Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

238 Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế - sinh thái và du lịch đảo Cù Lao Chàm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.48 MB, 139 trang )

B
K
H
&
C
N

Đ
H
K
H
T
N
,

Đ
H
Q
G

H
N

BKH&CN
ĐHKHTN,
ĐHQG HN
Bộ khoa học và công nghệ
chơng trì nh kc-09


Báo cáo tổng kết khoa học và công nghệ


Đề tài:
Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế sinh thái
trên một số đảo, cụm đảo lựa chọn thuộc vùng biển ven bờ việt nam
Mã số KC.09.12

Chủ nhiệm đề tài: GS.TS Lê Đức Tố
Cơ quan chủ trì: Trờng Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội


Báo cáo chuyên đ ề

luận chứng khoa học về mô hình
phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch
đảo Cù Lao chàm


Chủ trì: GS.TS Lê Đức Tố











Hà Nội, 3-2005
B

K
H
&
C
N

Đ
H
K
H
T
N
,

Đ
H
Q
G

H
N

BKH&CN
ĐHKHTN,
ĐHQG HN
Bộ khoa học và công nghệ
chơng trì nh kc-09


Báo cáo tổng kết khoa học và công nghệ

Đề tài:
Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế sinh thái
trên một số đảo, cụm đảo lựa chọn thuộc vùng biển ven bờ việt nam
Mã số KC.09.12

Chủ nhiệm đề tài: GS.TS Lê Đức Tố
Cơ quan chủ trì: Trờng Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội


Báo cáo chuyên đ ề

luận chứng khoa học về mô hình
phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch
đảo Cù Lao chàm


Các tác giả: GS.TS Lê Đức Tố
GS.TSKH Lê Đức An
PGS.TS Đặng Văn Bào
PGS.TS Chu Văn Ngợi
TS Lê Trần Chấn
TS Nguyễn Minh Huấn
ThS Nguyễn Thanh Sơn
TS Đỗ Công Thung
TS Nguyễn Huy Yết
Ths Trịnh Lê Hà
GS.TSKH Nguyễn Văn Trơng
TS Vũ Ngọc Quang

Hà Nội, 3-2005


Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


Danh sách những ngời thực hiện

TT Họ và tên Chức danh,
học vị,
Nội dung tham gia Đơn vị công tác
1 Lê Đức Tố GS.TS Chủ nhiệm đề tài, chủ trì
vấn đề kinh tế-sinh thái
và du lịch
Trờng Đại học KHTN,
ĐHQG Hà Nội
2 Lê Đức An GS.TSKH Chủ trì vấn đề Địa chất,
địa mạo
Viện Địa Lý
3 Đặng Văn Bào PGS.TS Địa mạo và vấn đề quy
hoạch
ĐH KHTN, ĐHQG HN
4 Lê Trần Chấn TS Thực vật Viện Địa Lý
5 Trịnh Lê Hà Ths Kinh tế-môi trờng ĐH KHTN, ĐHQG HN
6 Nguyễn Minh Huấn TS Khí tợng Thủy văn, động
lực
ĐH KHTN, ĐHQG HN
7 Chu Văn Ngợi PGS.TS Địa chất môi trờng ĐH KHTN, ĐHQG HN
8 Vũ Ngọc Quang TS Thổ nhỡng Viện Địa Lý
9 Nguyễn Thanh Sơn ThS Tài nguyên nớc trên đảo ĐH KHTN, ĐHQG HN
10 Đỗ Công Thung TS Sinh vật vùng biển quanh
đảo

Phân Viện HDH Hải
Phòng
11 Nguyễn Văn Trơng GS.TSKH Sinh thái Viện Kinh tế-Sinh thái
12 Nguyễn Huy Yết TS Hệ sinh thái han hô Phân Viện HDH Hải
Phòng

































Phần thứ nhất
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
đảo Cù lao chàm



















Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm



10




Chơng 1
Đặc điểm địa chất và địa mạo

1.1. Đặc điểm địa chất
1.1.1. Cù Lao Chàm - một thành viên trong chuỗi các khối đá hoa cơng
hình cánh cung Bạch Mã - Hải Vân - Sơn Trà - Cù Lao Chàm - Hòn Ông
Cù Lao Chàm là phần kéo dài về đông nam của khối đá granit (đá hoa cơng)
Bạch Mã-Hải Vân-Sơn Trà, mà các nhà địa chất gọi là phức hệ Hải Vân, đợc
hình thành cách đây khoảng 230 triệu năm. Chúng đợc lộ trên bề mặt Trái Đất và
tạo địa hình núi trên đảo nhờ quá trình vận động nâng lên của vỏ Trái Đất dọc các
đứt gãy kiến tạo theo phơng tây bắc-đông nam.
Khối đá hoa cơng Cù Lao Chàm bao gồm các đá granit kiềm đa dạng về cấu
tạo và độ hạt. Ngoài các đá hạt thô chiếm diện tích chủ yếu còn có các khối đá
granit hạt trung, đẳng thớc hơn, rắn chắc hơn và thờng tạo nên những gờ núi, mũi
đá trên đờng bờ. Khối đá granit với độ sần lớn là điều kiện thuận lợi cho sự neo
bám của đàn chim Yến.
Ngoài đá hoa cơng, ở Cù Lao Chàm còn bắt gặp rải rác các mảnh sót lại
dạng thể tù của loại đá biến chất phân lớp. Các khối đá biến chất này mặc dù có
diện tích không lớn song đã tạo nên sự đa dạng của cảnh quan sinh thái với các
cung bờ lõm thoải có tầng đất vàng đỏ dày thuận lợi cho sự phát triển của thực vật.
Nghiên cứu đặc điểm địa chất ở Cù Lao Chàm và lân cận (Lê Đức An và nnk,
2002) cho thấy nơi đây là một khối đá hoa cơng bị nén ép mạnh (hình 1.1). Về
nguồn gốc, đá hoa cơng ở Cù Lao Chàm và các hòn đảo nhỏ bao quanh thuộc về

granit khối núi Bạch Mã-Hải Vân-Sơn Trà. Các khối đá nêu trên có dạng kéo dài
hình cánh cung theo phơng gần với tây-đông ở Hải Vân, rồi hơi chếch tây bắc-
đông nam ở Sơn Trà và chuyển hẳn sang tây bắc-đông nam ở Cù Lao Chàm trên
một chiều dài khoảng 80 km.
Về thạch học, các khối đá này gồm granit biotit, muscovit hạt vừa và lớn với
đá mạch là aplit, pegmatit, thạch anh turmalin Thành phần khoáng vật chính của
chúng là: plagioclas, felspat kali, thạch anh, biotit, muscovit. Các khoáng vật phụ có
zircon, apatit, granat, turmalin Thành phần hoá học chủ yếu là: SiO
2
= 70-75%,
K
2
O ữ Na
2
O = 5-8%, các nguyên tố vi lợng gồm Ti, Mn, Ga, Zn, Be, Ba Đá bị
biến đổi sau magma mạnh mẽ felspat hoá, muscovit hoá và thành tạo các mạch
thạch anh - disten, thạch anh muscovit. Tuổi đồng vị của phức hệ Hải Vân là 250 và
138 triệu năm.
Chi tiết hơn, có thể chia hoạt động magma ở đây thành hai pha xâm nhập thực
thụ và pha đá mạch sau đó. Đá pha 1 chiếm diện tích chủ yếu của đảo với phổ biến
đá granit-biotit, đá pha 2 gồm granit biotit có muscovit, granit alaskit gặp ở sờn tây

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


11

nam của đảo dới dạng dải, tạo nên các sống núi (các dông) kéo dài theo phơng
đông bắc-tây nam và thờng kết thúc là các mũi nhô của đờng bờ biển. Pha đá
mạch tạo các mạch đá dày đến vài mét, kéo dài hàng chục mét gồm granit-aplit,

pegmatoit-turmalin, thạch anh-turmalin.


Hình 1.1: Bản đồ Địa chất đảo Cù Lao Chàm

Tuy nhiên ở Cù Lao Chàm ngoài đá granit ta còn bắt gặp rải rác đây đó, đặc
biệt là ở sờn tây nam của đảo, các mảng sót lại dạng thể tù sau quá trình bóc mòn
lâu dài hàng chục triệu năm của một loại đá biến chất phân lớp. Chính các đá biến
chất này đã bị khối xâm nhập granit Hải Vân-Cù Lao Chàm tiêm nhập, xuyên qua
vào thời điểm khoảng 250-150 triệu năm trớc đây. Đó là các đá phiến gneis, phiến
biotit, đá phiến thạch anh-felspat-mica có thể thuộc hệ tầng A - Vơng (540 465
triệu năm trớc) còn đợc lu giữ lại.
Bề mặt các đá granit và biến chất nêu trên chịu sự phá huỷ mạnh mẽ và liên tục
của môi trờng khí hậu nhiệt đới (ma, gió, nhiệt độ, độ ẩm,) và tác động của thế
giới sinh vật đã trở thành mềm bở và thành tạo lớp vỏ phong hoá - giai đoạn quá độ
để tạo lớp thổ nhỡng.

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


12

Sản phẩm phong hoá phổ biến nhất trên đảo là vỏ saprolit, phân bố trên toàn bộ
các sờn dốc (thờng > 20
o
). Trên các bề mặt đỉnh, vai núi hoặc yên ngựa tơng đối
bằng phẳng bắt gặp vỏ sialit, còn ở các vùng thấp thoải chân núi phía tây nam đảo
có phát triển vỏ sialferit và ferosialit. Vỏ saprolit là các sản phẩm vụn thô gồm chủ
yếu là cát sạn thạch anh, felspat lẫn ít sét xám vàng, còn giữ đợc cấu trúc của đá
gốc. Các vỏ sialit và sialferit hoặc ferosialit ở đây thờng có lẫn nhiều thành phần

cát thạch anh trong lớp sét mỏng màu nhạt hoặc đốm vàng.
Cũng cần ghi nhận là trên đảo Cù Lao Chàm còn phát triển khá rộng rãi các
trầm tích bở rời đợc hình thành trong kỷ Đệ Tứ (cách đây khoảng 1,8 triệu năm),
trong đó có các lở tích đặc trng cho các sờn đá granit. Theo nguồn gốc có thể chia
ra các phân vị: lở tích-sờn tích, lũ tích-lở tích, sờn tích-lũ tích và các thành tạo
nguồn gốc biển. Các lở tích-sờn tích tạo thành các dải tích tụ ở dới chân các sờn
dốc với các tảng lăn kích thớc khác nhau và đã bị phong hoá mạnh mẽ cùng với các
vật liệu vụn thô và sét, dày 1-3 m hoặc hơn. Các lũ tích phân bố hạn chế ở cửa các
khe suối tạm thời, hoặc trong các trũng hẹp. Trầm tích biển ở độ cao 40-60m đợc
phát hiện đầu tiên ở Cù Lao Chàm, ngay phía đông nam Bãi Làng, có thể có tuổi
Pleistocen trung (300-400 nghìn năm) có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu
chế độ tân kiến tạo và dao động mực nớc biển trong các thời kỳ băng hà và gian
băng. Di tích biển này gồm cuội sỏi thạch anh, kích thớc 1 -2 cm đến 3 cm, độ mài
mòn từ kém đến rất tốt. Các thềm cát biển cao 4-6 m và các tích tụ biển vũng vịnh ở
các Bãi Ông, Bãi Làng, Bãi Chồng, Bãi Bìm, Bãi Hơng đợc thành tạo liên quan tới
đợt biển tiến cực đại Holocen trung (5000 - 6000 năm trớc đây). Phổ biến hơn cả là
các bãi cát tuổi Holocen muộn và hiện đại lấp đầy các cung bờ lõm của các bãi từ
Bãi Bắc đến Bãi Hơng. Các bãi hẹp, độ trởng thành kém (Bãi Bắc, Bãi Xép) cấu
tạo bởi các hạt thô hơn.
1.1.2 Cù Lao Chàm - tấm gơng phản chiếu các hoạt động kiến tạo: khe
nứt, đứt gãy, chuyển động khối tảng
Trải qua lịch sử biến động hàng trăm triệu năm, với những pha kiến tạo thăng
trầm của vỏ Trái Đất, khối granit Cù Lao Chàm đã bị chia cắt mạnh bởi các đứt
gãy và khe nứt kiến tạo. Hệ thống đứt gãy và khe nứt trong các thành tạo địa chất
của vùng nghiên cứu phát triển theo 3 phơng chính: tây bắc-đông nam, đông bắc-
tây nam và á kinh tuyến. Trong mỗi thành tạo địa chất, tại các vị trí kiến tạo khác
nhau thì khe nứt cũng phát triển khác nhau cả về ph
ơng, góc cắm và nhiều tính
chất khác. Các hệ thống khe nứt và đứt gãy này quyết định tới phơng chung của
các dãy núi, phơng của đờng bờ và các thung lũng, khe suối. Nhìn tổng thể, hình

thái chung của đảo Cù Lao Chàm có dạng khối với góc cạnh rõ ràng, phản ánh khá
rõ vai trò của hoạt động kiến tạo trong việc tạo nên bình đồ địa hình tại đây.
Sự giao nhau của các khe nứt, đứt gãy tạo điều kiện cho sự mở rộng các thung
lũng, là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các hồ chứa nớc (nh ở trên sờn
khối núi Hòn Biền).
Các khe nứt kiến tạo trên đá granit, dới tác động của sóng biển, ma, gió đã
đợc mở rộng, tạo nên các hang có hình thù và kích thớc khác nhau, phù hợp với
sinh thái của đàn chim yến. Ven rìa các bãi cát biển, các khe nứt này tạo các hang,
hốc sâu, tạo cảnh đẹp thơ mộng, huyền ảo cho khách du lịch.

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


13

Về mặt địa chất khu vực, Cù Lao Chàm nằm ở rìa phía bắc của địa khối
Kontum, là móng đá kết tinh cổ nhất Đông Dơng, bị hoạt hoá magma - kiến tạo
mạnh trong Paleozoi và Mesozoi. Trong Kainozoi, vùng này nằm trong đới rìa của
miền sụt lún và tách giãn vỏ Trái Đất hình thành Biển Đông. Sát phía đông bắc Cù
Lao Chàm là phần cuối của bồn trũng sông Hồng sụt lún rất mạnh (>10 km). Các
chuyển động tân kiến tạo của vùng chủ yếu là các chuyển động khối tảng và vòm-
khối tảng các phơng khác nhau, vừa có tính kế thừa vừa mới tạo.
Dải lục địa ven biển và biển nông ven bờ Đà Nẵng - Quảng Nam có thể chia
thành 3 đới cấu trúc dạng khối tảng: 1) đới nâng mạnh Đại Lộc - Quế Sơn ở phía
đông với các núi cao trên 1000m; 2) đới sụt lún địa hào Đà Nẵng - Hội An với địa
hình đồng bằng, có móng đá gốc nằm sâu đến 250m; và 3) đới nâng địa luỹ Sơn Trà
- Cù Lao Chàm với sự bóc lộ thể xâm nhập granit (vốn có độ sâu lúc sinh thành
khoảng 4 - 6m), tạo địa hình núi thấp 500m nổi trên biển.
Trong thực thể địa chất vùng nghiên cứu tồn tại các hệ thống đứt gãy và khe
nứt với 3 phơng chính là tây bắc - đông nam, đông bắc - tây nam và á kinh tuyến.

Chúng quyết định tới phơng chung của các dãy núi, phơng của đờng bờ và các
thung lũng, khe suối. Có thể nói hầu hết các đoạn bờ biển vách đứng, các mũi nhô,
khe lõm, sờn dốc ở Cù Lao Chàm đều có vai trò của đứt gãy, khe nứt tác động.
Chính hình thái chung của Cù Lao Chàm với dạng khối và góc cạnh rõ ràng đã phản
ánh đầy đủ vai trò của các hoạt động kiến tạo trong việc tạo nên bình đồ địa hình tại
đây. Hệ đứt gãy phơng tây bắc - đông nam phổ biến nhất trên đảo Cù Lao Chàm và
vùng biển kế cận, đó là: các đứt gãy Bãi Bắc, Đồng Chùa, Bãi Chồng - Bãi Hơng,
và đặc biệt là đứt gãy bãi biển phân cách Hòn Giài với Cù Lao Chàm. Hệ đứt gãy,
khe nứt phơng đông bắc - tây nam phổ biến ở sờn tây, tây nam núi Hòn Biền, Tục
Cả, nhất là trên sờn - vách phía đông nam núi Tục Cả, tạo các hang cao và dốc
đứng - nơi c trú của các đàn yến sào. Hệ đứt gãy, khe nứt phơng á kinh tuyến thể
hiện rõ trên địa hình, đờng bờ, khe suối, sờn vách dốc đứng: đông Bãi Xép, đông
núi Tục Cả, bắc Hòn Biền, tây Hòn Đại
1.1.3 Đặc điểm thành phần vật chất
Tìm hiểu thành phần vật chất trong cấu trúc địa chất của đảo sẽ giúp chúng ta
hiểu đầy đủ hơn về các quá trình hình thành các cảnh quan sinh thái nơi đây. Nh
trên đã nêu, tham gia vào cấu tạo nền tảng rắn của đảo Cù Lao Chàm chủ yếu là các
đá xâm nhập axit thuộc phức hệ Hải Vân (
3
hv) có tuổi khoảng 230 triệu năm.
Các đá biến chất có diện phân bố hẹp hơn, thờng là các thể tù trong khối xâm nhập.
Dọc bờ biển phía tây đảo còn có phân bố các thành tạo trầm tích bở rời tuổi Đệ tứ.
a) Các thành tạo xâm nhập phức hệ Hải Vân
Phức hệ Hải Vân đợc Nguyễn Xuân Bao và Huỳnh Trung xác lập và mô tả
khối chuẩn Hải Vân. Trên sơ đồ kiến trúc hình thái, có thể thấy khối xâm nhập này
có sự phân bố dạng kéo dài phơng á vĩ tuyến tại dãy núi Hải Vân, chuyển sang
phơng tây bắc-đông nam tại bán đảo Sơn Trà. Một diện đáng kể của thể xâm nhập
này bị chìm dới đáy biển, rồi lại đợc lộ ra và tạo nên địa hình núi có phơng kéo
dài theo phơng chung tây bắc-đông nam. Các đá của phức hệ này chủ yếu thuộc
nhóm axit, gồm hai pha: xâm nhập thực thụ và đá mạch.


Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


14

Pha 1 là pha xâm nhập chính, chiếm phần lớn diện tích đảo. Tại phần rìa khối
(phía tây, tây nam đảo), đá bị nén ép và cấu tạo định hớng mạnh. Phần trung tâm
của khối (gần đỉnh tại đảo Cù Lao Chàm), đá bị nén ép yếu hơn, đôi nơi có dạng
khối. Đá có kiến trúc nửa tự hình hạt trung đến thô, một số nơi có kiến trúc dạng
porphyr, ban tinh là felspat có mầu trắng nền hạt trung. Trong pha 1, đá granit-biotit
chiếm khối lợng chủ yếu, có mầu xám trắng, cấu tạo đốm hoặc dải định hớng yếu
đến dạng gneis, ít nơi gặp cấu tạo khối. Đá có kiến trúc hạt trung đến thô, có nơi gặp
kiến trúc dạng porphyr với ban tinh felspat mầu trắng xám, kích thớc 0,5-1cm, nền
hạt trung nửa tự hình. Thành phần khoáng vật gồm plagioclas chiếm 13,9-35,1%,
felspat kiềm 24,1-45,7%, thạch anh 25,1-35,7%, biotit 5,6-15,2%, muscovit 0,9-
4,2%, ngoài ra còn các khoáng vật apatit, zircon, turmalin ilmenit, granat, silimanit.
Một số nơi hàm lợng muscovit tăng cao, đá chuyển sang granit hai mica. Khi hàm
lợng felspat kiềm giảm, plagioclas tăng cao, thạch anh cũng đợc giảm, đá chuyển
sang granođiorit. Trong các đá này, lợng biotit thờng đợc tăng cao nên đá xẫm
mầu hơn. Tuy nhiên, tại một vài nơi, trong đá gnanit biotit có hàm lợng biotit tăng
từ 12,4-28,3% cũng làm đá trở thành xẫm màu.
Đá pha 2 ít phổ biến hơn các đá của pha 1. Trên sờn tây đảo Cù Lao Chàm
gặp các thể nhỏ dạng kéo dài. Chính các thể xâm nhập dạng tuyến này tạo nên nhiều
"dông" núi kéo dài phơng đông bắc-tây nam ở sờn tây của đảo và nhiều khối này
đã góp phần tạo nên các mũi nhô trên đờng bờ biển. Thành phần thạch học các đá
loại này gồm granit biotit có muscovit, granit alaskit hạt nhỏ mầu xám trắng, cấu tạo
gneis yếu hoặc khối trạng. Các đá pha 2 xuyên cắt các đá pha một và ở gần ranh giới
phát triển mạnh mẽ greisen hoá và tại khu vực bắc-tây bắc Bãi Hơng còn gặp khá
phổ biến các mạch pegmatit chứa turmalin. Tại đới ngoại tiếp xúc, trong các đá pha

1 hình thành các ban biến tinh felpat kali có kích thớc từ 2-5mm. Tại Hòn Giai còn
xuất hiện các các ban tinh felspat có đờng kính trên 1 cm. Các ban biến tinh tại khu
vực núi Tục Cả cũng nh các đảo nhỏ khác làm tăng độ sần của đá, là điều kiện cho
chim yến bám đậu thuận lợi.
Pha đá mạch khá phổ biến, gồm các mạch rộng vài cm đến vài mét, kéo dài
hàng chục mét theo các phơng khác nhau, thành phần gồm granitaplit, pegmatoit-
turmalin, turmalin + thạch anh, đôi khi mạch có dạng khúc dồi hoặc thấu kính.
Đáng chú ý là các đá mạch khá phổ biến tại các khu vực phân bố các thể tù đá
phiến, các đới dập vỡ kiến tạo ph
ơng tây bắc - động nam và đông bắc - tây nam.
Tại đây, đá cũng bị phong hoá mạnh mẽ hơn và hình thành tầng phong hoá giàu sét
và có màu sắc đỏ hơn các nơi khác.
b) Các thành tạo biến chất
Trong phạm vi Cù Lao Chàm, các thành tạo trầm tích biến chất có diện phân
bố không rộng, thậm chí khó có thể khoanh định đợc các diện cụ thể trên bản đồ vì
chúng chỉ là các thể tù có kích thớc khác nhau trong khối granit. Cũng nhận thấy
rằng, đá biến chất dạng các thể tù này phân bố chủ yếu ở phần rìa phía tây nam đảo
và do độ bền vững lý hoá kém hơn đá granit nên chúng thờng góp phần hình thành
các cung bờ lõm của đảo. Thành phần thạch học của các thể tù khá phức tạp: đá
greis, đá phiến kết tinh, phiến biotit, granitogneis, phiến thạch anh-felspat-mica-
silimanit... kích thớc vài dm
3
đến vài trăm mét khối, có hình thù kì dị và nằm theo
phơng nén ép chung của đá granit. Tại khu vực Bãi Chồng gặp đá biến chất bị

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


15


micmatit hoá mạnh, tạo nên các vân dải độc đáo. Đặc điểm này cũng có thể đợc
giới thiệu cho khách du lịch về một quá trình tự nhiên làm nóng chảy và tái phân bố,
cấu tạo lại vật chất ở dới sâu, nay lại đợc lộ ra trên bãi biển (hình 1.2, 1.3). Tại
các khu vực lộ đá biến chất, tầng vỏ phong hoá thờng giàu sét hơn và có màu đỏ
vàng. Các mặt cắt tốt nhất đợc quan sát tại tây bắc và đông nam Bãi Hơng.


Hình 1.2: Đá Granit bị biến đổi mạnh ở phía bắc bãi Chồng


Hình 1.3: Hiện tợng micmatit hoá trong đá biến chất tại khu vực Bãi Chồng

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


16

c) Vỏ phong hoá
Vỏ phong hoá gắn liền với thổ nhỡng và các điều kiện hình thành, bảo tồn
chúng, liên quan chặt chẽ với các nhân tố thành tạo nh nền đá mẹ, điều kiện địa
hình, các đặc trng khí hậu, sự tồn tại của thế giới sinh vật và cuối cùng là yếu tố
thời gian. Sự tồn tại của các sản phẩm phong hoá trên đảo Cù Lao Chàm cũng phản
ánh khá rõ mối quan hệ trên.
Sản phẩm phong hoá phổ biến nhất trên đảo là vỏ saprolit trên đá granit, mới
chỉ đợc hình thành trong giai đoạn ban đầu của tiến trình phong hoá. Chúng phân
bố khá phổ biến trên các sờn có độ dốc trên 20
0
. Trong mặt cắt của vỏ, bên dới
lớp thổ nhỡng là các sản phẩm vụn thô gồm chủ yếu là cát sạn thạch anh, felspat
lẫn ít sét xám vàng, còn giữa đợc cấu trúc của đá gốc. Cũng nhận thấy đặc trng

trong vỏ saprolit của vùng nhiệt đới là có sự kết hợp đáng kể của phong hoá hoá học
bên cạnh phong hoá cơ học và sự giàu lên của khoáng vật sét và các oxit sắt và
nhôm, tạo nên màu vàng của vỏ.
Các kết quả phân tích thành phần khoáng vật trong vỏ phong hoá saprolit trên
đá granit tại Cù Lao Chàm đợc dẫn ra ở bảng 1.1.
Bảng 1.1: Thành phần khoáng vật (%) trong sản phẩm saprolit
trên đá granit tại đảo Cù Lao Chàm
Cấp hạt (mm)
Mẫu 1 Mẫu 2

STT

Khoáng vật
0,05-0,1 0,1-0,25 0,05-0,1 0,1-0,25
1 Các khoáng vật nặng 0,02 0,9 0,1 0,1
2 Mica 24,3 36,2 0,6 2,1
3 Pyroxen 1,1 - - -
4 Amphibol 0,9 - 0,6 -
5 Epidot (trong KV nặng) 24,6 8,3 20,1 8,3
6 Ilmenit (trong KV nặng) 2,9 8,5 2,4 4,2
7 Zircon (trong KV nặng) 37,2 22,4 53,1 7,3
8 Turmalin(trong KV nặng) 7,4 17,4 10,4 44,8
9 Granat 0,8 - - -
10 Hematit (trong KV nặng) - - 12,8 31,2
11 Limonit - 1,5 - -
12 Thạch anh 45,3 59,3 20,0 60,2
13 Mảnh sét, mica - 1,9 - 3,6
14 Felspat 49,1 35,1 19,5 27,9

Khoáng vật sét trong mặt cắt vỏ saprolit trên đá granit tại đảo Cù Lao Chàm

ứng với cấp hạt 1-10 àm, chủ yếu gồm hydromica (31-66%) và kaolinit (69-34%).
Các kết quả nghiên cứu về thành phần hoá học của cấp hạt sét trong sản phẩm
saprolit cho thấy sự u trội của oxit nhôm và tổng lợng kiềm (Na
2
O + K
2
O) so với
các khu vực khác của hệ thống đảo ven bờ (HTĐVB) Việt Nam (bảng 1.2). Đặc tính
này liên quan với đá mẹ giàu nhôm của phức hệ Hải Vân.
Trên sờn tây của đảo Cù Lao Chàm vỏ kiểu litoma phân bố khá rộng rãi các
bề mặt san bằng kiểu pedimen và các bề mặt thềm mài mòn ở các độ cao khác nhau.
Mặc dù các bề mặt nguyên sinh cũng nh vỏ phong hoá trên chúng đã bị biến đổi

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


17

đáng kể bởi quá trình rửa trôi, xâm thực bởi dòng chảy của xứ nhiệt đới, song vẫn có
thể quan sát các mặt cắt của kiểu vỏ này dọc các taluy đờng cắt qua chúng. Các
mẫu phân tích nguyên khối lấy trong mặt cắt vỏ litoma tại đây cho thấy sự u trội
của thành phần SiO
2
(68-77%), lợng oxit nhôm đạt 11-14% và oxit sắt ba từ 2,8
đến 5,8% (bảng 1.3). Quan sát ngoài trời cũng nh kết quả phân tích mẫu cũng cho
thấy lợng oxit sắt và nhôm tăng cao hơn trong đới litoma nằm dới lớp thổ nhỡng,
một số nơi trong đới này còn gặp kết vón oxit sắt, tạo nên màu vàng đỏ của vỏ
phong hóa. Nếu lu ý rằng tỷ lệ thạch anh trong đá granit tại đây đạt tới 30-40% và
trong đới phong hoá chúng còn tăng tới trên 45% thì có thể thấy quá trình phong
hoá các đá granit trên các bề mặt nghiêng thoải này diễn ra mạnh mẽ.

Bảng 1.2: Tỷ lệ (%) thành phần hoá học các sản phẩm phong hoá
ứng với cấp hạt 1-10 àm
TT
Tớng SiO
2
TiO
2
Al
2
O
3
Fe
2
O
3
P
2
O
5
CaO

MgO MnO Na
2
O

K
2
O MKN Tổng
1
Thổ nhỡng

50,02 0,33 26,11 4,00 0,08 0,50 0,37 0,06 0,50 4,88 13,13 99,98
2 Sờn tích 50,01 0,32 26,99 4,17 0,07 0,50 0,37 0,03 0,43 4,82 12,26 99,97
3 Saprolit 48,98 0,33 26,75 4,23 0,07 0,50 0,39 0,02 0,44 4,63 13,65 99,99
4 Saprolit 49,35 0,33 26,90 4,07 0,07 0,50 0,42 0,03 0,40 4,68 13,24 99,99
5 Saprolit 39,37 0,06 38,24 1,76 0,16 0,50 0,30 0,12 0,86 1,54 16,54 99,45

Bảng 1.3: Tỷ lệ (%) thành phần hoá học các sản phẩm phong hoá litoma
trong đá granit trong mẫu nguyên khối
TT
Đới SiO
2
Al
2
O
3
Fe
2
O
3
FeO MnO

MgO

CaO Na
2
O K
2
O P
2
O

5
MKN Tổng
1
Thổ nhỡng
77,56 11,17 2,88 0,82 0,47 0,02 0,79 0,03 2,63 0,03
3,32
99,74
2 litoma 68,70 15,55 5,80 0,88 0,55 0,06 0,44 0,15 1,92 0,05 6,00 100,2
3 Saprolit 70,84 14,28 4,08 1,44 0,67 0,20 1,13 0,15 3,08 0,06 4,48 100,5

d) Trầm tích Đệ tứ
Theo các tài liệu nghiên cứu trớc đây thì thành tạo bở rời tuổi Đệ tứ phân bố
chủ yếu trên các bề mặt địa hình thấp dọc các cung bờ lõm. Tuy nhiên, các kết quả
khảo sát mới nhất cho thấy trên sờn núi thấp tại phía tây đảo Cù Lao Chàm không
phải chỉ đợc cấu tạo từ đá granit phong hoá, mà thực tế hầu hết chúng đều đợc
phủ bởi một lớp trầm tích Đệ tứ có bề dày khác nhau, chủ yếu là sản phẩm của quá
trình lở tích - đặc trng cho sờn của các khối đá granit. Theo nguồn gốc thành tạo,
một cách phân chia gắn liền với thành phần vật chất, có thể phân chia các thành tạo
Đệ tứ đảo Cù Lao Chàm theo các phân vị sau đây:
Các thành tạo lở tích-sờn tích (cdQ)
Nh đã nêu trên, các thành tạo lở tích - sờn tích chiếm một diện tích khá rộng
rãi tại sờn tây đảo. Đó là các vật liệu đợc lở từ các sờn dốc phía trên, đợc ổn
định vị trí một cách tơng đối trên các sờn thoải (10-20
o
) hoặc các bề mặt pedimen,
thềm phía dới các sờn trọng lực. Hầu hết diện phân bố các sờn có độ dốc này
đều đợc phủ bởi một đới tảng lăn có kích thớc khác nhau, đợc lấp đầy bởi các
tảng nhỏ hơn và các vật liệu vụn khác dày từ 1-3m. Tập tảng lăn granit này cũng đã
bị phong hoá, phần trên tạo nên lớp thổ nhỡng. Chính sự phong hoá của các tảng và
vật liệu lấp đầy là hạt mịn mới tạo điều kiện giữ ẩm cho tập trầm tích này và do vậy

trên chúng mới có thể phát triển lớp thực vật phong phú.

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


18

Dấu hiệu để nhận biết tập trầm tích thứ sinh này là các tảng granit có kích
thớc khác nhau, có thể đợc mài tròn ít nhiều, sắp xếp một cách lộn xộn. Phơng
ép của mỗi tảng đá granit thờng có hớng cắt vào nhau. Tại nhiều nơi, tập tảng lăn
này phủ lên tầng phong hoá của đá granit và ranh giới giữa chúng thờng tồn tại tập
dăm vụn thạch anh sắc cạnh - sản phẩm của bề mặt phong hoá cổ. Tại phía đông
nam Bãi Làng, tập tảng này còn phủ trên lớp cuội sạn thạch anh đợc mài khá tròn
của thềm biển cổ (hình 1.4).

Hình 1.4: Trầm tích coluvi với các tảng lăn granit
phủ trên sản phẩm phong hoá của đá gốc

Các thành tạo lũ tích-lở tích (pcQ)
Khác với thành tạo lở tích-sờn tích, các trầm tích thuộc kiểu pcQ phân bố hạn
chế dọc các khe suối cắt vào sờn khối núi. Do chịu tác động của hoạt động dòng
chảy vào mùa ma, các vật liệu hạt nhỏ ít đợc tồn tại dọc các khe suối với sự u
trội của vật liệu có kích thớc lớn này.
Các thành tạo sông-sờn tích-lũ tích (adpQ)
Các trầm tích thuộc kiểu này phân bố ở phần thấp của các khe suối, giáp với
các bề mặt tích tụ cát biển, tạo nên một bề mặt nghiêng thoải. Vật liệu cấu tạo nên
bề mặt này có sự phân dị từ dới lên trên mỗi mặt cắt và theo hớng dòng chảy, theo
quy luật mịn dần. Phần dới của các mặt cắt và phần đỉnh của các nón phóng vật
chủ yếu là các thành tạo hạt thô nh tảng lăn nhỏ, cuội lớn. Thành phần của các tảng
và cuội vẫn chủ yếu là đá granit, độ mài tròn, chọn lọc kém. Các vật liệu lấp đầy nhỏ

hơn có sự tăng lên của thạch anh, một vài hòn cuội đá quaczit. Phần trên của mặt cắt
hoặc phần đuôi của nón phóng vật là các thành tạo hạt nhỏ hơn nh cát sạn, cát sạn
lẫn bột sét màu xám vàng. Tại nhiều nơi, ở phần cửa các suối khá phổ biến vật liệu cát

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


19

sạn thạch anh hạt thô, độ mài tròn, chọn lọc kém. Các vật liệu này đợc bổ sung sau
mỗi trận ma, là nguồn vật liệu xây dựng có giá trị trên đảo (hình 1.5).


Hình 1.5: Khai thác cát sạn xây dựng tại cửa khe suối ở phía tây Bãi Ông

Các thành tạo nguồn gốc biển (mQ)
Theo thời gian thành tạo, các tích tụ biển đợc phân chia thành 3 thời kỳ: trầm
tích biển tuổi Pleistocen, trầm tích biển tuổi Holocen giữa và trầm tích biển tuổi
Holocen muộn.
Trầm tích biển tuổi Pleistocen gồm các trầm tích còn đợc bảo tồn dạng sót trên
các bề mặt thềm cao trên 20m. Trong khu vực nghiên cứu, chúng phổ biến hơn ở độ cao
40-60m, đợc bảo tồn dới lớp tảng lăn granit nh đã nói ở phần trên. Mặt cắt đợc
quan sát tốt nhất trên taluy đờng ô tô, cách Bãi Làng khoảng 500m về phía đông nam.
Thành phần trầm tích gồm cuội sỏi thạch anh (30-40%) gắn kết khá tốt bởi cát bột màu
vàng nâu. Cuội sỏi có đờng kính trung bình 0,5-1,5 cm, độ mài tròn không đồng nhất,
nhiều hòn mài tròn rất tốt, song nằm cạnh lại có một số hòn khác đợc mài tròn kém.
Nh vậy, tập cuội sỏi tuổi Pleistocen này hầu nh không đợc lộ trên bề mặt địa hình,
song lại có diện tồn tại khá phổ biến dới lớp tảng lăn. Phát hiện và nghiên cứu chúng
có ý nghĩa quan trong trong việc làm sáng tỏ lịch sử hình thành các bậc địa hình thấp
xung quanh đảo (hình 1.6).

Trầm tích biển tuổi Holocen giữa gồm các thành tạo thềm cát biển cao 4-6m và
thành tạo tích tụ biển-vũng vịnh, liên quan với thời kỳ biển tiến Holocen cực đại.
Các thành tạo cát của thềm 4-6m phân bố ở khu vực Bãi Ông, Bãi Làng, Bãi
Chồng, Bãi Bìm, Bãi Hơng tạo nên một bề mặt tơng đối phẳng và ổn định. Trầm

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


20

tích chủ yếu là cát hạt trung màu xám trắng, xám vàng nhạt, độ mài tròn, chọn lọc
tốt. Một số nơi trong tập cát có sự tích luỹ oxit sắt cho màu vàng loang lổ đỏ.

Hình 1.6: Bề mặt thềm biển 40-60m với tập cuội biển đợc bảo tồn dới các tảng lăn granit
tại đông nam Bãi Làng (trái) và cuội sỏi thạch anh của thềm 40-60m (phải)

Các thành tạo tích tụ biển-vũng vịnh cấu tạo nên các bề mặt bằng phẳng cao 4-
5m, phân bố ở phần cửa các khe suối, thờng đợc ngăn cách với biển bởi các thềm
cát biển. Diện phân bố rộng và điển hình nhất đợc quan sát tại thung lũng Đồng
Chùa. Mặt cắt trầm tích đặc trng bởi tập hạt thô nằm dới, gồm cuội sỏi đa thành
phần, trong đó có trên 30% cuội thạch anh mài tròn tốt, đợc ghi nhận bởi vật liệu
lấy lên từ công trình đào âu thuyền tại Cù Lao Chàm. Phần trên của mặt cắt gồm các
lớp cát bột màu xám đen xen các lớp bột sét lẫn cát giàu vật chất hữu cơ.
Trầm tích biển tuổi Holocen muộn chủ yếu là các thành tạo cát cấu tạo nên các
bãi biển hiện đại, phân bố dọc các cung bờ lõm. Kích thớc của các cung bờ lõm
phản ánh mức độ trởng thành của đờng bờ, đồng thời cũng khống chế đặc điểm về
thành phần cấp hạt của trầm tích. Các bãi biển tại cung bờ lõm rộng nh Bãi Ông,
Bãi Làng, Bãi Chồng, Bãi Hơng thờng đợc cấu tạo bởi cát hạt trung đến mịn.
Trái lại, các cung bờ lõm có mức độ trởng thành kém nh các bãi biển thuộc Bãi
Bắc, Bãi Xép lại đợc cấu tạo bởi cát hạt thô hơn (bảng 1.4). Trong mỗi bãi cũng

thấy có sự phân dị về thành phần độ hạt: nếu nh ở phần trên mặt hầu hết các bãi chỉ
gặp cát hạt trung đến mịn thì ở dới sâu chỉ 10-15cm đã gặp cát hạt trung đến thô.
Do ảnh hởng của các dòng chảy ven bờ chủ yếu có hớng đông nam-tây bắc, độ
hạt ở phía đông nam của các bãi cũng thờng thô hơn độ hạt ở phía tây bắc. Tính
chất phân dị này đợc quan sát rõ nhất tại Bãi Bắc. Về thành phần khoáng vật, bên
cạnh các hạt cát thạch anh chiếm tỷ lệ chủ yếu, trong các bãi cát còn phân bố các
khoáng vật nặng nh ilmenit, ziricon, manhetit và các khoáng vật mica, epidot...
Bảng 1.4: Đặc trng cơ học của các bãi biển trên đảo Cù Lao Chàm

Kích thớc (m)
(dài/rộng)
Tỷ lệ % thành phần cấp hạt Thông số trầm tích


TT


Khu vực
Bãi
biển

Thềm cát

Số
hiệu
mẫu
>2
mm
2-1
mm

1 - 0.8
mm
0.8 -
0.63
mm
0.63 -
0.5
mm
0.5 -
0.4
mm
0.4 -
0.315
mm
0.315
- 0.25
mm
0.25 -
0.2
mm
0.2 -
0.16
mm
0.16 -
0.1
mm
0.1 -
0.063
mm
<0.063

mm
So Sk Md
1. Bãi Bắc 1 100/20 CL12 23.63 29.84 18.82 7.49 8.38 5.14 4.51 2.19 0 0 0 0 0 1.59 1.33 1.045
2. Bãi Bắc 2 150/20 CL12/1 0 0 0 5.96 9.92 21.16 33.37 19.34 7.15 3.11 0 0 0 1.21 1.01 0.365
3. Bãi Bắc 3 150/20 CL12/2 0 4.16 10.71 18.77 33.26 19.01 11.41 2.67 0 0 0 0 0 1.22 1.01 0.562
4. Bãi Bắc 4 300/30 200/50 CL12/4 0 0 0 4.09 3 12.17 33.76 34.29 10.8 1.89 0 0 0 1.17 1.02 0.321
5. CL15/1 0 0 0 0 0 6.92 26.7 30.13 18.93 12.92 4.4 0 0 1.23 0.95 0.28
6. CL15/2 0 0 8.04 5.45 11.49 14.23 22.31 17.62 12.94 5.41 2.51 0 0 1.37 1.05 0.355
7. CL15/3 0 0 0 6.42 11.51 15.14 26.47 22.62 10.51 5.73 1.61 0 0 1.28 1.04 0.342
8. CL16/1 0 0 0 3.3 8.42 12.43 20.09 13.84 14.33 17.17 10.42 0 0 1.43 0.92 0.389
9. CL16/2 0 0 8.34 4.56 9.79 10.88 22.96 19.7 13.53 7.52 2.73 0 0 1.36 1.07 0.336
10. CL16/3 0 0 0 5.18 7.96 15.8 29.2 22.76 11.52 5.8 1.77 0 0 1.25 0.99 0.336
11. CL16/4 0 10.35 22.12 12.82 14.28 8.23 8.39 6.12 4.1 2.76 2.08 8.74 0 1.63 0.83 0.583
12.




Bãi Ông




550/50




550/100
CL16/5 11.34 21.22 24.68 13.48 11.92 5.63 5.11 2.78 3.84 0 0 0 0 1.37 0.86 0.859

13. CL33 0 6.37 3.55 3.03 5.57 7.6 18.68 15.39 22.8 9.42 6.81 0.78 0 1.37 0.05 0.29
14.

Bãi Làng

500/30

500/60
CL33/1 6.93 3.59 5.64 4.92 12.21 14.04 24.66 14.98 6.21 2.84 3.98 0 0 1.38 1.17 0.389
15. CL21/1 0 0 0 0 0 0 3.83 16.16 27.85 33.08 18 1.08 0 1.19 1.03 0.197
Bãi Xép 1

600/20

CL21/2 0 7.37 8.24 8.06 13.58 11.63 16.29 9.16 7.18 9.74 7.96 0.79 0 1.59 0.97 0.393
16.
Bãi Xép 2 200/20 150/40
17 CL11 0 0 7.44 9.77 34.96 24.09 16.45 5.02 2.26 0 0 0 0 1.21 0.93 0.507
18
Bãi
Chồng

450/40

400/50
CL11/1 0 3.1 6.02 8.35 18.65 24.29 23.77 10.58 2.62 2.61 0 0 0 1.27 1.02 0.439
19 Bãi Bìm 700/40 650/50 CL10 0 0 0 4.26 8.36 21.58 31.89 21.84 6.68 3.36 2.03 0 0 1.22 1 0.355
20 Bãi
Hơng
450/40 400/60 CL9 0 6.52 23.95 23.69 17.84 7.49 5.38 2.58 1.61 10.94 0 0 0 1.34 0.9 0.659


21

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


22

1.1.4. Vài nét về tân kiến tạo
a) Khái quát chung
Nằm ở rìa bắc của địa khối Kon Tum, móng của khu vực nghiên cứu đợc tạo
nên bởi các đá trầm tích phun trào, xâm nhập có tuổi Proterozoi-Paleozoi sớm, bị
uốn nếp và biến chất mạnh mẽ tạo nên móng kết tinh. Theo Phạm Huy Long (1995,
1999), vào Paleozoi muộn-Mezozoi sớm, vùng là phần rìa phía đông, đông bắc của
miền hoạt động magma kiến tạo mạnh, đợc nâng lên và bị hoạt hóa magma kiến
tạo kiểu rìa lục địa. Vào Mezozoi muộn và Kainozoi, vùng nằm trong đới rìa của chế
độ rift Biển Đông và là rìa phía đông của lục địa kiểu điểm nóng Đông Dơng. Các
hoạt động kiến tạo tích cực trong giai đoạn này tổ hợp với quá trình ngoại sinh liên
quan với điều kiện khí hậu và dao động mực nớc đại dơng đã tạo nên những nét
cơ bản của địa hình và trầm tích, quy định hớng và cờng độ các quá trình động
lực ngoại sinh hiện đại và do vậy có ý nghĩa lớn đối với việc quy hoạch lãnh thổ.
Các kết quả nghiên cứu tổng hợp đã cho thấy các hoạt động tân kiến tạo trong
phạm vi đới Đà Nẵng nói chung và khu vực đảo Cù lao Chàm nói riêng đợc bắt đầu
từ Miocen. Cũng nh các nơi khác, các chuyển động tân kiến tạo ở đây thể hiện cả
tính kế thừa bình đồ cấu trúc cổ (đó là sự thống trị của các chuyển động khối tảng và
vòm - khối tảng phân đới theo chiều từ bắc xuống nam và từ tây sang đông), đồng
thời lại thể hiện tính phát triển mới thể hiện rõ ràng nhất qua các cấu trúc phơng
kinh tuyến và á vĩ tuyến. Các chuyển động cũng phân dị theo thời gian, lúc mạnh,

lúc yếu dẫn tới hình thành tính phân bậc địa hình và phân nhịp của các bồn trầm
tích. Biểu hiện rõ nhất của hoạt động tân kiến tạo vùng ven biển Đà Nẵng - Cù Lao
Chàm là hoạt động đứt gãy, kèm theo là các chuyển động khối tảng và vòm khối
tảng.
Trên bình đồ cấu trúc chung của dải ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng, có thể
thấy đợc sự phân dị của hoạt động kiến tạo theo hớng từ lục địa ra biển. Có thể
chia khu vực thành ba đới cấu trúc là: 1) đới nâng mạnh Đại Lộc - Quế Sơn ở phía
tây với sự hình thành các núi cao trên 1000m; 2) đới sụt lún dạng địa hào Đà Nẵng -
Hội An tạo nên dải đồng bằng cùng tên, móng đá gốc tại đây bị chìm sâu trên 250m,
các thành tạo Đệ tứ tại đồng bằng cũng có bề dày từ vài chục mét tới 100m; 3) đới
nâng dạng địa luỹ Sơn Trà - Cù Lao Chàm với sự bóc lộ thể xâm nhập granit phức
hệ Hải Vân và tạo địa hình núi thấp nổi lên trên mặt biển.
b) Khe nứt và đứt gy kiến tạo
Hệ thống đứt gãy và khe nứt trong các thành tạo địa chất của vùng nghiên cứu
phát triển theo 3 phơng chính: tây bắc-đông nam, á kinh tuyến và đông bắc-tây
nam. Trong mỗi thành tạo địa chất, tại các vị trí kiến tạo khác nhau thì khe nứt cũng
phát triển khác nhau cả về phơng, góc cắm và nhiều tính chất khác. Các hệ thống
khe nứt và đứt gãy này quyết định tới phơng chung của các dãy núi, ph
ơng của
đờng bờ và các thung lũng, khe suối. Nhìn tổng thể, hình thái chung của đảo Cù
Lao Chàm có dạng khối với góc cạnh rõ ràng, phản ánh khá rõ vai trò của hoạt động
kiến tạo trong việc tạo nên bình đồ địa hình tại đây.
Hệ đứt gãy phơng tây bắc-đông nam phổ biến nhất trên đảo Cù Lao Chàm và
vùng biển kế cận. Đó là các đứt gãy trùng với phơng kéo dài của các đờng bờ biển
nh Bãi Bắc, đứt gãy từ Bãi Chồng tới Bãi Hơng và phía nam núi Tục Cả, đứt gãy

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


23


Đồng Chùa tạo nên dạng tuyến phơng tây bắc-đông nam của thung lũng Đồng
Chùa, ngoài ra đứt gãy này còn thể hiện khá rõ bởi các dải trũng trên sờn và đỉnh
núi Hòn Đại. Hệ đứt gãy phơng tây bắc-đông nam đã quyết định tới sự hình thành
hàng loạt khe suối theo phơng này tại hai sờn phía tây bắc và đông nam núi Hòn
Đại. Dải trũng với các đờng đẳng sâu đáy biển lớn nhất khu vực với giá trị 40-60m
có dạng tuyến kéo dài phơng tây bắc-đông nam, tạo nên ranh giới phân cách giữa
Cù Lao Chàm với Hòn Giài cũng là những minh chứng khá rõ ràng cho hoạt động
của một đới đứt gãy theo phơng này.
Hệ đứt gãy á kinh tuyến có sự thể hiện khá rõ trên địa hình, chúng không
những góp phần hình thành hệ thống khe suối cùng phơng mà còn tạo nên nhiều
đoạn đờng bờ và các sờn vách dốc đứng. Biểu hiện rõ nhất là đứt gãy tạo nên
đờng bờ và sờn núi thẳng ở đông Bãi Xép, đờng bờ dốc đứng phía đông núi Tục
Cả. Hàng loạt khe suối ở phía bắc núi Hòn Biền cũng có phơng á kinh tuyến do
phát triển dọc hệ thống khe nứt này. Tại phía tây núi Hòn Đại, dọc hệ đứt gãy
phơng á kinh tuyến đã xảy ra quá trình xiết ép mạnh của đá. Các đá bị biến vị
mạnh này tạo điều kiện cho quá trình phong hoá và tạo địa hình lõm sâu của bờ
biển. Dọc theo đới đứt gãy này cũng là nơi lớp phủ thực vật phát triển xanh tốt hơn
các khu vực kế cận (hình 1.7).

Hình 1.7: Đứt gãy phơng á kinh tuyến tại phía tây đỉnh 189 góp phần tạo nên
hõm sâu của bờ biển và lớp phủ thực vật tơi tốt hơn các khu vực xung quanh
Hệ thống đứt gãy - khe nứt phơng đông bắc-tây nam phổ biến ở sờn tây - tây
nam núi Hòn Biền, núi Tục Cả. Sự kết hợp giữa hệ thống đứt gãy này với hệ thống
đứt gãy á kinh tuyến và tây bắc-đông nam ở phía tây núi Hòn Biền đã góp phần phá
hủy mạnh các khối đá granit, tạo điều kiện cho quá trình đổ lở và tích tụ các sản
phẩm đổ lở, tạo nên sự nghiêng thoải của địa hình ở phía sờn này, góp phần tạo nên
các khe suối có nhiều nhánh, phát triển dài để tập trung nớc. Các khe nứt phơng
đông bắc-tây nam khá phổ biến trên các đá tại sờn vách dốc đứng phía đông nam
núi Tục Cả còn tạo điều kiện cho sóng gió tạo nên các hang kéo dài, cao và dốc

đứng, là nới c trú của đàn yến sào có giá trị nhất của đảo (hình 1.8).

Đề tài KC-09-12: Luận chứng khoa học về mô hình phát triển kinh tế-sinh thái và du lịch Cù Lao Chàm


24


Hình 1.8: Hệ thống khe nứt phơng đông bắc-tây nam trong đá granit
tại phía đông nam núi Tục Cả - nơi c trú của đàn chim yến

1.2 đặc điểm địa mạo
1.2.1 Cù Lao Chàm - một điển hình tiêu biểu nhất về mặt hình thái - cảnh
quan của một đảo núi đá granit trong hệ thống đảo ven bờ Việt Nam
Đồng thời với hoạt động trong lòng Trái Đất, các quá trình ngoại sinh với sự
chi phối của nguồn năng lợng Mặt Trời góp phần đáng kể tạo nên sự đa dạng về
cảnh quan của đảo đá granit - đó là sự hình thành các sản phẩm phong hoá trên khối
đá. Nét chung của phong hoá đá granit của xứ nhiệt đới là cơ chế bóc vỏ để hình
thành tầng phong hoá mềm bở bọc ngoài các nhân cầu granit tơi, song sự tồn tại
cảnh quan địa mạo - thổ nhỡng tại mỗi khu vực có sự khác biệt. Nếu tại đới khô
hạn Nha Trang - Bình Thuận, trên các sờn dốc dọc Quốc lộ 1A hầu hết đều chỉ gặp
các tảng đá lớn nhỏ ngổn ngang thì tại Cù Lao Chàm, cảnh quan có sự khác biệt
đáng kể. Đó là sờn vách dốc đứng lộ trơ đá khối và một vài tảng dờng nh mới
đợc tách ra từ khối đá lớn ở sờn đông bắc, là sờn thoải với lớp phủ thực vật trên
tầng đất vàng xám ở tây nam. Tuy nhiên, nếu lớp phủ thực vật bị tàn phá, trong thời
gian không lâu, quá trình xói mòn đất bởi ma của xứ nhiệt đới ẩm sẽ tạo nên một
cảnh quan hoang mạc nh Bình Thuận.
Hoạt động kiến tạo có tính chu kỳ tổ hợp với dao động mực nớc đại dơng và
quá trình bóc mòn đã tạo nên tính phân bậc địa hình của đảo. Mặc dù có sờn dốc
và diện tích không lớn, Cù Lao Chàm vẫn thể hiện tính phân bậc khá rõ, nhất là ở

phía sờn tây nam của đảo, với các bậc: <10m; 10-20m; 20-30m; 40-60m; 80-
120m; 180-220m và trên 350m. Các bậc thấp có nguồn gốc mài mòn do biển và các
bậc cao là di tích của các bề mặt san bằng.
Sau khi các khối đá granit Hải Vân-Cù Lao Chàm đợc bóc lộ, kể từ Kainozoi
(từ 40-50 triệu năm trớc tới nay) tác động của tự nhiên lên chúng đã để lại nhiều
dấu ấn quan trọng, đó là các bậc địa hình - mặt san bằng và các thềm biển.
Mặc dù địa hình bị phân cắt mạnh, nhng tại Cù Lao Chàm vẫn tồn tại một tập
hợp các mặt san bằng kiểu pediplen và pedimen: pediplen 400-500 m (Hòn Biền)

×