nghiệp.
- Tăng trưởng kinh tế với bất bình đẳng và xóa đói giảm nghèo:
(1.15)
(1.16)
22
Người ta xét sự thay đổi của tỷ lệ hộ nghèo trong quá trình phát triển.
Hay người ta xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng với tỷ lệ hộ nghèo và
GINI, hệ số co giãn cách thu nhập hệ số Gini hoặc “chuẩn 40”.
Để phản ảnh một số tiến bộ xã hội khác, ta sử dụng thêm các chỉ số như
tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỷ lệ mù chữ, số bác sĩ trên một vạn dân,…. Đây
là các chỉ tiêu khó thống kê, tính toán nên đề tài này sẽ lấy những số liệu từ
Cục thống kê tỉnh Trà Vinh và một số nguồn có liên quan.
g. Chất lượng tăng trưởng về môi trường
Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn gắn với bảo vệ môi trường sinh thái
và tài nguyên thiên nhiên, không gây ô nhiễm môi trường hoặc khai thác bừa
bãi, làm cạn kiệt tài nguyên đất nước, người ta có thể sử dụng chỉ tiêu:
+ Diện tích rừng và tỷ lệ rừng bao phủ suy giảm hay tăng lên;
+ Hệ số sử dụng đất mỗi năm;
+ Mức độ ô nhiễm môi trường.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
Phần này sẽ xem xét cụ thể các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tăng
trưởng kinh tế. Các nhân tố này khá nhiều nhưng ở đây chỉ xem xét một số
nhân tố chính như sau:
1.3.1. Tài nguyên thiên nhiên
Các nhân tố tự nhiên là tiền đề cơ bản để phát triển và phân bố sản xuất
các ngành trong nền kinh tế. Từ thế kỹ 18, Ricacdo (1821) đã khẳng định đất
đai tài nguyên là nhân tố quan trọng quyết định tăng trưởng kinh tế. Nhưng
chính Ông cũng đã khuyến cáo cần phải khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn
tài nguyên này trên cơ sở phát triển theo chiều sâu khi tài nguyên đất đai có
giới hạn và quý hiếm. Tài nguyên thiên nhiên gồm: điều kiện tự nhiên, tài
nguyên đất rừng và các loại khoáng sản,….
23
Điều kiện tự nhiên:
Khí hậu, thời tiết, vị trí, địa hình, … cũng rất quan trọng trong phát
triển kinh tế. Vị trí địa lý thường sẽ tạo ra lợi thế trong hoạt động thương mại
và giảm chi phí vận chuyển. Nằm trong vùng kinh tế sôi động quan hệ giao
thương rộng sẽ giúp hoạt động mậu dịch và dịch vụ phát triển. Những điều
kiện thuận lợi về vị trí sẽ giúp cho quốc gia hay vùng lãnh thổ có thể thu hút
đầu tư bên ngoài hiệu quả. Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh
sáng, độ ẩm, chế độ gió và cả những bất thường của thời tiết như lũ lụt, gió
bão,… có ảnh hưởng rất lớn không chỉ tới việc xác định cơ cấu cây trồng vật
nuôi, cơ cấu mùa vụ, khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả quy định tính
mùa trong sản xuất và trong tiêu thụ sản phẩm. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi
chỉ thích hợp với điều kiện khí hậu nhất định (nghĩa là trong điều kiện đó cây
trồng, vật nuôi mới có thể phát triển bình thường) vượt quá giới hạn cho phép,
chúng sẽ chậm phát triển thậm chí không thể tồn tại. Muốn duy trì hoạt động
kinh tế cần phải có đầy đủ nguồn nước ngọt cho cây trồng, nước uống, nước
tấm rửa cho gia súc. Nước ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng cây
trồng, vật nuôi và hiệu quả sản xuất nông nghiệp, như ông cha ta đã khẳng
định “Nhất nước nhì phân”. Những nơi có nguồn nước dồi dào, thường xuyên
đều là những nơi có nền nông nghiệp trù phú, chẳng hạn như vùng hạ lưu các
con sông lớn như sông MêKông, Sông Hoàng Hà…. Ngược lại nông nghiệp
không thể phát triển được ở những nơi khan hiếm nước như các vùng hoang
mạc, bán hoang mạc. Do ảnh hưởng của khí hậu và địa hình nên nguồn nước
trên thế giới phân bố không đồng đều và thay đổi theo mùa. Ở nước ta lượng
tập trung quá lớn làm dư thừa nước, còn mùa khô ngược lại rất khan hiếm
nước. Điều đó gây ra nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Để khắc phục
trình trạng thiếu nước trong mùa khô và quá dư thừa nước cho mùa mưa,
người ta đã xây dựng các công trình thủy lợi, hồ chứa nước,…. để phục vụ
24
tưới tiêu một cách chủ động. Sự suy giảm nguồn nước ngọt là nguy cơ đe dọa
sự tồn tại và phát triển của nền nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Vì vậy chúng ta cần sử dụng hợp lý, tiết kiệm, bảo vệ nguồn nước.
Sinh vật trong tự nhiên xưa kia là cơ sở sinh vật thuần dưỡng, tạo nên
các giống cây trồng vật nuôi. Sự đa dạng về thảm thực vật và hệ động vật, hay
nói cách khác về loài cây, còn là tiền đề hình thành và phát triển các giống vật
nuôi, cây trồng và tạo khả năng huyển đổi cơ cấu nông nghiệp phù hợp với
điều kiện tự nhiên và sinh thái.
Đất đai không chỉ là tài nguyên mà còn là nguồn lực quan trọng vì mọi
hoạt động sản xuất và đời sống đều diễn ra trên đất. Đất đai chịu tải trên nó để
tạo ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ của nền kinh tế. Khi giá trị sản phẩm trên
đất cao thì giá cả của đất càng cao. Phân bổ các loại đất quyết định đến phân
bố các ngành kinh tế.
Tầm quan trọng của tài nguyên với chất lượng tăng trưởng kinh tế:
- Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố tạo cơ sở cho việc phát triển các
ngành kinh tế; Với quy mô lớn của các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ làm
cơ sở cho sự phát triển một số ngành như chế biến lâm sản, thủy sản, ngành
dầu khí, lọc hóa dầu có thể mở rộng phát triển từ nguồn đầu vào có sẵn trong
nước. Sự phát triển của các ngành kinh tế này sẽ quyết định sản lượng của nền
kinh tế cũng như duy trì dài lâu và bền vững sự tăng trưởng kinh tế. Trong bối
cảnh ngày nay vấn đề an ninh lương thực và năng lượng cho tăng trưởng đang
được coi trọng thì vai trò của tài nguyên ngày càng lớn.
- Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng cho quá trình tích lũy vốn
theo cả chiều rộng và chiều sâu; Việc tích lũy vốn của hầu hết các nước đòi
hỏi trải qua một quá trình lâu dài, có liên quan tới tiết kiệm trong nước và thu
hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên có những nơi ưu đãi về tài nguyên thiên
nhiên với trữ lượng lớn và đa dạng nên nhanh chống thúc đẩy tiến trình công
25
nghiệp hóa, tăng thu nhập ngoại tệ, tạo tích lũy vốn nhờ vào khai thác xuất
khẩu các nguồn này.
- Tài nguyên thiên nhiên là nhân tố quan trọng cho sự phát triển ổn định
của nền kinh tế; nguồn tài nguyên thiên nhiên còn là cơ sở cho sự phát triển
ổn định của nhiều ngành kinh tế khác nhau có liên quan từ nguồn cung cấp
nguyên liệu và nhiên liệu nội địa. Nếu một quốc gia được ưu đãi về tài
nguyên thiên nhiên sẽ tạo điều kiện cung cấp ổn định nhiên liệu và nguyên
liệu cho các ngành kinh tế, để không bị lệ thuộc nhiều vào nước ngoài. Thuận
lợi này chỉ có ở những nước dồi dào tài nguyên, còn nước nhập khẩu về tài
nguyên thường Chính phủ phải quản lý về giá để tránh tác động xấu đến các
ngành kinh tế.
1.3.2. Môi trường chính sách địa phương
Thực tế đang hình thành câu hỏi tại sao một số nước rất giàu trong khi
các nước khác rất nghèo. Câu trả lời là những khác biệt về tích lũy vốn, tốc độ
tăng trưởng dân số, thay đổi công nghệ và sự cải cách. Nhưng đây là những
nhân tố trực tiếp hay trước mắt tạo tăng trưởng chứ không phải những nhân tố
cơ bản. Lý do gì khiến các nước tích lũy vốn nhanh hơn hay đổi mới nhiều
hơn? Đã có những kết luận rằng những khác biệt về thể chế đã giải thích lý do
Tây Đức giàu hơn Đông Đức. Phần này sẽ trình bày thêm một nhân tố rất
quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, đó là môi trường chính sách của địa phương.
Thể chế có thể coi là “luật chơi”, hay qui định, điều luật, tập quán, mô
thức hành vi và mối quan hệ cấu thành sự tương tác xã hội. Những luật chơi
này có thể là chính thức hay không chính thức. Trong thể chế thì chính sách,
luật lệ của chính phủ và chính quyền là yếu tố cơ bản. Chính sách có thể đóng
vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, nhưng ta không thể chắc chắn.
Chính sách là một đầu ra hơn là đầu vào cho tăng trưởng. Nói cách khác thể
chế là nội sinh đối với quá trình tăng trưởng. Thể chế tốt hơn có làm tăng tốc