Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

CÂU HỎI ÔN TẬP TRIẾT HỌC CAO CẤP CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.25 KB, 17 trang )

1
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trong "Bút ký triết học", V.I. Lê nin viết: "Phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập" (V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t. 29, tr. 379).
Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này trong quá trình
hội nhập quốc tế đối với nước ta hiện nay./.
2. V.I.Lênin viết: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các
vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề
chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường
hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ những sự dao động tồi tệ nhất và
mất hẳn tính nguyên tắc” (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M. 1979, T.15, tr.437).
Trên cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù cái riêng và phạm trù cái
chung, đồng chí hãy giải thích luận điểm nêu trên và liên hệ với thực tế quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay./.
3. Trên cơ sở lý luận về mâu thuẫn của triết học mácxít và thực tiễn quá trình đổi mới ở
Việt Nam, đồng chí hãy nêu và phân tích một số mâu thuẫn biện chứng đang tồn tại trong xã
hội ta hiện nay và chỉ ra phương hướng để giải quyết./.
4. Trong "Bút ký triết học", V.I. Lê nin viết: "Phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập. Có điều không thể đồng nhất sự đấu tranh với các hiện tượng bè phái mất đoàn
kết, vì các hiện tượng này không tạo ra sự phát triển" (V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ,
M.1978, t. 29, tr. 379).
Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học của luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề
này đối với việc “thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng” trong công tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay ./.
5. Trong bài nói chuyện với anh chị em học viên, cán bộ, công nhân viên Trường Đại
học Nhân dân Việt Nam (khóa 3) ngày 18-1-1958, Bác Hồ viết: "Để cải tạo xã hội, một mặt
phải cải tạo vật chất như tăng gia sản xuất, một mặt phải cải tạo tư tưởng. Nếu không có tư t-
ưởng xã hội chủ nghĩa thì không làm việc xã hội chủ nghĩa được" (Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. CTQG, H. 2002, tr. 24).
Dựa vào mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, đồng chí hãy giải thích
luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất


nước./.
6. Ph. Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh hưởng lẫn
nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập. Nxb. CTQG , H.
1999, tập 30, tr. 271).
Từ mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, đồng chí hãy phân
tích cơ sở triết học của luận điểm trên và liên hệ với thực tiễn đổi mới của nước ta hiện nay./.
2
Bác Hồ nói: “Để cải tạo XH một mặt phải cải tạo vật chất như tăng gia
sản xuất, một mặt phải cải tạo tư tưởng, nếu không có tư tưởng XHCN thì
không làm việc XHCN được”.
Dựa vào mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
hãy giải thích luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này trong thời kỳ
CNH-HĐH đất nước ta.
Bài làm
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan
vốn có của nó, những quy luật đó được thực hiện thông qua hoạt động của con
người, bị chi phối bởi ý thức xã hội của họ. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của tồn tại xã
hội; khi tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội sớm muộn cũng thay đổi theo.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phạm trù xuất phát của chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Mối quan hệ của nó biểu hiện vấn đề cơ bản của Triết học trong
lịch sử. Để tìm hiểu về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trước hết
chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm của chúng:
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng toàn bộ
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Sinh hoạt vật chất của xã hội
trước hết là phương thức sản xuất. Sinh hoạt vật chất của xã hội còn bao gồm
những sinh hoạt vật chất khác như: trao đổi, tiêu dùng hàng ngày, kế thừa tài sản
Điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm: điều kiện tự nhiên xung
quanh, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số … Trong các yếu tố cấu thành

nên tồn tại xã hội, phương thức SX là nhân tố cơ bản vì nó có ảnh hưởng quyết
định đến sự biến đổi của ý thức xã hội và nó làm thay đổi ý nghĩa của hoàn cảnh
địa lý và điều kiện dân số trong sự phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ
những quan điểm tư tưởng, cùng những tình cảm, tâm trạng, mong muốn, truyền
thống … nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai
đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định. Căn cứ vào trình độ nhận thức, có thể
phân ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận (ý thức lý
luận làm gia tăng yếu tố khoa học, trí tuệ của ý thức thông thường). Nói cách
khác, ý thức xã hội biểu hiện qua tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy
3
định nên ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, nghĩa là mỗi giai cấp đều có những
quan điểm, tư tưởng và tâm lý riêng, không có ý thức chung cho mọi giai cấp
mà chỉ có ý thức chung cho một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng thống trị trong
mỗi thời đại là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế. Giai cấp thống trị
luôn tìm cách hạn chế ý thức của giai cấp bị trị và truyền bá ý thức của giai cấp
hình thành của xã hội.
Ý thức xã hội có kết cấu gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận,
những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng phương thức khác nhau.
Chúng ta có thể phân ý thức xã hội thành các dạng sau đây:
Thứ nhất, ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận:
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con
người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa
được hệ thống hoá, khái quát hoá. Nó thường phản ánh sinh động, trực tiếp
nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường chi phối cuộc sống đó. Ý
thức thông thường tuy là trình độ thấp nhưng có vai trò quan trọng ở chỗ, nhờ nó
mà tri thức kinh nghiệm được hình thành, đây là tiền đề quan trọng để hình
thành các lý thuyết khoa học.

Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái quát
hoá thành học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm
trù, quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực
khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ
bản chất của các sự vật và hiện tượng.
Thứ hai, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội:
Tâm lý xã hội là bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tình cảm, ước muốn,
thói quen, tập quán của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn bộ
xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và
phản ánh đời sống đó. Tuy nhiên, tâm lý xã hội có vai trò nhất định trong đời
sống xã hội, biểu hiện ở chỗ, nếu nắm bắt được trạng thái tâm lý của nhân dân
thì sẽ tìm ra được các biện pháp để giáo dục nhân dân tham gia tích cực, tự giác
vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.
Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách
gián tiếp, tự giác, khái quát hoá thành những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết
học, nghệ thuật, tôn giáo). Hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
khoa học, và tới toàn bộ xã hội, biểu hiện ở chỗ, hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để
định hướng sự phát triển của khoa học và các hoạt động cải tạo xã hội.
4
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ với nhau.
Chúng có cùng nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý
xã hội tạo điều kiện hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp
thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định và làm cho hệ tư tưởng, lý
luận xã hội bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại hệ tư tưởng, lý luận xã hội gia tăng
yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội
phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư
tưởng phản khoa học, phản động kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã
hội phát triển.
Khi nghiên cứu về ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ý thức

xã hội trong quan hệ với cơ sở vật chất, với cơ sở kinh tế để nghiên cứu và từ đó
khẳng định ý thức xã hội và tồn tại xã hội có quan hệ biện chứng với nhau. Đó
là, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định và tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội.
Trước hết, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết
định nghĩa là trong mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
thì tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định đến nội dung, khuynh hướng ptriển của ý
thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội do tồn tại xã hội
quyết định, tồn tại xã hội thay đổi làm ý thức xã hội thay đổi theo, nhất là mỗi
khi phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng, những quan điểm về văn
hóa, nghệ thuật…cũng sẽ dần dần thay đổi theo.
Ví dụ: trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản
xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên chưa có
tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, quan
hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị
bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư
hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội
chiếm hữu nô lệ suy tàn, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng
quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc
trưng trong đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô dần dần phá bị xoá bỏ.
Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế
thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị
xoá bỏ, được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản.
Sự phản ánh của ý thức xã hội bao giờ cũng xuyên qua một mắt khâu là
lợi ích. Do đó xem xét nội dung của ý thức xã hội phải gắn chặt với lợi ích chủ
thể. Mặt khác, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội rất phong phú đa dạng, có
5
thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng suy cho cùng bao giờ nó cũng phản ánh quan
hệ kinh tế của thời đại.
Như vậy, không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn

tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ, hưng ý thức xã hội có tính độc lập
tương đối được thể hiện qua các mặt sau:
Một là, sự lạc hậu của ý thức xã hội thường xảy ra khi ý thức xã hội
không phản ánh kịp thời sự vận động, phát triển của đời sống xã hội. Sự lạc hậu
của ý thức xã hội còn thể hiện ở những tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của xã hội
của xã hội cũ còn rơi rớt lại vẫn tồn tại dai dẳng sau khi tồn tại xã hội đã thay
đổi, sự lạc hậu này của ý thức xã hội ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển
của xã hội và ko dễ dàng mất đi, vì thế trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới
phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng xây dựng ý thức xã hội mới
(cách mạng tư tưởng) đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại
của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý
thức cũ đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
Hai là, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: tồn tại xã hội,
phản ánh đúng quy luật vận động và phát triển của tồn tại xã hội. Từ đó nó đưa
ra các dự báo tương lai một cách khoa học, giúp con người xác định được mục
tiêu và lựa chọn những giải pháp, định hướng cho việc tổ chức chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người để đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên khi nói tư
tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình khách
quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa là trong trường hợp này ý thức
xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến
không thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh chính xác, sâu sắc mối quan hệ tất
yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
Ba là, y thức xã hội có tính kế thừa: kế thừa là 1 tất yếu khách quan của
sự phát triển của ý thức xã hội. Quan hệ kế thừa không phải là việc sử dụng kế
thừa máy móc mà trên cơ sở “lọc bỏ”. Kế thừa và lọc bỏ là biện chứng của sự
phát triển của ý thức xã hội, nội dung kế thừa hoặc lọc bỏ xuất phát từ quan hệ
về lợi ích và nhu cầu của giai cấp chi phối. Tuy nhiên, xét đến cùng thì tồn tại xã
hội vẫn quyết định nội dung và khuynh hướng của sự kế thừa.
Bốn là, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội và tồn tại xã
hội: mỗi thời đại tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý

thức nổi lên hàng đầu tác động trở mạnh đến các hình thái ý thức khác. Trong sự
tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức thì hình thái ý thức chính trị giữa vai
6
trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì nó chi phối thế giới quan lập trường của mọi hình
thái ý thức xã hội khác.
Năm là, y thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội bằng cách thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức xã hội chi phối hoạt động thực tiễn
của con người. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội theo hai hướng thúc
đẩy hoặc kìm hãm (khi ý thức xã hội đặc biệt là hệ tư tưởng mang tính giai cấp,
khoa học tiến bộ thì trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn; khi hệ tư
tưởng ko mang tính khoa học thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội).
Hệ quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào vai trò
lịch sử của giai cấp thống trị, sự phù hợp hay ko phù hợp của giai cấp thống trị ở
thời đại đó; mức độ truyền bá tư tưởng trong quần chúng nhân dân.
Từ cơ sở lý luận trên, Bác Hồ đã nói “Để cải tạo XH một mặt phải cải tạo
vật chất như tăng gia sản xuất, một mặt phải cải tạo tư tưởng, nếu không có tư
tưởng XHCN thì không làm việc XHCN được”. Như vậy, Bác đã khẳng định nêu
cao vai trò phát triển kinh tế trong việc cải tạo xã hội, xây dựng XHCN (tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội) nhưng cũng nhấn mạnh vai trò của công tác tư
tưởng CNXH, tức là vai trò của ý thức xã hội đối với kinh tế, đối với tồn tại xã
hội nói chung (ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội).
Luận điểm nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc cải cách đổi
mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội IX của Đảng đã khẳng
định “Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát triển văn hóa, từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường xã hội”. Đường lối này của
Đảng xuất phát từ nhận thức rõ vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý
thức xã hội. Đó là đổi mới quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Trong đó, phát triển kinh tế, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Coi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền

vững là điều kiện tiên quyết để ổn định và cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần cảu nhân dân. Bên cạnh đó, để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân gìau, nước mạnh và bảo đảm sự phát triển bền vững,
toàn diện của đất nước thì đi đôi với phát triển kinh tế phải là phát triển văn hóa.
Tiếp tục thực hiện quan điểm trên của Đảng, tại Đại hội XI, trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm
2011), Đảng ta đã xác định: "Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở
nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước
ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc." (Đảng
7
Cộn sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Quốc
Gia, tr.71). Trong đó, "đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường"; "xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội." (Đảng Cộn sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Quốc Gia, tr.72) là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình thực hiện mục tiêu.
Như vậy, Đảng ta xác định, nhiệm vụ phát triển kinh tế là phải gắn liền
với việc thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Việc tăng trưởng
kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế gắn liền với
hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp
nhân dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã hội, là thực
hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt hơn việc làm thu
nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn đề xã hội. Tuy nhiên
tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội
trong đó có sự phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi.
Hiện nay, nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp, một mặt nền kinh tế thị
trường vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
nhưng mặt khác nó lại vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống

tinh thần của xã hội đặc biệt là về tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó sự suy
thoái về tư tưởng đạo đức và lối sống của cán bộ đảng viên chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi. Trong điều kiện đó mục tiêu của cuộc cách mạng trên lãnh vực tư
tưởng cần đạt được là xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN. Để
thực hiện mục tiêu đó phải thực hiện hai nhiệm vụ trong giai đọan hiện nay là:
nhiệm vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
HCM giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm vụ cấp
bách về văn hoá là xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
“hướng mọi hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực lực sáng
tạo, có ý thức công đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, lối sống có
văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, công đồng và xã hội” và nêu cao tinh
thần trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên
có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thật sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào
lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống xây dựng”; ngăn chặn việc phục hồi các hủ tục, khắc phục tình trạng mê tín
đang có xu hướng lan rộng trong xã hội.
8
Muốn có được ý thức XHCN chúng ta phải chăm lo phát triển cơ sở vật
chất cho nó. Chủ trương của Đảng ta là “Phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp
luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu giài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. kinh tế tập thể không ngừng được cũng cố và phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở nên vùng chắc của nền
kinh tế quốc dân”. Do đó, cần phải củng cố quan hệ sản xuất XHCN trên các
mặt, củng cố về mặt sở hữu (vd: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước
thống nhất quản lý, ), mặt quản lý, mặt phân phối. Hiện nay nhà nước đa cấu
trúc lại nên kinh tế, trước hết càu cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty của nhà

nước theo hướng sắp xếp lại, chuyển đổi hình thức sở hữu, nhà nước chỉ nắm lại
những lĩnh vực then chốt, thoái vốn đối với những đơn vị kinh doanh ngoài
ngành, cổ phần hóa,…
Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được sau 25 năm thực hiện
đường lối đổi mới đã khẳng định được những thành công của đảng và nhà nước
ta trong việc kết hợp giữa phát triển kinh tế với văn hóa-xã hội cụ thể như: kinh
tế tăng trưởng nhanh đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm; Năm 2010, GDP bình
quân đầu người đạt 1.168 USD…Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ, đời sống các tầng lớp nhân dân được
cải thiện, việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển
giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm
2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng,
từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân
(100% số xã có điện thoại, đạt trên 95,5 thuê bao/100 dân, tỷ lệ người sử dụng
Internet đạt trên 25% dân số…). Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế nhất định như:
Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp,
chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; Các
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, môi
trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội…Văn hóa phát triển
chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa, văn nghệ, báo chí,
xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hoá bị xâm hại, lai căng, thiếu lành
9
mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập
của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh,
thiếu niên, rất đáng lo ngại.
Đối với tỉnh Cà Mau, trong thời gian qua Đảng bộ, nhân dân đã trú trọng

tập trung phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa. Đại hội đảng lần XIV
(201-2015) của tỉnh đã đề ra quan điểm chỉ đạo “Phát triển kinh tế phải đảo bảo
yếu tố bền vững, chất lượng, hiệu quả, gắn với phát triển văn hóa – xã hối”. Đến
nay, kinh tế của tỉnh phát triển nhanh, tẳng trưởng GDP hàng năm gần 10% lớn
hơn bình qn cả nước, các thiết chế văn hóa – xã hội được quan tâm đầu tư
(100% xã có trạm y tế đạt chuẩn, đạt được phổ cập giao dục trung học CS, các
huyện điều cáo trung tâm hóa, 75% số xã có trung tâm văn hóa, thể thao, 80%
có nhà văn hóa ấp,…cuộc vận động”Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
HCM” được triển khai rộng khắp và đi vào chiều sâu…phong trào xây dựng
NTM phát triển rộng khắp,….
Tóm lại, vận dụng mqh biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
Đảng đã xác định đúng đắn đường lối ptriển ktế gắn chặt với cơng bằng xã hội
và ptriển mạnh mẽ nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, làm cho chủ
nghiã Mác lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giử vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần cuả nhân dân, đó là điều kiện đảm bảo sự thành cơng và bền vững cho
tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tiếp tục vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, Đại hội XI của đảng đã tiếp tục
khẳng định trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm tới là : “Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hồ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
cơng bằng xã hội, khơng ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”,
trước mặt là định hướng 5 năm tới: “Phát triển tồn diện các lĩnh vực văn hóa,
xã hội hài hồ với phát triển kinh tế”, hồn thiện hệ thống chính sách, kết hợp
chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội;
thực hiện tốt tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững….
Câu hỏi: Ph. ngghen viết: "Sự phát triển của chính trò, pháp luật, triết
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,.v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh
tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh
tế".
10

(C.Mác – Ph. ngghen: toàn tập. NXB CTQG. HN.1999. tập 39. tr.
271)
Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học của luận điểm trên và liên hệ
thực tiễn đổi mới của nước ta hiện nay.
Bài làm
Xã hội lồi người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và
những quy luật đó được thực hiện thơng qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, nhận thức đúng đắn bản chất của ý thức xã hội và sự chuyển hóa từ tư
tưởng thành hiện thực trong đời sống xã hội có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu
lịch sử xã hội lồi người. Ph. ngghen viết: "Sự phát triển của chính trò, pháp
luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,.v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát
triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ
sở kinh tế".
Vậy cơ sở triết học của luận điểm trên là gì chúng ta cùng nhau phân tích.
Trước tiên chúng ta có thể khẳng định rằng thực chất của tư tưởng này đó là mối
quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng tồn bộ
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trước hết sinh hoạt vật chất của
xã hội phương thức sản xuất (bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất).
Sinh hoạt vật chất của xã hội còn bao gồm những sinh hoạt vật chất khác như :
trao đổi, tiêu dùng hàng ngày, kế thừa tài sản Điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội bao gồm : điều kiện tự nhiên xung quanh, hồn cảnh địa lý, dân số và mật
độ dân số … Trong các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội, phương thức SX là
nhân tố cơ bản vì nó có ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi của ý thức xã hội
và nó làm thay đổi ý nghĩa của hồn cảnh địa lý và điều kiện dân số trong sự
phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm tồn bộ những
quan điểm tư tưởng lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, mong muốn, truyền
thống … phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội
nhất định.

11
Căn cứ vào trình độ nhận thức, có thể phân ý thức xã hội thành ý thức xã
hội thông thường và ý thức lý luận (ý thức lý luận làm gia tăng yếu tố khoa học,
trí tuệ của ý thức thông thường). Nói cách khác, ý thức xã hội biểu hiện qua tâm
lý xã hội và hệ tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất
khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định
nên ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, nghĩa là mỗi giai cấp đều có những quan
điểm, tư tưởng và tâm lý riêng, không có ý thức chung cho mọi giai cấp mà chỉ
có ý thức chung cho một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng thống trị trong mỗi thời
đại là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế. Giai cấp thống trị luôn tìm
cách hạn chế ý thức của giai cấp bị trị và truyền bá ý thức của giai cấp hình
thành của xã hội.
Khi nghiên cứu về ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ý thức xã
hội trong quan hệ với cơ sở vật chất, với cơ sở kinh tế để nghiên cứu và từ đó
khẳng định ý thức xã hội và tồn tại xã hội có quan hệ biện chứng với nhau.
Trong mối quan hệ đó tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định đến nội dung,
khuynh hướng phát triển của ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn
tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ý thức xã hội do tồn tại xã hội sinh ra,
nội dung của nó là kết quả của sự phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội tác
động đến nhận thức của chủ thể thì hình thành những quan điểm, tư tưởng, nhận
định và thái độ của chủ thể. Sự phản ánh của ý thức xã hội bao giờ cũng xuyên
qua một mắt khâu là lợi ích, trong xã hội có giai cấp đó là lợi ích của giai cấp.
Do đó xem xét nội dung của ý thức xã hội phải gắn chặt chẽ với quan hệ lợi ích.
Mặt khác, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nhưng không phải bất cứ tư
tưởng nào, một hình thức ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp
các quan hệ kinh tế của thời đại mà nó có thể là phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp
qua khâu trung gian, nhưng xét đến cùng bằng cách này hay cách khác nó vẫn
phản ánh các quan hệ kinh tế của thời đại. Tính quyết định của tồn tại xã hội đối
với ý thức xã hội còn thể hiện khi tồn tại xã hội - nhất là phương thức sản xuất -

biến đổi thì ý thức xã hội (những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm
về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật …) sớm muộn
sẽ biến đổi theo. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh các thời đại khác nhau có
những tư tưởng khác nhau đều bắt nguồn từ sự khác nhau của cơ sở kinh tế và
sự thay đổi, phát triển của ý thức xã hội trước hết là xuất phát từ sự thay đổi và
phát triển của phương thức sản xuất.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như là một yếu tố thụ động
trái lại còn nhấn mạnh tác động tích cực, sáng tạo của ý thức xã hội đối với đời
sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, nghĩa
12
là tuy bị tồn tại xã hội quy định nhưng ý thức xã hội lại vừa có tính quy luật,
lôgíc phát triển riêng. Sự thống nhất giữa chức năng phản ánh và chức năng sáng
tạo tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội biểu hiện ở chổ ý thức xã hội
vừa vượt trước vừa lạc hậu so với sự phát triển của tồn tại xã hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội thường xảy ra khi ý thức xã hội không phản
ánh kịp thời sự vận động, phát triển của đời sống xã hội bởi vì ý thức xã hội chí
là cái phản ánh được sinh ra từ tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội thì gắn trực tiếp
với hoạt động thực tiễn nên thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu của ý thức
xã hội còn thể hiện ở những tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của xã hội của xã hội
cũ còn rơi rớt lại vẫn tồn tại dai dẳng sau khi tồn tại xã hội đã thay đổi, bởi vì
những tư tưởng, tâm lý một khi đã ăn sâu vào đời sống xã hội và trở thành lối
sống, nếp nghĩ phong tục, tập quán, thói quen thì nó có tính ổn định tương đối
và tồn tại lâu hơn, không dễ mất đi ngay. Mặt khác, các giai cấp lỗi thời, phản
động cũng tìm cách duy trì những tư tưởng cũa nhằm phục vụ lợi ích của chúng,
như lối sống ăn bám, chây lười lao động, tệ nạn tham nhũng … Lê nin nói rằng:
“Một người bệnh chết đi ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh nhưng một xã
hội mất đi ta không thể đem chôn cùng những căn bệnh của nó được mà những
căn bệnh này rữa ra xâm nhập vào những con người đang sống”
Những hiện tượng ý thức lạc hậu tiêu cực không mất đi dễ dàng cho nên sự

nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng
xây dựng ý thức xã hội mới (cách mạng tư tưởng) đấu tranh chống lại những âm
mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên
trì xóa bỏ những tàn dư ý thức cũ đồng thời ra sức phát huy những truyền thống
tư tưởng tốt đẹp.
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội,
triết học Mác đồng thời cũng thừa nhận rằng trong những điều kiện vật chất nhất
định, tư tưởng của con người đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể
vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, phản ánh đúng quy luật vận động và
phát triển của tồn tại xã hội. Từ đó nó đưa ra các dự báo tương lai một cách khoa
học, giúp con người xác định được mục tiêu và lựa chọn những giải pháp, định
hướng cho việc tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người để đạt được
mục tiêu đó. Tuy nhiên khi nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã
hội, dự kiến được quá trình khách quan của sự phát triển xã hội thì không có
nghĩa là trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết
định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh
chính xác, sâu sắc mối quan hệ tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
13
Ý thức xã hội của một thời đại bao giờ cũng phản ánh đời sống vật chất của
thời đại đó, đồng thời là sự kế thừa của những giá trị tinh thần mà các thế hệ
trước đó tích lũy được. Quan hệ kế thừa nói lên sự phát triển liên tục về tư duy
giữa các thế hệ, tuy nhiên nó không phải là việc sử dụng kế thừa máy móc mà
trên cơ sở “lọc bỏ”. Kế thừa và lọc bỏ là biện chứng của sự phát triển của ý thức
xã hội, nội dung kế thừa hoặc lọc bỏ xuất phát từ quan hệ về lợi ích và nhu cầu
của giai cấp chi phối. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức
khác nhau của các thời đại trước. Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp
trên lĩnh vực ý thức thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học, phản
tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện hiện tại mà còn
phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử và phải kế thừa,
phát huy những giá trị tinh thần tiến bộ của dân tộc và nhân loại. Tuy nhiên, xét

đến cùng thì tồn tại xã hội vẫn quyết định nội dung và khuynh hướng của sự kế
thừa.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái ý thức xã hội đều phản
ánh tồn tại xã hội với những đặc trưng riêng và giữ chức năng xã hội khác nhau,
không thể thay thế cho nhau nhưng lại tồn tại trong sự liên hệ tác động xâm
nhập vào nhau, làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính
chất bị ảnh hưởng bởi hình thái khác. Trong sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau đó
thì tuỳ điều kiện cụ thể mà một hình thái nào đó có ảnh hưởng lớn hơn nhưng ở
xã hội hiện đại thì ý thức chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất. Do đó trong quá
trình xây dựng ý thức xã hội mới phải phát triển hài hòa và đồng bộ tất cả các
hình thái ý thức xã hội tránh mâu thuẩn đối lập nhau.
Ý thức xã hội là do tồn tại xã hội quyết định nhưng lại tác động trở lại tồn
tại xã hội. Sự tác động này vừa thể hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
vừa nói lên vai trò của ý thức xã hội. Sự tác động ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội diễn ra hai khuynh hướng khác nhau. Những tư tưởng khoa học và tiến bộ
góp phần thúc đẩy xã hội phát triển; ngược lại những tư tưởng lạc hậu, phản
động thì cản trở sự phát triển của xã hội. Tính chất và hiệu quả tác động trở lại
của ý thức xã hội phụ thuộc vào các yếu tố : vai trò lịch sử của giai cấp chủ thể
của tư tưởng, trình độ phù hợp của ý thức đối với hiện thực và mức độ truyền
bá và xâm nhập của tư tưởng cả bề rộng lẫn bề sâu trong quần chúng nhân dân.
Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội không phải là trực tiếp biến
đổi tồn tại xã hội mà nó tác động thông qua hoạt động của con người ở chỗ ý
thức xã hội vạch ra nội dung vận động và phát triển của tồn tại xã hội, từ đó xác
định đúng đắn các mục tiêu và lựa chọn các biện pháp tối ưu đồng thời hướng
dẫn hoạt động cải tạo .
14
Ngồi ra chúng ta cũng thấy rằng tư tưởng trên còn thể hiện cho chúng ta
thấy mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chổ:
Vai trò quyết đònh của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng: cơ
sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào thống trò về mặt

kinh tế thì đồng thời thống trò về mặt tinh thần. Cho nên cơ sở hạ tầng nào thì
sẽ sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của kiến
trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong một hình thái kinh tế – xã hội
nhất đònh, hoặc giữa các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau. Khi cơ sở hạ
tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng sẽ mất theo và cơ
sở hạ tầng mới xuất hiện thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó
cũng xuất hiện. Cho nên, một khi cơ sở hạ tầng cũ bò thay thế bằng một cơ sở
hạ tầng mới, thì sự thống trò của giai cấp thống trò cũ cũng mất theo, làm xuất
hiện một giai cấp thống trò mới, một nhà nước mới, một hệ tư tưởng thống trò
mới.
Một khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng
mất theo. Nhưng có những nhân tố riêng lẽ của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn
còn tồn tại rất lâu trong xã hội mới, nhất là về mặt tư tưởng. Mặt khác cũng
có thể có những nhân tố nào đấy của kiến trúc thượng tầng cũ còn được giai
cấp thống trò mới kế thừa. Cho nên trong quá trình chuyển hóa giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng cũ và cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng mới
bao giờ cũng bao hàm sự kế thừa lẫn nhau dưới những hình thức cụ thể nào
đó.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động trở lại
cơ sở hạ tầng. Nhưng nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng chính trò của giai
cấp thống trò tác động một cách trực tiếp và quan trọng nhất. Còn các bộ
phận khác của kiến trúc thượng tầng như đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật …
cũng đều tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nhưng sự tác động ấy thường
phải thông qua nhà nước, pháp luật, hệ tư tưởng của giai cấp thống trò thì mới
phát huy được hiệu kực của nó đối với cơ sở hạ tầng và xã hội.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
cũng có thể thúc đẩy sự hoàn thiện và phát triển của cơ sở hạ tầng, đồng thời
15

cũng có thể kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu kiến trúc thượng
tầng phản ánh và thực hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng
thì nó củng cố bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Ngược lại
nó phản ánh và không thực hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ
tầng thì lại kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa Tồn tại xã hội
và Ý thức xã hội, ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là khi xem xét, giải quyết
các hiện tượng thuộc ý thức xã hội trước hết phải xuất phát từ cơ sở vật chất, cơ
sở kinh tế đã sinh ra nó, đồng thời phải xem xét tính độc lập tương đối. Từ đó
khẳng định được vai trò động lực của những tư tưởng khoa học, tiến bộ.
Từ cơ sở lý luận trên, trong cơng cuộc cải cách đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Tăng trưởng kinh
tế đi lên gắn liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ và
cải thiện mơi trường xã hội”
Đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội này của Đảng xuất phát từ
nhận thức rõ vai trò quyết định của kinh tế đối với ý thức xã hội. Trên con
đường q độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế
bằng con đường cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Để thực
hiện được nhiệm vụ này và bảo đảm sự phát triển tồn diện của xã hội thì đi đơi
với tăng trưởng kinh tế phải phát triển văn hóa và giáo dục nhằm phát huy mọi
nguồn lực tinh thần của người Việt Nam.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội VII chỉ rõ : phải kết
hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở và
tiền đề để thực hiện tốt chính sách xã hội, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Như vậy, với vai trò là nguồn gốc sản sinh ra ý thức xã hội, nền kinh tế phát
triển mạnh tạo điều kiện và là tiền đề cho việc lành mạnh hóa các QHSX, bảo vệ
truyền thống tốt đẹp của từng gia đình và của cả dân tộc.
Trong giai đoạn q độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của

tư tưởng cũ vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong
Đảng và trong nhân dân hiện nay vẫn còn đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là
cơ bản, đã và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là ngun tố
quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất nước. Tính tích cực năng
động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh vực xã hội,
16
được phát huy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái lòng yêu nước ý thức tự
hào tự tôn dân tộc truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp
tục giữ gìn và phát huy. Tuy nhiên, Hiện nay nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp,
một mặt nền kinh tế thị trường vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần nhưng mặt khác nó lại vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực
ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội đặc biệt là về tư tưởng đạo đức và
lối sống. Trong đó những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận thức và tình trạng
suy thoái về đạo đức lối sống cũng khá phổ biến. Sự suy thoái về nhận thức, tư
tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ -
Đảng viên chưa được ngăn chặn hình thức phai nhạt lý tưởng cách mạng sa sút
phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham nhũng lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư
tưởng cơ hội thực dụng có chiều hướng phát triển. Những mặt tiêu cực là nguy
cơ tiềm ẩn liên quan sự mất còn của Đảng, của chế độ.
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu
quả kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo
cơ hội cho mọi tầng lớp nhân dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ
về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết
tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn
đề xã hội. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả
các vấn đề xã hội trong đó có sự phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Do
đó, trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và Nhà nước ta chủ
trương bảo vệ và khuyến khích công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ
văn hóa, giáo dục đào tạo, chăm lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công
sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng

đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc thực hiện phân
phối công bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách
bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu
cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm
nghèo, tạo phong trào đoàn kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền thống “lá
lành đùm lá rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa
chống tham nhũng, bất công xã hội nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền
lương để người lao động hăng hái làm việc đủ sống và nâng cao mức sống, mức
đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết
định để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một xã
hội tốt đẹp trong khi kinh tế nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp,
17
kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, Đảng đã xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với công
bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là
điều kiện đảm bảo sự thành công và bền vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.

×