Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

nghiên cứu về mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.56 KB, 17 trang )

Mục Lục
Lời mở đầu 1
1. Trên phương diện lý luận 2
1.1. Thế nào là xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ 2
1.1. Khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ 2
1.2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ 3
1.2. Thế nào là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế 4
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế 4
1.2. Cơ sở lí luận của tư tưởng Marxist về toàn cầu hoá 4
1.3. Tính tất yếu trong việc hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta 6
1.4. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế 7
1.3. Mối liên hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ 8
2. Trên phương diện thực tiễn 11
3. Kết luận 14
Tài liệu tham khảo 15
1. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nguyễn Thúy Anh, Thạp chí cộng sản Số phát
hành 1 -2001 15
2. Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế-Động lực phát triển của Việt Nam trong
giai đoạn mới, PGS,TS. Nguyễn Xuân Thắng Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị
Thế giới 15
3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 15
4. Dự thảo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X 15
5. Đường lối phát triển kinh tế-xã hội bảo đảm quốc phòng, an ninh nước ta trong tình
hình mới. www.thanhnienkhcn.org.vn, đăng ngày 01/01/2006 15
6. Hội Nhập để phát triển, Vũ Khoan, Tạp chí cộng sản Số phát hành 6 -2002# 15
7. Nghị quyết 07- NQ/TW, ngày 27-11-2001 15
8. Nhận thức mâu thuẫn để phát triển công cuộc đổi mới ở Việt Nam Hiện nay: nhìn từ
giác độ mâu thuẫn của quá trình phát triển, GsTS Phạm Ngọc Quang (Hội đồng lý luận
TW), Tạp chí triết học 01/01/2006 15


9. Quá trình hình thành quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
Nguyễn Thúy Anh, Tạp chí cộng sản Số phát hành 42 -2003 15
10. Tạp chí nghiên cứu quốc tế Thách thức của quá trình toàn cầu hóa đối với các nước
đang phát triển, Trần Văn Cường, Tạp chí nghiên cứu quốc tế số ra ngày 08/06/2005,
www. Iir.edu.vn 15
11. Tham luận của Bộ truởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên Đoàn Đại biểu Khối Đối
ngoại tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, VN embassy www.mofa.gov.vn 15
12. Tính hai mặt của toàn cầu hoá kinh tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam, Nguyễn Thị Tỵ, Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Kinh tế, Đại học
Huế 15
1
13. Vì sao phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ?, Nguyễn Thúy, Tạp chí Cộng sản
Số phát hành 4 -2001 15
14. Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá vấn đề và giải pháp, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002 15
15. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nguyễn
Phú Trọng, Tạp chí cộng sản Số phát hành 2 -2001 15
2
Lời mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá trở thành xu thế phát triển chung của thời đại, nhiệm
vụ hội nhập kinh tế quốc tế được đặt ra vô cùng bức thiết. Báo cáo chính trị tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ chủ trương và phương châm của ta
là: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, chống lại sự áp đặt không công bằng, không
bình đẳng"
1
. Như vậy, không thể phủ nhận rằng giữa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ có mối quan hệ biện chứng với

nhau. Trong quá trình vận dụng học thuyết Hình thái Kinh tế-Xã hội vào sự nghiệp
Xây dựng chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam, đặc biệt trong thời gian gần đây, vấn đề hội
nhập kinh tế cũng là một vấn đề rất được quan tâm, trong thời điểm trước thềm Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X và Việt Nam đang xúc tiến tiến trình gia nhập Tổ chức
thương mại Thế giới WTO. Là một sinh viên, hơn nữa là sinh viên chuyên ngành kinh
tế, nhận thấy tầm quan trọng của việc hiểu rõ mối quan hệ giữa xây dựng một nền kinh
tế độc lập tự chủ với tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, em đã cố gắng tìm
hiểu mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ để từ đó có cơ sở và nền tảng cho việc học tập trong tương lai đồng thời
có cơ hội để trau dồi thêm kiến thức cả về nhận thức lý luận và về mặt kinh tế.
Do kiến thức về lý luận và hiểu biết thực tiễn còn nhiều hạn chế, trong phạm vi
bài tiểu luận em chỉ đưa ra những nét chung nhất về vấn đề nghiên cứu chứ chưa đi sâu
vào phân tích các khía cạnh chi tiết của vấn đề, em hy vọng trong thời gian tới sẽ có cơ
hội được nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với
hội nhập kinh tế quốc tế có nhận thức lý luận đúng đắn phù hợp với tình hình thực tiễn.
Tiểu luận sẽ gồm những nội dung chính như sau:
-Những nét chung về Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
-Những nét chính về Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
-Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc
tế
-Những vận dụng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
và trong thời gian tới.
1
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr 120
1. Trên phương diện lý luận
1.1. Thế nào là xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ
1.1. Khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ
Nhiệm vụ xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ đã được Đảng ta đưa ra từ rất
sớm. Nhưng phải hiểu như thế nào là một nền kinh tế độc lập tự chủ.Về khái niệm nền

kinh tế độc lập tự chủ, cần nhìn nhận rằng nó phải được xây dựng theo tiêu chí, một
mặt, xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, mặt khác, phù hợp với xu thế
phát triển chung của thế giới. Nhưng, xét cho cùng, điều quan trọng nhất của độc lập
tự chủ về kinh tế chính là quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc về đường lối phát triển
kinh tế, cơ chế vận hành, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Nếu như trước kia
khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ được hiểu là việc tự lực cánh sinh hoặc biệt lập,
khép kín, ít giao lưu hay chính là “bế quan toả cảng” và kém hiệu quả, thì ngày nay,
khái niệm này được hiểu một cách mềm dẻo và linh hoạt hơn, độc lập tự chủ có tính
tương đối. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế có thể thự thân vận động, không
bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào
đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh
tế, tài chính, thương mại, viện trợ để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc
gia và lợi ích cơ bản của dân tộc, sử dụng và phát huy được nội lực, chủ động hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, có khả năng đối phó và đứng vững trước những thách
thức, tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường,
trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản duy trì
sự ổn định và phát triển; trước sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực thù
địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối loạn.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được đặt trong mối quan hệ biện chứng với
việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, mở cửa, giao lưu với các nền kinh
tế, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, hợp tác bình đẳng và cùng
có lợi. Nói một cách chung nhất, “nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế có thể tự
thân vận động, sử dụng và phát huy được nội lực, chủ động hội nhập vào nền kinh tế
thế giới, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, không bị lệ thuộc vào bất cứ ai, thế lực
nào, có khả năng đối phó và đứng vững trước những thách thức, tác động tiêu cực từ
bên ngoài”
1
. Trong Bản dự thảo văn kiện đại hội Đảng X cũng đã cụ thể hoá thế nào là
xây dựng một nền kinh tế tự chủ: “xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là

độc lập tự chủ về đường lối, chính sách đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức
tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh
tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then
chốt; có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế tài chính vĩ
mô; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường ”
2
.
1
Tạp chí cộng sản số 4-2001
2
Dự thảo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
2
1.2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Trong việc vận dụng Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã xác định con đường phát triển thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây không chỉ là mục tiêu mà còn
là phương tiện quan trọng trong quá trình tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Trong khi “xác
định độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản, bảo đảm sự bền vững của
độc lập, tự chủ về chính trị”
1
trên “nguyên tắc bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập,
tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ vững bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ môi trường; hợp tác bình đẳng cùng có lợi, chống lại sự áp đặt không công
bằng, không bình đẳng”. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ
quan điểm, đường lối chính trị độc lập tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm
bảo đảm độc lập tự chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu
quả cho chính ngay nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Nói cách
khác, có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là
nền tảng vật chất để bảo đảm cho sự độc lập tự chủ bền vững về chính trị. Độc lập tự

chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt
khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia.
Thật vậy, không thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Để
giải thích vấn đề này, chúng ta hãy nhìn nhận nó dưới quy luật về mối quan hệ giữa Cơ
sở hạ tầng và Kiến trúc thượng tầng. Ở đây, nền kinh tế thuộc về phạm trù Cơ sở hạ
tầng còn chế độ chính trị thuộc phạm trù Kiến trúc thượng tầng xã hội. Theo Học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội nếu Cơ sở hạ tầng là nội dung thì Kiến trúc thượng
tầng là hình thức, vì nội dung có tính chất quyết định hình thức nên Cơ sở hạ tầng giữ
vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Như vậy có sự quyết định của quan hệ kinh tế
tới quan hệ chính trị. Do đó, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là tiền đề
quan trọng để thực hiện bảo vệ độc lập chủ quyền và ổn định chính trị của đất nước.
Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định
hướng xã hội chủ nghĩa và giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc trong công
cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không phải
chờ đến khi có trình độ phát triển cao mới đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, mà ngay
từ đầu, ngay bây giờ đã phải bảo đảm yêu cầu cơ bản về độc lập tự chủ, trước hết là về
đường lối chính trị, các nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế. Đương nhiên, xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao, ngày càng hoàn
chỉnh, ngày càng bền vững.
Như vậy, tất yếu phải xây dựng nền kinh tế tự chủ, nhưng xây dựng như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này Đại hội Đảng IX đã xác định: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ phải đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế, phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh”
2
sau đó dự thảo Đại hội Đảng X một lần nữa khẳng định “Gắn chặt
việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”
3
. Vậy,
1
Nguyễn Đức Bình. "Đôi điều suy nghĩ về vận mệnh của CNXH". Nhân dân, 5/7/2000

2
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr 120
3
Dự thảo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
3
chúng ta hãy cùng xem xét thế nào là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để hiểu rõ hơn
nhận định này.
1.2. Thế nào là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.
Nói đến hội nhập kinh tế quốc tế, không thể không đề cập đến toàn cầu hóa, trước
hết là toàn cầu hóa kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế có liên quan trực tiếp và là quá
trình đồng hành với quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Không thể có toàn cầu hóa kinh tế
nếu không có sự tham gia ngày càng đông của các quốc gia, dân tộc. Để hiểu rõ thế
nào là hội nhập kinh tế quốc tế, trước hết, chúng ta sẽ nghiên cứu về khái niệm Toàn
cầu hoá
Toàn cầu hoá (globalization) theo nghĩa rộng được hiểu là một hiện tượng hay
một quá trình trong quan hệ quốc tế làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau trên nhiều mặt của
đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá đến môi trường…) giữa các
quốc gia hay nói cách khác là “một xu hướng làm cho các mối quan hệ xã hội trở nên ít
bị ràng buộc bởi địa lý lãnh thổ”, xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những
mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau của tất cả các khu vực đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội của các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Nếu hiểu theo nghĩa
hẹp, toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ quá trình hình thành thị trường toàn cầu
làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia.
Nếu toàn cầu hoá khái niệm chỉ xu thế vận động khách quan bắt nguồn từ sự phát
triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật của thương mại và đầu tư quốc tế
với sự nâng cao vai trò của các công ty xuyên quốc gia và đánh dấu một giai đoạn phát
triển mới của nhân loại gắn với thời đại kinh tế tri thức thì khái niệm hội nhập kinh tế
quốc tế mang tính chủ quan của chủ thể quốc gia hội nhập, phản ánh năng lực nhận

thức và hành động của mỗi quốc gia trước yêu cầu và thách thức của toàn cầu hoá kinh
tế. Vậy hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị
trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hoá
và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương, và đa phương.
1
Hội nhập thực
chất chính là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá.
1.2. Cơ sở lí luận của tư tưởng Marxist về toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế bao trùm chi phối
toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế. Xu thế
khách quan này bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động quốc tế: toàn cầu hoá kinh tế là một giai đoạn mới của quốc tế hoá sản xuất,
đặc biệt từ những năm 80 của thế kỷ 20 trở lại đây trở thành xu thế quan trọng nhất
trong phát triển của nền kinh tế thế giới đầu thế kỷ 21.
Trước Marx, cũng có một số học thuyết lý giải về toàn cầu hoá, sự hình thành và
xu hướng phát triển của nó chúng ta sẽ xem xét một cách khái quát và sơ bộ về các học
thuyết này.
1
Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002,
tr 55
4
Tư tưởng trọng thương với tư tưởng chính là xã hội muốn giàu có, nhiều tiền bạc
phải phát triển công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp, trong đó ngoại thương giữ
vai trò quan trọng nhất. Thông qua buôn bán với nước ngoài, không những trao đổi
được nhiều sản phẩm, thu lợi làm giàu mà còn có thể kiểm soát được nước ngoài, sai
khiến được chư hầu và làm tổn hại kẻ thù.
1
Từ giữa thế kỷ XVIII, chủ nghĩa Trọng
thương không còn chiếm vị trí thống trị trong tư tưởng kinh tế và thực tiễn hoạt động
kinh tế trên thế giới tuy nhiên đã có ảnh hưởng sâu sắc đến thực tiễn hoạt động kinh tế

của quốc tế trong nhiều thế kỷ, thuyết trọng thương đã cung cấp những cơ sở lý luận
cho việc nghiên cứu và hoạch định chính sách để đối phó với toàn cầu hoá.
Thuyết Hiện thực ra đời trong khoảng chiến tranh thế giới thứ hai, trong khi các
học thuyết khác cố gắng lý giải tiến trình phát triển của xu thế toàn cầu hoá qua các
thời kỳ lịch sử khác nhau và lợi ích chung mà các quốc gia đạt được nhờ thương mại
và đầu tư quốc tế, thuyết Hiện thực lại cho rằng các quốc gia khi tham gia quá trình
toàn cầu hoá đều xuất phát từ cơ sở an ninh – chính trị, và do đó hệ thống kinh tế thế
giới đều vận hành trên cơ sở những lợi ích về chính trị và an ninh
Theo quan điểm Marxist, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và thị trường thế giới dưới
chủ nghĩa tư bản là một thể thống nhất và là biểu hiện của phân công lao động quốc tế
- cơ sở của thị trường thế giới. Sự phát triển của phân công lao động quốc tế quyết định
sự phát triển của thị trường thế giới. Ngược lại, sự phát triển của thị trường thế giới
thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Lý luận thị trường thế giới tư
bản chủ nghĩa của chủ nghĩa Marx là một cách tiếp cận mang tính lịch sử và biện
chứng về toàn cầu hoá. Tuy có mặt hạn chế là nhấn mạnh mặt trái của thị trường thế
giới, chưa phân tích đầy đủ những mặt tích cực của nó, nhưng chủ nghĩa Marx có cách
giải thích sâu sắc và toàn diện hơn các học thuyết khác về nguyên nhân của toàn cầu
hoá.
Theo cách nhìn Marxist, toàn cầu hoá là một xu thế lịch sử tất yếu bắt nguyền từ
tính chất xã hội của lao động sản xuất và là kết quả của sự phát triển và quốc tế hoá
của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Xã hội loại người được hình thành và phát triển thông qua quá trình lao động sản
xuất để tạo ra của cải và đấu tranh giữa con người với nhau để bảo vệ sự sinh tồn. Quá
trình lao động sản xuất và đấu tranh đó buộc từng con người phải tập hợp nhau lại
thành những cộng đồng và liên kết nhiều cộng đồng lại thành các dân tộc và tổ chức
thành các quốc gia, rồi các quốc gia tập hợp lại thành những nhóm quốc gia và cộng
đồng thế giới. Đó là một quá trình phát triển xã hội một cách tự nhiên và không thể
khác được. Bản thân lao động sản xuất và đấu tranh sinh tồn là một hoạt động xã hội
và tính xã hội của hoật dộng này ngày càng cao hơn, thể hiện ở chỗ ngày càng có nhiều
công việc và sản phẩm được thực hiện ở chỗ ngày càng có nhiều công việc và sản

phẩm được thực hiện không chỉ bởi một cá nhân mà còn do sự đống góp của rất nhiều
thành viên có khi ở nhiều quốc gia khác nhau. Xã hội càng phát triển thì sự phân công
lao động xã hội trên phạm vi quốc tế càng sâu rộng hơn và tinh vi hơn. Mức độ quốc tế
hoá ngày càng cao của quá trình lao động sản xuất này cũng đồng nghĩa với sự gia tăng
của xu thế toàn cầu hoá.
Trao đổi sản phẩm và các yếu tố sản xuất giữa người với người, giữa các cộng
đồng và giữa các quốc gia với nhau đóng góp hết sức quan trọng vào quá trình quốc tế
1
Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức bách khoa: Đại từ điển kinh tế thị trường, Hà Nội, 1998, tr 134, 141
5
hoá lực lượng sản xuất. Đây chính là yếu tố trực tiếp thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá.
Trong các xã hội xa xưa, các quốc gia, các dân tộc tồn tại trương đối biệt lập, ít có
quan hệ với nhau. Nhưng cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hoá, sự mở rộng thị trường thì các mối quan hệ cũng dần
dần vượt ra khỏi ranh giới quốc gia, hình thành các mối quan hệ quốc tế và quá trình
quốc tế hoá bắt đầu. Quá trình này được đặc biệt đẩy mạnh với sự ra đời và phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Những phát kiến về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm
thuộc địa, cuộc cách mạng công nghiệp và những thành tựu khoa học, công nghệ, sự
mở rộng thị trường quốc tế và các mối giao lưu quốc tế đã làm cho lực lượng sản xuất
của thế giới, đặc biệt là ở châu Âu và Bắc Mỹ , tăng lên mạnh mẽ, làm cho chủ nghĩa
tư bản thắng thế ở đây. Quá trình này đồng thời xoá đi tính chất cát cứ, biệt lập, khép
kín trong phạm vi quốc gia, mở rộng không gian hoạt động cho chủ nghĩa tư bản trên
phạm vi khu vực và toàn cầu.Marx và Engels đã nhận định: "Thay cho tình trạng cô
lập truớc kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp ta thấy phát triển những
quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc"
1
. Từ đó, cách đây 150 năm,
trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, hai ông đã chỉ ra rằng : "Ðại công nghiệp đã tạo ra
thị trường thế giới"
2

và “nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các
phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn cả đến những
dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy
là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã
man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục”
3
.Phân tích nói trên
của Marx và Engels cho thấy sự phát triển và quốc tế hoá sản xuất dưới chủ nghĩa tư
bản đã làm cho các nước gắn kết lại với nhau và tạo ra xu thế toàn cầu hoá.
4
Như vậy, có thể thấy toàn cầu hóa là quy luật phát triển khách quan của nền kinh
tế thế giới. Nó bắt nguồn từ quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất dưới tác động
mạnh mẽ của cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Toàn cầu hóa là xu thế tất
yếu, là tiến trình lịch sử, nó đang và sẽ cuốn hút hầu hết các nước trên thế giới vào
guồng máy của nó.
1.3. Tính tất yếu trong việc hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Trước hết, như phần trên đã kết luận, toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu đồng thời
nó là một tiến trình lịch sử chứ không phải là một sự phổ cập tức thì, là một bối cảnh
chứ không phải là một giải pháp, thừa nhận sự tất yếu của toàn cầu hoá thì trên quan
điểm lịch sử cụ thể cũng phải thừa nhận tính khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế.
Hơn nữa, Việt Nam kiên định xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhưng bỏ qua Chủ
nghĩa tư bản với tư cách là một hình thái Kinh tế xã hội, bỏ qua kiến trúc thượng tầng
chính trị, bỏ qua quan hệ sản xuất tư bẩn với tư cách là quan hệ sản xuất thống trị,
nhưng như vậy không có nghĩa là chúng ta phủ nhận sự phát triển của lực lượng sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Theo quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, để thực hiện được mục tiêu xây dựng thành công Chủ
1

2


3
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 4, tr 598, 602
2
3
4
Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002,
tr 34-38
6
nghĩa xã hội, trước hết, chúng ta phải phát triển lực lượng sản xuất đến trình độ tương
ứng với quan hệ sản xuất Xã hội Chủ nghĩa. Trong thời điểm hiện nay, lực lượng sản
xuất ở Việt Nam có sự phát triển không đồng đều, biểu hiện ở chỗ:
- Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ
khai
- Thị trường dân tộc thống nhất đang hình thành nhưng chưa đồng bộ
- Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường
- Trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn yếu
- Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của kinh tế quốc tế nói chung,
vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế của đất nước. Hội nhập giúp cho việc
mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị
trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát
triển kinh tế đất nước. Chính vì lẽ đó, mục tiêu tất yếu là phải hội nhập kinh tế quốc tế
để tranh thủ các ngoại lực để học hỏi trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật, trình độ
quản lí tổ chức tiến bộ để phát triển lực lượng sản xuất trong nước đồng thời đẩy mạnh
phát triển kinh tế cải thiện đời sống cho nhân dân. Cho nên, tại Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương khóa VII, Tổng bí thư Ðỗ Mười cũng đã phát biểu "Trong thời
đại ngày nay, bất cứ nước nào, dù phát triển đến đâu, cũng không thể tự khép kín được.
Với điểm xuất phát rất thấp như nước ta, tranh thủ nguồn lực bên ngoài là rất quan
trọng. Phải có chính sách khôn khéo, cách làm có kết quả để mở rộng quan hệ hợp tác
với bên ngoài nhằm khai thác tốt nhất tiềm lực và lợi thế bên trong”. Như vậy, sự bức

thiết không chỉ chủ động mà còn phải tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đúng như Nghị
quyết 07 của Bộ chính trị nêu rõ: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị
trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”
1
.
1.4. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Xuất phát từ cách hiểu thuật ngữ hội nhập như được xác định ở trên, tức là sự chủ
động tham gia của các quốc gia vào quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập bao
hàm các nỗ lực về mặt chính sách và thực hiện của các quốc gia để tham gia vào các
định chế, tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực. Nội dung chủ yếu của quá trình này bao
gồm:
Thứ nhất, ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế quốc tế; cùng các thành
viên đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam kết đối
với thành viên của các định chế, tổ chức đó.
Thứ hai, tiến hành các công việc cần thiết ở trong nước để bảo đảm đạt được mục
tiêu của quá trình hội nhập cũng như thực hiện các quy định, cam kết quốc tế về hội
nhập. Các nội dung quan trọng cần được triển khai thực hiện bên trong mỗi nước gồm:
Điều chỉnh chính sách theo hướng tự do hoá và mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ
hàng rào quan thuế và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đầu tư
và sự luân chuyển vốn, lao động, kỹ thuật – công nghệ giữa các nước thành viên ngày
càng thông thoáng hơn.
1
Nghị quyết 07- NQ/TW, ngày 27-11-2001
7
Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế (bao gồm cả cơ cấu sản xuất kinh doanh, cơ cấu
ngành và mặt hàng, cơ cấu đầu tư) phù hợp với quá trình tự do hoá và mở cửa nhằm
làm cho nền kinh tế thích ứng và vận hành có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế.

Tiến hành các cải cách cần thiết về kinh tế, xã hội, đặc biệt là cải cách hệ thống
các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đào tạo và chuẩn bị nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ công chức, những người
quản lý doanh nghiệp và lực lượng công nhân lành nghề có thể đáp ứng tốt các đòi hỏi
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các nước đang phát triển vừa có yêu cầu tự bảo vệ, vừa có yêu cầu phát triển nên
cũng tham gia để bảo vệ và tranh thủ lợi ích cho mình, nhất là các nước đang tiến hành
công nghiệp hoá. Lợi ích ở đây và mở được thị trường cho hàng xuất khẩu, tiếp nhận
vốn và công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó tạo ra công ăn việc làm, đảm bảo
tăng trưởng kinh tế, học tập được kinh nghiệm quản lý Vì vậy ngày nay; hầu hết các
nước trên thế giới đều thực hiện chính sách hội nhập (ngay cả Trung Quốc, một nước
có thị trường 1,3 tỷ dân, lớn hơn bất cứ một khu vực mậu dịch tự do nào, lại có khả
năng tự sản xuất được gần như hầu hết mọi thứ, từ đơn giản đến phức tạp, nhưng vẫn
kiên trì chủ trương hội nhập vào nền kinh tế thế giới) . Nhiều nước trình độ phát triển
kinh tế kém như Campuchia, Nepan cũng đã trở thành thành viên của WTO (sau hội
nghị Can-cun ở Mexico).
1.3. Mối liên hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ
Để giải quyết mối liên hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ trước hết chúng ta nghiên cứu về nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,
một nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Khi khẳng định thế giới thống nhất
ở tính vật chất được tạo thành từ những sự vật, hiện tượng cụ thể khác nhau. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng cho rằng, thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện
tượng và các quá trình cấu thành nên thế giới đó tồn tại trong mối liên hệ qua lại với
nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau. Ở đây,
chúng ta cũng nhìn nhận xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc
tế là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Ta có thể nhận
thấy mối liên hệ này qua các luận điểm sau:
Trước hết, phải nhìn nhận khách quan rằng hội nhập kinh tế quốc tế có những tác
động quan trọng đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.

Về tác động tích cực, có thể thấy rằng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
tạo ra những cơ hội mà các nước có thể tận dụng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế, nên xét cho đến cùng, hội nhập kinh tế quốc tế chính là một trong những giải pháp
để tiến hành xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Trong quá trình hội nhập,
thương mại và đầu tư được toàn cầu hoá, làm cho các rào cản đối với trao đổi thương
mại và đầu tư bị loại bỏ dần, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước tăng cường
thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và các nguồn lực bên ngoài, phát huy các nguồn lực
bên trong nhằm phát triển những ngành sản xuất mà mỗi nước có khả năng nhất và
hiệu quả nhất. Hơn nữa, quá trình hội nhập và tự do hoá thương mại còn làm tăng
cường quá trình trao đổi và chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới, nhờ
8
đó, những nước còn thấp kém về mặt công nghệ có khả năng đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng và nâng cao khả năng ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, do đó để
tránh khỏi nguy cơ tụt hậu và hơn nữa đẩy nhanh kinh tế đất nước cả về “thế” lẫn về
“lực”, không thể không mở cửa hội nhập để học tập và tiếp thu từ bên ngoài. Như khái
niệm nền kinh tế độc lập tự chủ mà Đại hội Đảng IX được nêu ở trên, có thể thấy rằng
trong bối cảnh toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu như hiện nay, mục tiêu xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi và gắn chặt với hội nhập kinh tế.
Tuy vậy, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt các nước trước thách
thức của cạnh tranh và điều chỉnh. Xu thế toàn cầu hoá đang lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia. Quá trình này đòi hỏi các nước mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá
thương mại, đầu tư. Điều đó cũng có nghĩa là đưa nền kinh tế và các doanh nghiệp
tham gia vào cuộc cạnh tranh quốc tế. Có thể coi cạnh tranh là một khía cạnh tích cực
của sản xuất, đó chính là động lực thúc đẩy sản xuất và mang đến nhiều lợi ích cho
người tiêu dùng, thông qua cạnh tranh, nền kinh tế có thể học hỏi cho mình những kinh
nghiệm và đồng thời nâng cao nội lực của kinh tế trong nước, với cơ hội mở rộng thị
trường các mặt hàng thế mạnh ra nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, cạnh
tranh quốc tế đặt các nền kinh tế và doanh nghiệp của các nước trước những thách thức
ngày càng lớn. Vì một vấn đề được đặt ra là với trình độ vốn yếu kém trong cạnh tranh
của các nhà sản xuất trong nước, liệu mở cửa có và áp lực cạnh tranh có phải là một

liều thuốc quá sức với đứa trẻ có thể trạng còn yếu ớt, thiếu kinh nghiệm sống và chưa
sẵn sàng để vào cuộc chơi với những đàn anh hùng hậu cả về “thế” và “lực”. Dưới áp
lực của xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, tất cả các nước đều phải tiến
hành điều chỉnh chính sách và các hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và
quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng tự do hoá và mở cửa nhiều hơn. Thách thức này
đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung
sang kinh tế thị trường là hết sức lớn. Do đó đòi hỏi không những phải điều chỉnh cơ
cấu kinh tế mà còn phải thay đổi toàn bộ cơ chế quản lý cũ bằng một cơ chế quản lý
mới cũng như phải sửa đổi, bổ sung hệ thống luật pháp và các quy định liên quan đến
chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư, các thủ tục hành chính, pháp lý, một số chính
sách xã hội để đảm bảo thực hiện được các cam kết quốc tế và làm cho quá trình hội
nhập đưa lại hiệu quả thiết thực đối với sự phát triển đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực
kinh tế. Những chi phí và thời gian cho việc điều chỉnh trên là rất lớn. Sai lầm trong
bước đi và phương thức tiến hành có thể dẫn đến những hậu quả tai hại, thậm chí cả đổ
vỡ về kinh tế xã hội.
Ngoài ra bên cạnh những tác động vào lĩnh vực kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế
còn có những ảnh hưởng rõ rệt vào chính trị - xã hội mà chúng ta có thể kể ra đây:
- Tác động đến vai trò của Nhà Nước.
Sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh
hưởn sâu sắc tới vai trò của các nhà nước hiện đại. Một mặtc, quá trình này
củng cố quyền lực nhà nước trên một số phương diện. Mặt khác, nó cũng làm
giảm vai trò của các nhà nước đơn lẻ trên những phương diện nhất định. Như
vậy, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang làm biến đổi
vai trò của các nhà nước, đặt chúng trước những thách thức của hàng loạt vấn
đề mới và các mối quan hệ tương tác ngày một tặc lên giữa chúng với cá chủ thể
khác của quan hệ quốc tế. Vấn đề đặt ra đối với các nước không phải là tìm
9
cách chống lại xu thế này mà phải tìm cách chủ động tham gia vào, biết điều
chỉnh và tự thích hợp dần với xu thế đó.
- Tác động đến an ninh quốc gia

Dưới tác động chủ yếu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế hoà
bình hợp tác để phát triển và vai trò to lớn của các công ty xuyên quốc gia, quá
trình toàn cầu hoá ngày nay đã đạt đến một đỉnh cao mới và trở thành một xu
thế bao trùm trong quan hệ quốc tế. Tình hình này có tác động sâu rộng tới mọi
mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong các nước cũng như quan hệ
giữa các quốc gia. An ninh của mỗi quốc gia và an ninh quốc tế đứng trước
những chuyển biến mới bao gồm cả cơ hội và thách thức. Về cơ hội, đó là sự ra
đời và củng cố mạng lưới dày đặc các thiết chế quốc tế đặc biệt là các tổ chức
quốc thế trong mọi lĩnh vực. Vai trò ngày càng tăng của các tổ chức quốc tế
trong quan hệ quốc tế góp phần hạn chế và giúp giảu quyết xung dột giữa các
nước, duy trì và củng cố hoà bình, an ninh quốc tế. Về thách thức, quá trình hội
nhập mở cửa cũng dặt các quốc gia trước rất nhiều thách thức đe doạ chính an
ninh quốc gia của họ nếu bản thân họ không kiểm soát và xử lý tốt các vấn đề
nảy sinh. Những thách thức này rất đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực. Về
kinh tế, thách thức lớn nhất vẫn là vấn đề cạnh tranh quốc tế. Làm thế nào để
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp
trong nước trước các đối thủ nước ngoài trong điều kiện toàn cầu hoá và mở cửa
là một bài toán khó đối với mọi nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Về
chính trị, quá trình tòan cầu hoá đặt ra những vấn đề phải xử lý, liên quan đến
độc lập chủ quyền, đến hệ thống chính trị và các thiết chế xã hội. Về mặt xã hội,
những thách thức của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc té mà các
nước phải đối mặt thể hiện tính phức tạp, chứa đựng nhiều hiểm hoạ đối với sự
ổn định cũ có thể gây ra những hiểm hoạ như: nguy cơ gia tăng thất nghiệp,
nguy cơ suy yếu của văn hoá truyền thống và bản sắc dân tộc; nguy cơ phổ biến
dễ dàng hơn các tệ nạn như khủng bố, ma tuý, mại dâm; nguy cơ gia tăng
khoảng cách giàu nghèo và bất công trong xã hội.
- Tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển
con người.
Toàn cầu hoá và hội nhập có nhiều tác động tích cực tới sự phát triển con người,
làm cho con người có nhiều điều kiện hơn để thoả mãn các nhu cầu về vật chất,

tinh thần, học tập, nghiên cứu, chăm sóc ý tế, phát huy khả năng sáng tạo và
các cơ hội mở rộng hơn để lựa chọn. Tuy nhiên nó cũng gia tăng sự phân hoá
giàu-nghèo, thất nghiệp, đói, mù chữ… đòi hỏi cần có những chính sách và
bước đi đúng đắn trong hội nhập.
Tóm lại, thông qua những tác động cả tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh
tế quốc tế vào nhiều lĩnh vực, trên cách nhìn nhận công cuộc xây dựng kinh tế có
liên quan mật thiết tới những vấn đề khác trong xã hội, rõ ràng hội nhập kinh tế
không chỉ vừa trực tiếp vừa gián tiếp mà còn có tác động mạnh mẽ tới việc xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đồng thời, chúng ta cũng thấy rõ nền kinh tế có tự
chủ, có sức mạnh cả về thế và lực, đồng thời có chính sách đúng đắn thì mới tạo
điều kiện cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, tận dụng được thời cơ để tiến
10
nhanh tiến xa, hơn nữa hạn chế được những mặt trái của hội nhập mở cửa, kiên
định trong đường lối chính trị và mục tiêu phát triển kinh tế.
2. Trên phương diện thực tiễn
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay từ đầu Đảng ta đã nhận thức
được tầm quan trọng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Phương châm
Đảng ta đề ra đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như
cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam là tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính, đồng thời tranh thủ sự viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa. Những tư
tưởng về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để xây dựng tiềm lực nội tại của nền
kinh tế; tự lực, tự cường đồng thời đoàn kết, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh
em trong phe xã hội chủ nghĩa lúc đó đều là những luận cứ (dù chưa thật đầy đủ), là
tiền đề cho những tư tưởng về xây dựng kinh tế độc lập tự chủ sau này.
Đại hội IV của Đảng họp tháng 12 năm 1976 "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước
ta từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kết hợp xây dựng công nghiệp, nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công
- nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế Trung ương, vừa phát triển kinh tế địa

phương, kết hợp kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn
thiện quan hệ sản xuất ; kết hợp kinh tế với quốc phòng ; tăng cường quan hệ phân
công hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ
kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và hai bên cùng
có lợi ; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế
công - nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng
vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc"
1
.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được tiến hành khi đổi mới đã trở
thành yêu cầu bức xúc và vấn đề sống còn của cách mạng nước ta
Những quan điểm quan trọng của Đại hội VI là bước mở đường để những tư
duy mới về kinh tế được hình thành và hoàn thiện dần, trong đó có nội dung về
kinh tế độc lập tự chủ. Đó chính là những luận điểm: 1. Để có nền kinh tế thực sự
vững mạnh và không ngừng phát triển phải xây dựng được chương trình hành động
cụ thể, đặc biệt là phải bảo đảm cho đủ lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng
cho xã hội, bảo đảm lợi ích cho người lao động, cho tập thể và cho Nhà nước; 2.
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế độc lập tự chủ nhưng thông thoáng ở trong
nước và mở ra bên ngoài; 3. Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Thị trường xã hội chủ nghĩa là một thể thống
nhất trong cả nước và từng bước hòa nhập vào thị trường thế giới. Bởi vậy cần kiên
quyết đoạn tuyệt với sự chia cắt, khép kín về kinh tế.
Như vậy, Đại hội VIII đã có bước phát triển trong quan điểm của Đảng ta về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đó
là:
1
Đảng Cộng sản Việt Nam : "Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980",
Nxb Sự thật, Hà Nội, năm 1977, tr 9-10
11

- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Đây là kết quả tư duy mới trên cơ sở nắm bắt xu thế
quốc tế hóa kinh tế, phân công, hợp tác quốc tế.
- Xác định rõ tính chất của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế được công
nghiệp hóa, có tiềm lực đủ mạnh và là nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế
giới.
- Xác định chiến lược phát triển kinh tế hội nhập là kết hợp giữa việc hướng
mạnh về xuất khẩu với thay thế nhập khẩu, bảo đảm đáp ứng nhu cầu cho tiêu dùng
sản xuất và tiêu dùng sinh hoạt trong nước.
- Bước đầu mô hình hóa nền kinh tế độc lập tự chủ là: cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, bảo đảm cho giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an
ninh.
- Chỉ rõ mục tiêu, bước đi và những giải pháp cho 5 năm trước mắt cũng như
lâu dài. Đó vừa là những lời giải cho bài toán phát triển kinh tế, vừa là luận cứ cho
việc hòan thiện quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Phát triển quan điểm của các đại hội trước, nhất là quan điểm của Đại hội VIII
về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, Đại hội IX đã có sự bổ sung toàn diện,
hoàn chỉnh hơn về vấn đề này. "Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là
độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở
vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và có sức cạnh
tranh; có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế có đủ sức đứng vững và ứng phó được với các
tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc
tế.
1
Từ quan điểm nêu trên có thể thấy :
Thứ nhất, đây là lần đầu tiên Đảng ta đưa vào Nghị quyết của Đại hội: phải
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đó là một sự khẳng định mạnh mẽ và chuẩn

tắc. Điều này xuất phát từ đòi hỏi thực tế của sự nghiệp cách mạng nước ta, phù
hợp với xu thế vận động của nền kinh tế thế giới. Có một thế giới đang đi vào quá
trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa kinh tế kinh tế một cách sâu rộng, nhưng để tham
gia vào quá trình đó nhất định phải tự khẳng định mình bằng một thực lực kinh tế
đủ mạnh.
Thứ hai, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không phải là một
phản ứng tự vệ, giải pháp đối phó tình thế, mà trên cơ sở nhận biết tình hình và quy
luật khách quan, Đảng ta vận dụng quy luật một cách chủ động. Vậy nên, đồng thời
với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chúng ta chủ trương mở rộng quan hệ
đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, với đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, không chỉ đưa ra những luận điểm được xem như quan niệm về nền
kinh tế độc lập tự chủ, bước đầu hình dung những đường nét và tố chất của nền
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: "Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, năm 2001, tr 166 – 167
12
kinh tế đó trong điều kiện nước ta hiện nay, Đảng ta còn đặt nó trong tổng thể các
nhiệm vụ trọng đại của sự nghiệp cách mạng, xác định rõ mối quan hệ biện chứng
của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Như vậy, việc Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đưa ra nhiệm vụ xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập
tự chủ, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm bảo đảm sự vững chắc của thể chế
chính trị, bảo đảm cho sự phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền
kinh tế cũng như cho việc chủ động mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế.
Do đó, vượt ra khỏi quan niệm toàn cầu hoá kinh
tế là "toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa", ở Việt Nam, đã dần đi đến thống nhất

nhận thức toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan (Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng cộng sản Việt Nam), một khuynh hướng bao trùm của sự phát
triển ngày nay, trong đó các hoạt động kinh tế và kinh doanh của mỗi nước,
dưới tác động của công nghệ, thông tin và tiền vốn đã gia tăng mạnh mẽ,
vượt ra khỏi biên giới quốc gia, liên kết trên một chỉnh thể thị trường toàn
cầu và đồng thời với quá trình đó, là sự gia tăng mạnh mẽ của làn sóng hình
thành và hoàn thiện các định chế, tổ chức kinh tế quốc tế tương thích nhằm
quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế đã ngày càng lệ thuộc chặt chẽ
vào nhau giữa các nước và các khu vực.
Trên nền tảng nhận thức đúng về toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế, từ Đại hội VI đến Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam, tư
duy mới về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã từng bước hình thành
và phát triển. Việt Nam đã bắt đầu từ "mở rộng quan hệ với tất cả các nước
trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình" (Đại hội VI), chưa hề chính thức đề
cập phạm trù "hội nhập" (vì sợ hội nhập dễ bị hoà tan) và trên một số quan
hệ còn mang tính đối đầu… đã tiến tới có một bước chuyển thực sự về chất
sang chủ trương "Việt Nam muốn là bạn của cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển"; "gắn thị trường trong
nước với thị trường thế giới" và "mở rộng,đa dạng hoá và đa phương hoá các
quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình
đẳng, cùng có lợi" (Đại hội VII). Bước chuyển từ quan hệ đối đầu sang đối
thoại và hình thành các quan hệ đối tác, kể cả hình thành các quan hệ đối tác
chiến lược chỉ thực sự được khẳng định tại Hội nghị 04 Ban chấp hành
Trung ương (khoá VIII) khi tư tưởng xuyên suốt của hội nhập kinh tế của
Việt Nam là "trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách thu hút các nguồn lực bên ngoài; tích cực và chủ động thâm nhập, mở rộng thị
trường quốc tế"; "tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán
Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC, WTO. Có kế hoạch cụ thể để
chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA". Ý tưởng về chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế tại Hội nghị này đã được Đại hội IX phát triển và

nâng cao lên một tầm mức mới với phương châm " Việt Nam sẵn sàng là
bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong Cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển"; thực hiện chủ trương lớn: "chủ động
13
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo
vệ môi trường". Điều đặc biệt đáng lưu ý là, chủ trương chủ động hội nhập
đã được phát triển thành "chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương đã ký kết và chuẩn
bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập WTO" (Hội nghị 9 Trung ương khoá
IX).
1
Trong thời gian tới Đảng ta tiếp tục có cách chủ trương mới để giải quyết mối
liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và tích cực chủ động hội nhập
kinh tế thế giới. Trong Dự thảo văn kiện Đảng X đã một lần nữa khẳng định sự gắn
bó chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ này: “Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội
nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều
kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ.
Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có
cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế
đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực
hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên
nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền
quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc; bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu
tranh; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại; đề cao cảnh giác

trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.”
2
3. Kết luận
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ các nguồn nội
lực là quyết định, đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên
ngoài, kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp là một nội dung quan
trọng của đường lối kinh tế do Đại hội IX của Đảng đề ra. Chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế là để tạo điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ. Mặt
khác, có độc lập tự chủ về kinh tế thì mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
có hiệu quả, bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Tất cả là vì
một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1
Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế - Động lực phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới, PGS,TS.
Nguyễn Xuân Thắng Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
2
Dự thảo Văn kiện đại hội đại biểu nhân dân lần thứ X
14
Tài liệu tham khảo
1.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nguyễn Thúy Anh, Thạp chí cộng
sản Số phát hành 1 -2001
2.
Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế-Động lực phát triển của
Việt Nam trong giai đoạn mới, PGS,TS. Nguyễn Xuân Thắng Viện trưởng
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
3.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
4.

Dự thảo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
5.
Đường lối phát triển kinh tế-xã hội bảo đảm quốc phòng, an ninh nước
ta trong tình hình mới. www.thanhnienkhcn.org.vn, đăng ngày
01/01/2006.
6.
Hội Nhập để phát triển, Vũ Khoan, Tạp chí cộng sản Số phát hành 6
-2002#
7.
Nghị quyết 07- NQ/TW, ngày 27-11-2001
8.
Nhận thức mâu thuẫn để phát triển công cuộc đổi mới ở Việt Nam Hiện
nay: nhìn từ giác độ mâu thuẫn của quá trình phát triển, GsTS Phạm
Ngọc Quang (Hội đồng lý luận TW), Tạp chí triết học 01/01/2006
9.
Quá trình hình thành quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, Nguyễn Thúy Anh, Tạp chí cộng sản Số phát hành 42
-2003.
10.
Tạp chí nghiên cứu quốc tế Thách thức của quá trình toàn cầu hóa đối
với các nước đang phát triển, Trần Văn Cường, Tạp chí nghiên cứu quốc
tế số ra ngày 08/06/2005, www. Iir.edu.vn
11.
Tham luận của Bộ truởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên Đoàn Đại biểu
Khối Đối ngoại tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, VN embassy
www.mofa.gov.vn
12.
Tính hai mặt của toàn cầu hoá kinh tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam, Nguyễn Thị Tỵ, Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại
học Kinh tế, Đại học Huế

13.
Vì sao phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ?, Nguyễn Thúy, Tạp
chí Cộng sản Số phát hành 4 -2001
14.
Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá vấn đề và giải
pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002
15.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí cộng sản Số phát hành 2 -2001
15

×