Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ KHOA HỌC MÔITRƯỜNG VÀO VẤN ĐỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀTHUỶ ĐIỆN (THUỶ ĐIỆN SÔNG TRANH 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 60 trang )

TIỂU LUẬN
KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Đề tài:
ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ KHOA HỌC MÔI
TRƯỜNG VÀO VẤN ĐỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ
THUỶ ĐIỆN (THUỶ ĐIỆN SÔNG TRANH 2).
Giáo viên hướng dẫn : PGS. TS. Vũ Chí Hiếu
Lớp Cao học : K22 – Quản lý Môi trường
Học viên thực hiện : Trần Nguyễn Cẩm Lai
TP.HCM, 12/2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG







Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
LỜI MỞ ĐẦU
Nước là tài nguyên vật liệu quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên trái đất.
Con người mỗi ngày cần 250 lít nước cho sinh hoạt, 1.500 lít nước cho hoạt động công
nghiệp và 2.000 lít cho hoạt động nông nghiệp. Nước chiếm 99% trọng lượng sinh vật
sống trong môi trường nước và 44% trọng lượng cơ thể con người. Ðể sản xuất 1 tấn
giấy cần 250 tấn nước, 1 tấn đạm cần 600 tấn nước và 1 tấn chất bột cần 1.000 tấn
nước.
Ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống trên, nước còn là chất mang năng
lượng (hải triều, thuỷ năng), chất mang vật liệu và tác nhân điều hoà khí hậu, thực hiện
các chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Có thể nói sự sống của con người và


mọi sinh vật trên trái đất phụ thuộc vào nước.
Nước ngọt là nguồn tài nguyên tái tạo, tuy vậy mà việc cung cấp nước ngọt và sạch
trên thế giới đang từng bước giảm đi. Nhu cầu nước đã vượt cung ở một vài nơi trên
thế giới, trong khi dân số thế giới vẫn đang tiếp tục tăng làm cho nhu cầu nước càng
tăng. Sự nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ nguồn nước cho nhu cầu hệ sinh
thái chỉ mới được lên tiếng gần đây. Trong suốt thế kỷ 20, hơn một nửa các vùng đất
ngập nước trên thế giới đã bị biến mất cùng với các môi trường hỗ trợ có giá trị của
chúng. Các hệ sinh thái nước ngọt mang đậm tính đa dạng sinh học hiện đang suy
giảm nhanh hơn các hệ sinh thái biển và đất liền.
Để nâng cao hiệu suất sử dụng nước thì công trình đập hồ thuỷ điện là một trong
những thành tựu lớn của nhân loại trong việc quản lý tài nguyên nước đồng thời cung
cấp năng lượng cho con người. Với những ưu điểm vượt trội của mình, trong những
năm gần đây, thuỷ điện đã được phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu và tại Việt Nam nói
riêng. Với những vai trò và lợi ích cực kỳ quan trọng của mình, công trình đập hồ thuỷ
điện đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển của ngành năng lượng nói riêng và sự phát
triển của đất nước nói chung. Tuy nhiên, với sự phát triển tràn lan, xây dựng hàng loạt
các công trình thuỷ điện chạy theo lợi ích kinh tế đã làm tăng các nguy cơ, rủi ro đến
môi trường và con người từ các công trình thuỷ điện, đe doạ sự phát triển bền vững
của loài người. Mà hiện nay có có thể thấy một ví dụ nổi bật cho tác động tiêu cực của
thuỷ điện đó chính là thực trạng ở thuỷ điện Sông Tranh 2. Đây là một vấn đề vô cùng
nóng bỏng hiện nay, thu hút được sự quan tâm của nhiều thành phần xã hội và ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống người dân. Thuỷ điện Sông Tranh 2 như một tiếng chuông
cảnh báo cho hiện trạng mất an toàn ở hàng loạt các công trình hồ đập trên cả nước và
phát triển không bền vững thuỷ điện của nước nhà.
Nhằm tìm hiểu về quản lý tài nguyên nước bằng các công trình đập hồ thuỷ điện
để đề xuất các phương án quy hoạch khai thác, phát triển bền vững nguồn nướcvà thuỷ
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 2
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
điện một cách hợp lý, tôi đã chọn đề tài“Áp dụng các nguyên lý khoa học môi
trường vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (TĐ. Sông Tranh 2)” làm đề tài

tiểu luận môn học này.
1. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu về tài nguyên nước và vấn đề sử dụng nước hiện nay.
- Nghiên cứu về quản lý sử dụng tài nguyên nước bằng các công trình đập hồ thuỷ
điện cùng những ưu nhước điểm của nó.
- Phân tích các vấn đề môi trường nổi bật ở công trình thuỷ điện Sông Tranh 2.
- Từ đó đề xuất các biện pháp phát triển bền vững đối với đập hồ thuỷ điện nói
chung và thuỷ điện Sông Tranh 2 tại Quảng Nam nói riêng.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này là tài nguyên nước và quản lý tài
nguyên nước bằng công trình đập hồ thuỷ điện.
- Phạm vi nghiên cứu bao gồm các công trình đập hồ thuỷ điện nói chung và nghiên
cứu sâu vào công trình đập hồ cụ thể là thuỷ điện Sông Tranh 2.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập, nghiên cứu các thông tin và tài liệu về tài nguyên nước, công trình đập
hồ và thuỷ điện Sông Tranh 2.
- Tổng hợp và phân tích các tài liệu đã thu thập được.
- Sử dụng phần mềm Microsoft Office

HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 3
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC
1. Một số khái niệm về nước và tài nguyên nước
* Nước là một hợp chất hóa học của oxy và hidro, Phân tử
nước bao gồm hai nguyên tử hiđrô và một nguyên tử ôxy. Về
mặt hình học thì phân tử nước có góc liên kết là 104,45°. Do
các cặp điện tử tự do chiếm nhiều chỗ nên góc này sai lệch đi
so với góc lý tưởng của hình tứ diện. Chiều dài của liên kết O-
H là 96,84 picômét. Có công thức hóa học là H
2

O. Với các tính
chất lí hóa đặc biệt (ví dụ như tính lưỡng cực, liên kết hiđrô và
tính bất thường của khối lượng riêng) nước là một chất rất
quan trọng trong nhiều ng ành khoa học và trong đời sống. 70% diện tích của Trái Đất
được nước che phủ nhưng chỉ 0,3% tổng lượng nước trên Trái Đất nằm trong các
nguồn có thể khai thác dùng làm nước uống.
* Tài nguyên nước là các nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có thể sử dụng
vào những mục đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt động nông nghiệp,
công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các hoạt động trên đều cần
nước ngọt.
* Nước tự nhiên:
a) Tính chất vật lý
- Nhiệt độ: Nhiệt độ của nước thay đổi theo nhiệt độ của không khí, nhất là nước
mặt. Nhiệt độ nước mặt dao động từ 4 – 40
o
C, nước ngầm nhiệt độ tương đối ổn định
dao độngtừ 17 – 27
o
C.
- Độ đục: Độ đục do các chất lơ lửng ở trong nước như cát, sét, bùn và các hợp chất
hữu cơ có trong nước.
- Độ màu và mùi vị: Nước tự nhiên có thể có màu do chứa các chất vô cơ hay hữu
cơ ở dạng hợp chất hoà tan hay chất keo gây ra. Chẳng hạn như nước nước chứa nhiều
sắt có màu vàng nâu. Acid humic hay funvic làm cho nước có màu đen.
Nước có thể có mùi bùn, mùi mốc do các thực vật thối rữa gây
ra hay mùi thối do H
2
S và một số hợp chất hoà tan có thể làm cho nước có vị đặc biệt
mặn, chát, chua… Ví dụ nước chứa nhiều Magie có vị chát, chứa nhiều muối ăn có vị
mặn…

b) Thành phần hoá học
Các hợp chất vô cơ và hữu cơ trong nước tự nhiên có thể tồn tại ở dạng ion hoà tan,
khí hoà tan, dạng rắn và lỏng. Chính sự phân bố các hợp chất này quyết định tính chất
của nước tự nhiên: ngọt, mặn, cứng hoặc mềm, nghèo dinh dưỡng hay giàu dinh
dưỡng…
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 4
Hình 1: Mô hình phân
tử nước
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
- Các ion hoà tan: Nước tự nhiên là dung môi để hoà tan hầu hết các acid, bazơ và
muối vô cơ. Vì thế trong nước tự nhiên có các ion hoà tan như: Cl
-
, Na
+
, Mg
2+
, Ca
2+
,
K
+
, SO
4
2-
, Br
-
, Fe
2+
, Fe
3+

, HCO
3
-
,
- Các khí hoà tan:
+ Ôxy là loại khí ít hoà tan trong nước và không tác dụng với nước về mặt hoá
học. Oxy cần cho quá trình trao đổi chất. Độ hoà tan của oxy trong nước phụ thuộc
chủ yếu vào nhiệt độ, áp suất của môi trường…
+ Khí CO
2
chỉ chiếm 0,03% trong khí quyển nhưng đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong nước vì nó phản ứng với nước tạo thành bicacbonat (HCO
3
-
) và cacbonat (CO
3
-
).
Nồng độ khí CO
2
trong nước phụ thuộc vào độ pH.
+ Khí NH3 tồn tại trong nước có pH > 10. Trong môi trường trung tính và acid
chủ yếu ở dạng ion NH
4
+
.
+ Khí H
2
S tạo ra do quá trình phân huỷ các chất hữu cơ có ở trong nước.
- Các chất rắn:

Các chất rắn trong nước bao gồm các chất vô cơ, hữu cơ và vi sinh vật. Chúng có
thể phân thành các loại phụ thuộc vào kích thước như sau:
+ Chất rắn hoà tan có kích thước d < 10
-9
m.
+ Chất rắn dạng keo có kích thước d = 10
-9
− 10
-6
m.
+ Chất rắn dạng lơ lửng có kích thước d= 10
-6
− 10
-5
m.
+ Chất rắn có thể lắng có kích thước d > 10
-5
m.
- Các chất hữu cơ:
Trong nguồn nước tự nhiên, hàm lượng các chất hữu cơ rất thấp, ít có khả năng
gây trở ngại cho cấp nước sinh hoạt, thuỷ sản, thuỷ lợi. Nhưng nếu bị ô nhiễm do nước
thải sản xuất, sinh hoạt… thì nồng độ chất hữu cơ trong nước sẽ tăng.
Dựa vào khả năng bị phân huỷ do sinh vật trong nước, chất hữu cơ có thể phân
thành 2 loại: dễ bị phân huỷ sinh học như đường, chất béo, protein,… và khó bị phân
huỷ sinh học như ĐT, Lindan, aldrine, dioxin, naphtalen
c) Thành phần sinh học
Thành phần và mật độ các cơ thể sống trong nguồn nước phụ thuộc chặt chẽ vào
đặc điểm, thành phần hoá học của nguồn nước, chế độ thuỷ văn và địa hình nơi cư trú.
Các loại sinh vật tồn tại trong nguồn nước tự nhiên chủ yếu là vi khuẩn, nấm, siêu vi
trùng, tảo, nguyên sinh động vật, động vật đa bào, các loài động vật có xương sống,

các loại nhuyễn thể và các loại tôm cá hải sản.
Trong nước còn có các lợi thực vật lớn như rong, lục bình là các thực vật chỉ thị
đánh giá chất lượng nước tự nhiên.
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 5
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
2. Vòng tuần hoàn nước
- Nước trên Trái Đất luôn vận động và chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Chu trình nước là sự vận động của nước trên Trái Đất và trong khí quyển một cách tự
nhiên theo năm dạng cơ bản: mưa – dòng chảy – thấm – bốc hơi – ngưng tụ và thành
mưa.
- Vòng tuần hoàn nước đã và đang diễn ra từ hàng tỉ năm và tất cả cuộc sống trên
Trái Đất đều phụ thuộc nó. Chính quá trình này là nguyên nhân tạo ra nước ngọt. Trái
Đất chắc hẳn sẽ là một nơi không thể sống nếu không có nước.
Hình 2: Vòng tuần hoàn nước
Vòng tuần hoàn nước không có điểm bắt đầu nhưng chúng ta có thể bắt đầu từ các
đại dương. Mặt trời điều khiển vòng tuần hoàn nước bằng việc làm nóng nước trên
những đại dương, làm bốc hơi nước vào trong không khí. Hơi nước bốc lên bị ngưng
tụ thành mây. Những phân tử mây va chạm vào nhau, kết hợp với nhau, gia tăng kích
cỡ và rơi xuống thành giáng thủy (mưa). Giáng thuỷ dưới dạng tuyết được tích lại
thành những núi tuyết. Khi khí hậu ấm lên, tuyết tan và chảy thành dòng trên mặt đất,
đôi khi tạo thành lũ. Phần lớn lượng giáng thuỷ rơi trên các đại dương hoặc rơi trên
mặt đất và trở thành dòng chảy mặt. 90% giáng thuỷ trở lại biển. 1 phần dòng chảy
mặt, và nước thấm được tích luỹ và được trữ trong những hồ nước ngọt. Một lượng
lớn nước thấm xuống dưới đất. Trong đó một lượng nhỏ nước được giữ lại ở lớp đất
sát mặt và được thấm ngược trở lại vào nước mặt (và đại đương) dưới dạng dòng chảy
ngầm, một phần tạo ra các dòng suối nước ngọt. Nước ngầm tầng nông được rễ cây
hấp thụ rồi thoát hơi qua lá cây. Một lượng nước tiếp tục thấm vào lớp đất dưới sâu
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 6
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
hơn tạo ra nguồn nước ngầm nơi mà một lượng nước ngọt khổng lồ được trữ lại trong

một thời gian dài. Tuy nhiên, lượng nước này vẫn luân chuyển theo thời gian, có thể
quay trở lại đại dương, nơi mà vòng tuần hoàn nước “kết thúc”… và lại bắt đầu.
- Nước cứ tuần hoàn theo chu kì như vậy với tổng lưu lượng khoảng 1.386.000.000
km
3
, trong đó 97,2 % trên các đại dương, 2,2% trên các cực và 0,6% trên các lục địa.
Các đại dương chiếm khoảng 70% diện tích của Trái Đất và chứa khoảng
1.338.000.000 km
3
nước.
+ Lượng nước bốc hơi từ các đại dương: 450.000 km
3
/năm.
+ Lượng nước mưa rơi xuống các đại dương: 410.000 km
3
/năm.
+ Lượng nước chứa trong khí quyển: 13.000 km
3
/năm.
+ Lượng nước mưa rơi xuống các lục địa: 110.000 km
3
/năm.
+ Lượng nước bốc hơi từ các lục địa: 70.000 km
3
/năm.
+ Lượng nước thấm: 12.000 km
3
/năm.
+ Lượng nước chảy bề mặt: 28.000 km
3

/năm.
Bảng 1: Các chu kỳ tuần hoàn nước trong thuỷ quyển
Các yếu tố của thuỷ quyển
Thời gian chu kỳ
(năm)
Đại dương 3000
Tổng lượng nước ngầm 5000
Nước ngầm tham gia chu kỳ 330
Băng hà 8300
Hồ 10
Độ ẩm đất 1
Nước sông 0.032
Hơi nước khí quyển 0.027
3. Phân bố nước trên Trái Đất

Hình 3: Phân bố
nước trên Trái Đất
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 7
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
Trong 1.386 triệu km
3
tổng lượng nước trên Trái Đất thì trên 97% là nước mặn. Và
trong tổng lượng nước ngọt trên Trái Đất thì 68% là băng và sông băng, 30% là nước
ngầm, nguồn nước mặt như là nước trong các sông hồ chỉ chiếm khoảng 93.100 km
3
,
bằng 1/150 của 1% của tổng lượng nước trên Thế giới.
Bảng 2: Ước tính phân bố nước toàn cầu
Nguồn nước
Thể tích

nước
(km3)
Thể tích
nước (dặm
khối)
Phần trăm
của nước
ngọt
Phần trăm
của tổng
lượng nước
Đại dương, biển và
vịnh
1.338.000.000 321.000.000 96,5
Đỉnh núi băng, sông
băng và vùng tuyết
phủ vĩnh cửu
24.064.000 5.773.000 68,7 1,74
Nước ngầm 23.400.000 5.614.000 1,7
ngọt 10.530.000 2.526.000 30,1 0,76
mặn 12.870.000 3.088.000 0,94
Độ ẩm đất 16.500 3.959 0,05 0,001
Băng chìm và băng
tồn tại vĩnh cửu
300.000 71.970 0,86 0,022
Các hồ 176.400 42.320 0,013
Ngọt 91.000 21.830 0,26 0,007
Mặn 85.400 20.490 0,006
Khí quyển 12.900 3.095 0,04 0,001
Nước đầm lầy 11.470 2.752 0,03 0,0008

Sông 2.120 509 0,006 0,0002
Nước sinh học 1.120 269 0,003 0,0001
Tổng số 1.286.000.000 332.500.000 100%
4. Vai trò của nước
Cũng như không khí và ánh sáng, nước không thể thiếu được trong đời sống con
người. Trong quá trình hình thành sự sống trên Trái đất thì nước và môi trường nước
đóng vai trò quan trọng. Nước là tài nguyên vật liệu quan trọng nhất của loài người và
sinh vật trên trái đất. Con người mỗi ngày cần 250 lít nước cho sinh hoạt, 1.500 lít
nước cho hoạt động công nghiệp và 2.000 lít cho hoạt động nông nghiệp. Nước chiếm
99% trọng lượng sinh vật sống trong môi trường nước và 44% trọng lượng cơ thể con
người. Để sản xuất 1 tấn giấy cần 250 tấn nước, 1 tấn đạm cần 600 tấn nước và 1 tấn
chất bột cần 1.000 tấn nước.
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 8
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
- Nước có vai trò đặc biệt quan trọng với cơ thể, con người có thể nhịn ăn được vài
ngày, nhưng không thể nhịn uống nước. Nước chiếm khoảng 70% trọng lượng cơ thể,
65-75% trọng lượng cơ, 50% trọng lượng mỡ, 50% trọng lượng xương. Nước tồn tại ở
hai dạng: nước trong tế bào và nước ngoài tế bào. Nước ngoài tế bào có trong huyết
tương máu, dịch limpho, nước bọt… Huyết tương chiếm khoảng 20% lượng dịch
ngoài tế bào của cơ thể (3-4 lít).
- Nước tham gia vào hầu hết các quá trình chuyển hoá (đồng hoá, dị hoá) trong các
cơ thể sống. Nước tham gia vào vai trò tái sinh thế giới hữu cơ ( tham gia quá trình
quang hợp). Trong quá trình trao đổi chất nước đóng vai trò trung tâm. Những phản
ứng lý hóa học diễn ra với sự tham gia bắt buộc của nước. Nước là một dung môi, nhờ
đó tất cả các chất dinh dưỡng được đưa vào cơ thể, sau đó được chuyển vào máu dưới
dạng dung dịch nước.
- Trong khu dân cư, nước phục vụ cho mục đích sinh hoạt, nâng cao đời sống tinh
thần cho dân ( một ngôi nhà hiện đại không có nước khác nào một cơ thể không có
máu).
- Nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sản xuất công nghiệp: Lượng nước sử

dụng trong công nghiệp chiếm 3,8%.
- Đối với cây trồng nước là nhu cầu thiết yếu, đồng thời còn có vai trò điều tiết
các chế độ nhiệt, ánh sáng, chất dinh dưỡng, vi sinh vật, độ thoáng khí trong đất…
Lượng nước tưới tiêu chiếm 93,4% tổng lượng nước sử dụng.
- Ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống trên, nước còn là chất mang năng
lượng (hải triều, thuỷ năng), chất mang vật liệu và tác nhân điều hoà khí hậu, thực hiện
các chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Có thể nói sự sống của con người và
mọi sinh vật trên trái đất phụ thuộc vào nước.
5. Quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam
5.1. Tài nguyên nước ở Việt Nam
5.1.1. Tài nguyên nước mặt
- Về nước mặt, trung bình hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận được 1.944 mm nước
mưa, trong đó bốc hơi trở lại không trung 1.000 mm, còn lại 941 mm hình thành một
lượng nước mặt khoảng 310 tỷ m
3
. Tính bình quân, mỗi người dân Việt, có thể hứng
được một lượng nước bằng 3.870 m
3
mỗi năm; hoặc 10,6 m
3
tức 10.600 lít nước mỗi
ngày. Trong lúc tại các nước công nghiệp phát triển nhất, tổng nhu cầu về nước trong
một ngày bình quân theo đầu người, bao gồm cả nước sinh hoạt, nước cung cấp cho
nông nghiệp và công nghiệp cũng chỉ vào khoảng 7.400 lít/người.ngày; bao gồm 340
lít cho sinh hoạt, 2.540 lít cho nông nghiệp và 4.520 lít cho công nghiệp. Ở nước ta, tại
các đô thị lớn, lượng nước sinh hoạt cấp cho mỗi người/ngày hiện nay chỉ mới vào
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 9
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
khoảng 100 - 150 lít. Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là cung cấp cho nhân dân
nông thôn khoảng 70 lít/người.ngày vào năm 2010 và 140 lít/người.ngày vào năm

2020. Ở một số vùng đặc biệt khan hiếm nước vào mùa khô, như vùng Lục Khu thuộc
tỉnh Cao Bằng, mục tiêu phấn đấu hiện nay là cung cấp cho mỗi người, mỗi ngày 15 lít
nước. Chỉ riêng nguồn nước ngọt từ mưa tiềm năng đã vượt khá xa yêu cầu về cấp
nước.
- Ngoài nguồn nước mặt từ
mưa, Việt Nam hiện còn có
nguồn nước rất lớn do các con
sông xuyên biên giới đem từ
lãnh thổ các nước ngoài vào như
sông Hồng, sông Mã, sông Cả,
sông Mê Công. Lượng nước này
ước tính bằng 520 tỷ m
3
, gấp 1,7
lần lượng nước ngọt hình thành
trong nước. Một số sông xuyên
biên giới như sông Kỳ Cùng ở
Lạng Sơn, Bằng Giang ở Cao
Bằng, chuyển một lượng nước từ Việt Nam qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên
lượng này không đáng kể so với tổng lượng nước hình thành trên lãnh thổ Việt Nam .
Các phụ lưu của sông Mê Công, như Nậm Rốm, Sê Kông, Sê Băng Hiêng, Sê San, Srê
Pok chuyển một lượng nước khá lớn từ lãnh thổ Việt Nam vào các nước láng giềng
như Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Lào, Campuchia, nhưng rồi từ các nước
này lượng nước đó lại chảy trở lại vào Đồng bằng sông Cửu Long.
- Tổng hợp hai nguồn nước mặt: nguồn hình thành trên lãnh thổ quốc gia và nguồn
từ nước ngoài chảy vào, nói một cách khái quát, Việt Nam có tổng lượng nước mặt
trung bình năm bằng khoảng 847 tỷ m
3
. Trong đó phần hình thành trong nước là 340
tỷ, chiếm 40%; phần từ nước ngoài vào là 507 tỷ, chiếm 60%.

Tài nguyên nước nói trên tồn tại dưới những dạng thức khác nhau như sông, hồ,
kênh, rạch, đầm phá, vừa lưu
giữ, vận chuyển, chuyển hóa
nước, vừa tạo nên tài nguyên
đa dạng sinh học và nguồn
cảnh sắc thiên nhiên vô cùng
phong phú và đa dạng.
+ Về sông, nước ta có
2.360 con sông với chiều dài
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 10
Hình 4: Sông Hồng và vùng Đồng bằng Bắc Bộ
Hình 5: Kênh rạch sông Cửu Long với hàng dừa nước
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
từ 10 km trở lên và 26 phân lưu của các sông lớn. Trong đó, có 9 sông có lưu vực lớn
hơn 10.000 km
2
là sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kỳ Cùng - Bằng Giang, sông Mã,
sông Cả, sông Thu Bồn, sông Ba, sông Srê Pok - Sê San, sông Đồng Nai và sông Cửu
Long. Theo lưu vực và yêu cầu quản lý nguồn nước, có thể phân chia các sông Việt
Nam thành ba nhóm: nhóm thượng nguồn ở nước ngoài, hạ nguồn ở Việt Nam như
sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai; nhóm thượng nguồn ở Việt Nam, hạ
nguồn ở ngoài nước như sông Kỳ Cùng, sông Bằng Giang; nhóm có một số sông
nhánh thượng nguồn ở Việt Nam, trung nguồn ở nước ngoài và hạ nguồn sông chính ở
Việt Nam như sông Mê Công.
+ Nước ta có nhiều hồ tự nhiên như hồ Ba Bể ở Bắc Kạn với diện tích khoảng 5
km
2
; Hồ Tây ở Hà Nội: 4,5 km
2
; Biển Hồ ở Gia Lai: 8 km

2
; hồ Lắk ở Đắk Lắk: 10 km
2
.
Về hồ nhân tạo, có 750 hồ lớn và trung bình và hàng nghìn hồ nhỏ. Trong đó có 7 hồ
với dung tích trên 500 triệu m
3
: Hòa Bình 5.680 triệu m
3
; Trị An 2.547 triệu m
3
; Thác
Bà 2.160 triệu m
3
; Thác Mơ 1.311 triệu m
3
; Dầu Tiếng 1.111 triệu m
3
; Yaly 779 triệu
m
3
; Hàm Thuận - Đa Mi 535 triệu m
3
. Một số đập và hồ lớn hiện đang được xây dựng
và chuẩn bị xây dựng trên sông Đà, sông Gâm, sông Sê San, sông Đồng Nai.
+ Nước ta đã xây dựng khoảng 75 hệ thống thủy lợi vừa và lớn với diện tích tưới
tiêu của mỗi hệ thống từ 10.000 ha đến 200.000 ha, như các hệ thống: Bắc Hưng Hải,
sông Nhuệ, Thác Huống, Bắc Thái Bình, Đồng Cam, Ayun Hạ, Dầu Tiếng.
+ Ven biển có nhiều đầm, phá, bàu, trằm. Nổi tiếng là đầm phá Tam Giang - Cầu
Hai (Thừa Thiên - Huế), có diện tích bằng 216 km

2
mặt nước; Thị Nại (Bình Định), 45
km
2
; Trường Giang (Quảng Ngãi), 36,9 km
2
; Cù Mông (Phú Yên), 30,2 km
2
; Nước
Ngọt (Bình Định), 26,5 km
2
; Thủy Triều (Khánh Hòa), 25,5 km
2
; Ô Loan (Phú Yên),
18,0 km
2
; Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), 16,0 km
2
; Trà Ổ (Bình Định), 14,4 km
2
; Đầm
Nại (Ninh Thuận), 12,0 km
2
.
5.1.2. Tài nguyên nước ngầm
- Về nước ngầm, tiềm năng của nước ta cũng tương đối lớn. Tổng trữ lượng có tiềm
năng khai thác được trên cả nước của các tầng trữ nước trên toàn lãnh thổ, chưa kể
phần hải đảo, ước tính gần 2000 m
3
/s, tương ứng khoảng 60 tỷ m

3
/năm. Trữ lượng này
thay đổi nhiều theo các vùng: dồi dào nhất ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông
Cửu Long, Đông Nam Bộ; khá nhiều ở Tây Nguyên và ít hơn tại các vùng núi Tây
Bắc, Đông Bắc và duyên hải Bắc và Nam Trung Bộ.
- Trữ lượng ở giai đoạn tìm kiếm và thăm dò sơ bộ mới đạt khoảng 8 tỷ m
3
/năm, tức
khoảng 13% tổng trữ lượng. Theo kết quả điều tra, khảo sát và nghiên cứu đã có đến
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 11
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
năm 1999 thì trữ lượng nước ngầm thuộc loại có thể khai thác ngay với độ tin cậy cao
(cấp A) vào khoảng 736.205 m
3
/ngày; thuộc loại có thể khai thác với độ tin cậy khá
(cấp B) vào khoảng 939.625 m
3
/ngày; thuộc loại đã được dự báo là có khả năng khai
thác (cấp C1), 2.007.165 và (C2), 10.848.451 m
3
/ngày. Tổng lượng đã khai thác chỉ
mới vào khoảng 5% tổng trữ lượng. Trong các năm tới lượng khai thác có thể lên tới
khoảng 12 tỷ m
3
/năm. So sánh với thế giới trữ lượng nước ngầm của Việt Nam ở vào
mức trung bình.
Bảng 3: Trữ lượng nước ngầm đã được đánh giá ở các vùng khác nhau trên nước ta
(1995)
(Nguồn: Nguyễn Kim Ngọc, Nguyễn Thượng Hùng, 2003)
- Việt Nam cũng có tài nguyên nước nóng và nước khoáng phong phú, đa dạng về

loại hình. Tài nguyên này được đánh giá có chất lượng tốt, có khả năng và một phần
đã được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như: sản xuất nước khoáng đóng chai;
thủy lý trị liệu trong y học, khai thác khí CO
2
; khai thác năng lượng địa nhiệt. Theo số
liệu điều tra tới năm 1999, cả nước có khoảng 400 nguồn nước khoáng và nước nóng
đã được khảo sát, trong đó 287 nguồn đã được công nhận.
* Xét theo những số liệu như đã nêu trên có thể nói rằng Việt Nam là một quốc gia
tương đối giàu tài nguyên nước. Theo tài liệu của Viện Tài nguyên thế giới công bố
năm 2002 - 2003, thì hiện nay hàng năm lượng tài nguyên nước ngọt tái tạo được trên
mặt trái đất là 40.594 km3, trung bình cho mỗi đầu người là 6.538 m
3
. Trị số trung
bình tương ứng của nước ta là 11.189 m
3
, gấp 1,7 lần trung bình của thế giới. Tuy
nhiên với lượng nước này nước ta cũng chỉ thuộc vào loại tương đối phong phú về tài
nguyên nước ngọt trên đầu người. Các nước nhiều nước như Lào có tới 68.318
m
3
/người; Campuchia, 30.561 m
3
/người; Mianma 21.358 m
3
/người. Các quốc gia ít
nước như Trung Quốc chỉ có 2.185 m
3
/người, Hàn Quốc 1.471m
3
/người. Nhiều nước

nghèo tài nguyên nước chỉ có khoảng 500 m
3
, thậm chí 50 m
3
/người.năm.
Cũng như tại nhiều nơi khác trên thế giới, ở nước ta tài nguyên nước không chỉ có
giá trị về cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, mà còn là nguồn năng lượng sạch,
nguồn vật liệu của rất nhiều ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, cơ sở thiên nhiên
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 12
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
của các ngành thủy sản, giao thông, du lịch, giải trí, điều dưỡng, là nhân tố quan trọng
của sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái, quyết định chất lượng của cuộc sống
vật chất và tinh thần của con người.
5.2. Những khó khăn và thách thức trong việc quản lý tài nguyên nước ở Việt
Nam
5.2.1. 2/3 tổng lượng nước mặt của Việt Nam phụ thuộc vào nước ngoài
- Theo số liệu của Viện Khí Tượng Thuỷ Văn (2007):
Tổng lượng tài nguyên nước mặt của nước ta là 847 km
3
. Trong đó:
+ Dòng chảy từ ngoài vào là 507km
3
(chiếm 60%)
+ Dòng chảy nội địa là 340km
3
(40%).
- 60% tổng lượng dòng chảy nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam là từ các nước láng
giềng: Trung Quốc, Thái Lan, Mianma, Lào và Campuchia chảy vào. Các nước này
đều đang ở trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển nông
nghiệp, dịch vụ một cách nhanh chóng. Quá trình phát triển này, dù bằng cách nào

cũng sẽ đặt ra cho các nước nói trên yêu cầu tận dụng hợp lý tài nguyên nước sản sinh
trên lãnh thổ của họ. Chế độ thủy văn của các dòng sông xuyên biên giới chảy vào
nước ta sẽ thay đổi. Dòng chảy nước sẽ được điều tiết theo những chiều hướng có khi
không phù hợp với yêu cầu kinh tế và sinh thái của ta. Khối lượng nước cần cho sinh
hoạt, canh tác, đẩy mặn, giao thông thủy vào mùa khô có thể sẽ không còn như trước.
Chất lượng nước của một số dòng sông sau khi đã tiếp nhận xả thải từ nhiều đô thị,
khu dân cư, khu nông nghiệp trên các vùng thượng lưu sẽ không thể còn độ trong sạch
như hiện nay.
- Lấy sông Mê Công làm thí dụ. Mê Công là một con sông xuyên biên giới quan
trọng ở châu Á có tiềm năng rất lớn về các dạng tài nguyên nước. Từ những năm cuối
thập kỷ 50 của thế kỷ XX đã được các nước trong lưu vực và các tổ chức quốc tế hết
sức quan tâm việc quản lý hợp lý tài nguyên nước cùng các tài nguyên thiên nhiên liên
quan khác và các hoạt động phát triển trên lưu vực. Việc hợp tác quản lý dòng sông
quan trọng này được thực hiện trong khuôn khổ tổ chức hợp tác quốc tế về phần hạ lưu
sông Mê Công, cụ thể là của Ủy ban quốc tế về hạ lưu sông Mê Công trước từ năm
1957 đến năm 1975, Ủy ban lâm thời hạ lưu sông Mê Công từ năm 1975 đến năm
1995 và Ủy ban sông Mê Công (Mekong River Commission, MRC) hiện nay. Qua
nhiều đổi thay của lịch sử, thành viên của các Ủy ban này là Thái Lan, Lào,
Campuchia và Việt Nam . Địa phận quản lý của các Ủy ban chỉ là phần "hạ lưu" sông
Mê Công. Trung Quốc và Mianma không phải là thành viên chính thức của Ủy ban và
chỉ tham gia một cách không chính thức vào một số cuộc họp của Ủy ban. Với đặc
điểm như trên, sông Mê Công là một dòng sông liên quốc gia. Theo thỏa thuận đã có
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 13
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
giữa bốn quốc gia thuộc phần hạ lưu lưu vực sông Mê Công là Thái Lan, Lào,
Campuchia và Việt Nam, không nước nào được xây dựng công trình trên dòng sông
chính, việc xây dựng các công trình quan trọng trên các sông nhánh lớn cũng cần
thông báo và tham khảo ý kiến của nhau.
Cho tới nay, ở phần hạ lưu trên dòng sông chính không có công trình nào, nhưng ở
phần thượng lưu thuộc địa phận lãnh thổ Trung Quốc, một loạt công trình thủy điện,

với đập cao, hồ chứa lớn đã được hoàn thành, vận hành phát điện, điều tiết nước, hoặc
đang được xây dựng và chuẩn bị xây dựng. Thủy điện Manwan, công suất lắp máy
1.500MW, đập cao 126m, đã hoàn thành và phát điện năm 1996 là một thí dụ. Trên
các sông nhánh, Thái Lan, Lào và ở nước ta cũng đã và đang xây dựng nhiều công
trình phục vụ thủy điện và cấp nước cho nông nghiệp.
- Vì vậy, nhìn một cách lâu dài, không thể khẳng định là nước ta sẽ luôn luôn có tài
nguyên nước phong phú với tổng lượng là 847 tỷ m
3
/năm, hay 10.375 m
3
/người.năm.
Phần chắc chắn là phải dựa chủ yếu vào lượng nước hình thành trên lãnh thổ là 340 tỷ
m
3
/năm. Lượng nước có thể có trên đầu người sẽ phải tính theo dân số ổn định xung
quanh 100 triệu người.
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 14
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
5.2.2. Tài nguyên nước phân bố rất không đồng đều theo không gian và thời gian
- Lượng mưa, nhân tố chủ yếu hình thành tài nguyên nước trên lãnh thổ nước ta,
phân bố rất không đều theo không gian và thời gian. Bình quân toàn lãnh thổ lượng
mưa năm là 1.944 mm. Tuy nhiên, lượng mưa này phân bố rất không đều theo không
gian. Có những nơi lượng mưa này đạt 8.000 mm/năm như ở Bạch Mã thuộc Thừa
Thiên - Huế; 5.000 mm/năm như ở Bắc Quang thuộc Hà Giang; Nam Châu Lĩnh thuộc
Quảng Ninh. Trong lúc có những nơi lại chỉ có 700 mm/năm như ở thị xã Phan Rang,
Ninh Thuận, thậm chí chỉ có 400 mm/năm như ở thị xã Phan Rí thuộc Bình Thuận.
Trong từng phạm vi lãnh thổ nhỏ hơn như tỉnh, huyện lượng mưa phân bố cũng rất
không đều. Trong năm 2002, nhiều tỉnh ở Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ và
Đồng bằng sông Cửu Long trong 3 - 4 tháng hầu như không có giọt mưa nào. Trong
năm 2003, nhiều tỉnh ở Tây Nguyên, duyên hải miền Trung đều có tình trạng không có

mưa suốt trong 3 tháng mùa hè .
- Tại tất cả các vùng trong nước, hàng năm lượng nước trong khoảng ba tháng mùa
lũ chiếm 75 - 85% tổng lượng nước trong năm. Cùng với đó là mùa khô kéo dài từ 5
đến 6 tháng. Trong mùa này, lượng dòng chảy trên rất nhiều con sông chỉ vào cỡ 15 -
20% tổng lượng dòng chảy năm.
- Lượng dòng chảy trong sông, tổng
hợp cả dòng chảy hình thành trong và
ngoài lãnh thổ, cũng phân bố rất
không đều. Lấy theo số liệu của "Hồ
sơ nguồn nước, 2002" thì suất dòng
chảy năm bình quân của cả nước ta là
2,642 triệu m
3
/km
2
.năm. Vùng Đông
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 15
Hình 6: Phân bố dung lượng nước hình thành ở trong và ngoài lãnh thổ Việt
Nam ở một số sông chính
Hình 7: Hạn hán ở miền Trung
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
Bắc với diện tích bằng 65.327 km
2
, có lượng dòng chảy năm bằng 15,4 tỷ m
3
/năm,
suất dòng chảy năm chỉ là 0,236 triệu m
3
/km
2

. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long với
diện tích bằng 39.706 km
2
có lượng dòng chảy năm bằng 507,9 tỷ m
3
/năm, suất dòng
chảy năm khoảng 12,79 m
3
/km
2
, gấp 54 lần suất dòng chảy của vùng Đông Bắc. Khác
biệt giữa các vùng khác cũng tương đối lớn.
- Trong bối cảnh chung cả nước như vậy, sự phân bố nước không đều theo không
gian và thời gian làm cho tình trạng thiếu nước về mùa khô và lũ lụt với lưu lượng lớn,
có sức tàn phá mạnh mẽ trở nên đặc biệt trầm trọng tại một số nơi. Tỷ lệ giữa lưu
lượng tối đa và lưu lượng tối thiểu của một số con sông lên tới 1.000, thậm chí 10.000
lần.
5.2.3. Chất lượng nước đang giảm sút ở nhiều nơi
Theo Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì tỷ lệ tiếp cận với nước
sạch của nhân dân Việt Nam đã tăng 13% trong giai đoạn 1998 - 2000. Việt Nam là
một trong những nước có tốc độ tăng nhanh nhất về tỷ lệ này trên thế giới. So sánh với
một số nơi trên thế giới thì nước sông ngòi phần thượng lưu và tại một số hồ lớn ở
Việt Nam còn tương đối sạch. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh của công nghiệp hóa,
đô thị hóa, gia tăng dân số ở nông thôn cũng như thành thị, chất lượng nước mặt cũng
như nước ngầm đã có những biểu hiện suy thoái khá nghiêm trọng.
- Mức độ ô nhiễm nước ở một số khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp
tập trung đã rất lớn. Thí dụ tại Cụm Công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí
Minh, ước tính mỗi ngày có khoảng hàng trăm nghìn m
3
nước thải công nghiệp từ các

nhà máy giấy, hóa chất, dệt nhuộm thải ra, tuy đã có những cố gắng khắc phục, nhưng
nước kênh Tham Lương vẫn còn mầu đen, mùi hôi thối, hàm lượng chất độc hại cao.Ở
thành phố Thái Nguyên nước thải từ các cơ sở luyện gang, thép, kim loại mầu, sản
xuất giấy, khai thác than chưa được xử lý vẫn đổ ra sông Cầu và chuyển về vùng hạ
lưu là nơi dân cư đông đúc sản xuất nông, công nghiệp phát triển. Hàng trăm làng
nghề về sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, dệt nhuộm, giấy với lượng nước thải hàng ngàn
m3/ngày không qua xử lý cũng góp phần gây ô nhiễm nguồn nước tại nhiều địa
phương ở đồng bằng và trung du.
- Ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và
nhiều đô thị lớn và vừa vẫn còn tình trạng
nước thải sinh hoạt, lẫn lộn với nước thải
công nghiệp không qua xử lý tập trung,
mà trực tiếp thải ra các sông, hồ, kênh,
mương lộ thiên đi qua các khu dân cư và
sản xuất. Nước thải từ phần lớn các bệnh
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 16
Hình 8: Ô nhiễm nước nghiêm trọng tại
TP.HCM
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
viện và cơ sở y tế cũng còn được thải chung vào hệ nước thải công cộng. Độ ô nhiễm
của phần lớn các vực nước tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
- Ô nhiễm nước ở nông thôn và các khu vực sản xuất nông nghiệp cũng rất nghiêm
trọng. Ở đây chưa có cơ sở hạ tầng tốt cho thoát nước thải, phần lớn chất thải của con
người và gia súc không được xử lý, bị rửa trôi theo dòng mặt, hoặc thấm xuống đất,
làm cho nguồn nước mặt cũng như nước ngầm bị ô nhiễm về mặt hữu cơ và vi sinh.
Môi trường nước nông thôn còn bị ô nhiễm do sử dụng không hợp lý và đúng quy
cách các hóa chất nông nghiệp, trong đó có không ít hóa chất độc hại. Tỷ lệ số hộ ở
nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh chỉ mới đạt khoảng 30 - 40%. Chỉ khoảng 28 -
30% số hộ có công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
5.2.4. Nhu cầu về nước đang tăng nhanh

- Ở nước ta với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển nông
nghiệp và nâng cao đời sống nhân dân ở nông thôn yêu cầu về nước đang tăng lên với
gia tốc. Theo tài liệu nghiên cứu về tài nguyên nước của Việt Nam do Viện Quy hoạch
thủy lợi hợp tác với Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á thực hiện năm
1996 thì năm 1990 lượng tài nguyên nước được sử dụng ở nước ta mới chỉ có 50 tỷ
m
3
/năm, chỉ mới bằng khoảng 6% tổng tài nguyên. Trong đó 92% được dùng cho nông
nghiệp, 5% cho công nghiệp và 4% cho cấp nước đô thị. Tài liệu này dự báo rằng
lượng nước sử dụng sẽ tăng lên tới khoảng 65 tỷ m
3
/năm vào năm 2000; 72 tỷ m
3
/năm
vào năm 2010 (tức tăng khoảng 11%); 80 tỷ m
3
/năm vào năm 2020 và 87 m
3
/năm vào
năm 2030. Tỷ lệ nước dùng cho nông nghiệp giảm xuống còn 75%, cho công nghiệp
tăng lên 16% và cho sinh hoạt là 9%.
- Những tài liệu nghiên cứu gần đây hơn đã đưa ra những yêu cầu cao hơn nhiều về
gia tăng dùng nước ở nước ta. So sánh với năm 2000 tổng lượng nước sử dụng trong
năm 2010 sẽ tăng 14%; năm 2020, 25% và năm 2030, 38%. Riêng cho nông nghiệp,
đến năm 2010, với diện tích tưới là 12 triệu ha, lượng nước cần dùng đã là 88,8 tỷ
m
3
/năm. Tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch hiện nay là 60%, dự kiến sẽ đạt 80%
năm 2005 và 95% năm 2010. Nhu cầu nước cho sinh hoạt đương nhiên phải tăng theo.
Với đà gia tăng được dự báo trên đây đến năm 2030 lượng nước sử dụng sẽ có thể lên

tới gần 90 tỷ m
3
/năm, tức bằng khoảng 11% tổng tài nguyên nước, hoặc 29% tài
nguyên nước hình thành trên lãnh thổ quốc gia.
5.2.5. Có nhiều thiên tai gắn liền với nước
- Lũ lụt là thiên tai phổ biến nhất và ác liệt nhất ở nước ta. Theo tài liệu ghi chép
của các cơ quan quản lý nước thì trong thế kỷ XIX, chỉ riêng ở Đồng bằng sông Hồng
đã có khoảng 30 năm lụt rất lớn, trong đó 26 năm vỡ đê tả ngạn sông Hồng, 18 năm đê
hữu ngạn bị vỡ. Mỗi lần vỡ đê có thể gây thiệt hại cho hàng chục vạn ha mùa màng,
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 17
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
cuốn trôi hàng ngàn làng xóm với hàng ngàn sinh mệnh người và gia súc, hủy hoại
nhiều công trình công ích, gây dịch bệnh trên nhiều vùng.
+ Trong thế kỷ XX, mặc dầu hệ thống đê điều đã được tu bổ, kiên cố hóa nhưng
do lũ lớn, đã có 23 năm có sự cố vỡ đê lớn gây tai họa và tổn thất nghiêm trọng. Trận
lũ vỡ đê năm 1971 trên Đồng bằng sông Hồng đã gây thiệt hại khoảng 7 triệu tấn thóc,
số dân bị ảnh hưởng lên tới 2,71 triệu người. Lũ do bão gây ra ở miền Trung từ năm
1992 đến năm 1999 đã làm chết 2.716 người, bị thương 1.655 người, gây thiệt hại kinh
tế trên 8.000 tỷ đồng Việt Nam. Mười năm gần đây, từ năm 1986 đến năm 2002, đã
lần lượt xảy ra 30 trận lũ đặc biệt lớn trên nhiều lưu vực sông trong cả nước.
+ Những trận lụt lớn này là hậu
quả của những trận mưa cực lớn.
Lượng mưa ngày lớn nhất trong nhiều
trường hợp lên tới 500 - 800mm.
Trong một số trường hợp đặc biệt lên
tới 1.422 mm/ngày (Huế), 1630
mm/ngày (Truồi), 1138,5 mm/ngày
(Tà Lương), 830,0 mm/ngày (Can
Lộc), 779,6 mm/ngày (Thác Muối),
788,4 mm/ngày (Đô Lương), 723,2

mm/ngày (Giác Vực), 716,4 mm/ngày
(Trà My), 722,0 mm/ngày (Phú Thọ), 731,5 mm/ngày (Đông Sơn), 758,0 mm/ngày
(Ngọc Lạc), 735,0 mm/ngày (Lang Chánh), 760,4 mm/ngày (Bàu Nước), 767,0
mm/ngày (Sơn Giang), 753,0 mm/ngày (A Lưới), 721,6 mm/ngày (Phú Ốc).
- Hạn hán cũng là thiên tai gây tác hại hết sức lớn, trên diện rộng cho sản xuất nông,
công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Vào mùa khô tất cả các vùng sinh thái trên
nước ta từ đồng bằng, trung du đến miền núi đều có thể bị hạn nặng.
+ Trong những năm gần đây ở Tây Nguyên đã liên tiếp có 6 năm bị hạn 1994,
1995, 1996, 1997, 1998 và 2003. Đặc biệt năm 1998 diện tích cây công nghiệp, cây ăn
quả bị hạn là 111.000ha, bị chết là 19.300 ha, riêng cà phê bị hạn là 74.400ha, bị chết
là 13.800ha và hơn 770.000 người thiếu nước sinh hoạt.
+ Tại vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao Bằng nhân dân địa phương cho biết trong các
năm 1978, 1998 mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tận tháng 5 năm sau, nước cho trồng
trọt và chăn nuôi cạn kiệt, nước ăn uống, sinh hoạt cho nhân dân vô cùng khan hiếm.
Nhân dân phải bỏ hết mọi việc để đi tìm nước, "cõng" nước về nhà phục vụ ăn uống
với mức tối thiểu. Nhiều hộ hàng ngày phải đi xa 4 - 8km, vượt núi cao, đèo sâu để
“cõng” nước, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu tối thiểu. Trong
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 18
Hình 9: Miền Tây mùa nước lũ
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, hàng trăm hộ dân vùng này đã phải rời bỏ
quê hương, di dân tự do vào Tây Nguyên để kiếm sống.
+ Tại các đô thị, thậm chí đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế và
một số thành phố duyên hải miền Trung về mùa khô cũng có nạn thiếu gay gắt nước
ăn uống sinh hoạt cho nhân dân, cũng như nước cho sản xuất công nghiệp.
5.3. Khủng hoảng nước tại Việt Nam và vấn đề quản lý hiệu quả tài nguyên nước
Qua phần trên, ta có thể thấy Việt Nam hiện đang phải đối mặt với cuộc khủng
hoảng nước trầm trọng gồm các vấn đề:
- Tăng nhu cầu sử dụng nước:
- Giảm nguồn cung cấp nước:

- Nước bị ô nhiễm.
Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi một nguồn nước mặt khá phong phú, nhưng đã và
đang đối mặt với những thách thức to lớn: Nguy cơ cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước dẫn
đến khan hiếm nước. Nguy cơ đó sẽ càng trầm trọng nếu không có các biện pháp quản
lý tốt.
* Một trong những vấn đề đáng lo ngại hiện nay là “suy giảm tài nguyên nước” mà
nguyên nhân chủ yếu là do “mất nước”. Nước ta có tiềm năng rất lớn về tài nguyên
nước (gần 900 km
3
/năm) nhưng thật tế mỗi năm chỉ sử dụng được khoảng 150 km
3
, tỷ
lệ thụ hưởng rất thấp (< 20%). Nguyên nhân là do sự phân bố nước không đều theo
không gian, thời gian và do địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn (ba phần tư diện tích
của Việt Nam là đất đồi núi) làm cho nước dễ dàng thất thoát ra Biển.
=> Cần phải quản lý tốt tài nguyên nước, giữ nước để tăng tỷ lệ nước được sử dụng.
- Để tránh nguy cơ thiếu nước, phải xét đến những lợi ích toàn cục, quản lý tổng hợp
tài nguyên nước. Các cấp ngành cần phối hợp đồng bộ trong điều tiết nguồn nước hợp
lý, không nên vì các lợi ích cục bộ trước mắt. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về bảo
vệ tài nguyên nước ở nước ta còn bộ lộc những hạn chế, cần phải được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với yêu cầu quản lý. Xây dựng các chương trình, kế hoạch hành
động quốc gia về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước nhằm phục vụ các yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước.
- Ông Lã Văn Chú, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu thuỷ văn và tài nguyên nước cho
rằng: Cần có các hồ chứa nước để điều hoà dòng chảy và tích luỹ nước hiệu quả. Chú
trọng việc trồng rừng nhằm lưu giữ nguồn nước trên thượng lưu. Bên cạnh đó, tăng
cường công tác tuyên truyền cho người dân sử dụng tiết kiệm nước. Bố trí thời vụ gieo
trồng hợp lý. Đồng thời có các giải pháp nâng cao chất lượng, bảo vệ nguồn nước sạch
không bị ô nhiễm, cạn kiệt.
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 19

Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
Hình 10: Xây dựng công trình đập hồ chứa để điều hoà dòng chảy

Chương 2: TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ THUỶ ĐIỆN
*Công trình đập hồ thuỷ điện là một trong những thành tựu lớn của nhân loại trong
việc quản lý tài nguyên nước đồng thời cung cấp năng lượng cho con người.
1. Giới thiệu đập hồ thuỷ điện
- Đập hồ thủy điện có thể được xem là một trong những phương pháp sản xuất điện
cổ xưa nhất: tận dụng dòng nước chuyển động để sản xuất điện. Đồng thời hồ thuỷ
điện còn có vai trò rất quan trọng là trữ nước, điều tiết, quản lý nguồn nước phục vụ
cho nhu cầu cuộc sống.
- Các thành phần của một công trình đập hồ thủy điện bao gồm:
1.Đập - hồ chứa
2.Cửa lấy nước
3.Bể lắng cát
4.Các đường dẫn nước
5.Đường ống áp lực
6.Tuốc-bin
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 20
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
7.Cửa xả đáy
8.Các tháp điều áp
9.Trạm biến áp -truyền tải
- Thuỷ điện là nguồn điện có được từ năng lượng nước. Đa số năng lượng thuỷ điện
có được từ thế năng của nước được tích tại các đập nước làm quay một tuốc bin nước
và máy phát điện. Kiểu ít được biết đến hơn là sử dụng năng lượng động lực của nước
hay các nguồn nước không bị tích bằng các đập nước như năng lượng thuỷ triều. Thuỷ
điện là nguồn năng lượng có thể hồi phục.
Năng lượng lấy được từ nước phụ thuộc không chỉ vào thể tích mà cả vào sự khác
biệt về độ cao giữa nguồn và dòng chảy ra. Sự khác biệt về độ cao được gọi là áp suất.

Lượng năng lượng tiềm tàng trong nước tỷ lệ với áp suất. Để có được áp suất cao nhất,
nước cung cấp cho một turbine nước có thể được cho chảy qua một ống lớn gọi là ống
dẫn nước có áp (penstock).
2. Hiện trạng và tiềm năng thuỷ điện trên thế giới và Việt Nam
2.1. Thế giới
* Hiện nay, tất cả các quốc gia trên thế giới ít hay nhiều đều sử dụng điện năng từ
thủy điện. Thủy điện là nguồn năng lượng dễ khai thác và không mấy tốn kém. Trên
thế giới hiện có 45.000 đập hồ thủy điện lớn. Thuỷ điện được coi là một nguồn năng
lượng không thể thiếu, góp phần vào công cuộc phát triển của mọi quốc gia trên thế
giới. Nhờ lợi thế có được, trong vòng 50 năm, cộng đồng quốc tế đã xây dựng trên 40
vạn đập, tạo hệ thống hồ chứa nước trên diện tích rộng hơn 400.000 km
2
. Đập thủy
điện lớn nhất hành tinh là Akasombo xây dựng trên sông Volta ở Gana, hình thành hồ
chứa nước rộng tới 4% diện tích của đất nước này.
- Có nhiều quốc gia phát triển đã khai thác hết nguồn thủy năng và có sản lượng
lớn, chẳng hạn như Na Uy (gần 99% sản lượng điện toàn quốc là thủy điện), Thụy Sĩ,
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 21
Hình 11: Các thành phần của công trình đập hồ thuỷ điện
Hình 12: Tuốc bin nước và máy
phát điện
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
Italia, Áo,… Một số nước phát triển khác như Hoa Kỳ, Canada, tuy đã có sản lượng
thủy điện lớn song do nguồn thủy năng còn dồi dào nên vẫn tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng thủy điện. Các nước đang phát triển ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ
Nhĩ Kỳ,… và ở Nam Mỹ như Brazil, Argentina, Venezuela,… đã và đang đạt những
kỷ lục thế giới về sản lượng cũng như về qui mô các nhà máy thủy điện. Chỉ có châu
Phi có tiềm năng dồi dào nhưng sản lượng thủy điện hiện rất nhỏ bé.
- Thời gian gần đây, mối quan ngại về những tác động tiêu cực hiện hữu cũng như
tiềm ẩn về xã hội và môi trường của các đập thủy điện đã được nhiều nhà khoa học

cũng như các nhà chức trách ở một số quốc gia lên tiếng và hành động. Hiện nay, một
số nước đã chấm dứt việc xây đập làm thủy điện, thậm chí có nơi còn chấp nhận tốn
tiền để phá bỏ như trường hợp của Mỹ, Nhật. Một nhà lãnh đạo Mỹ đã nhận ra cái giá
phải trả do tác động xấu của các đập thủy điện gây ra, không chỉ làm mất đi những hệ
sinh thái quan trọng mà còn mất nguồn sinh kế của nhiều cộng đồng dân cư. Dự kiến
đến năm 2020, các đập nước khổng lồ của Mỹ sẽ được phá bỏ để trả lại dòng sông như
nguyên trạng lịch sử của nó. Đây là dự án phá bỏ đập thủy điện lớn nhất thế giới với
tổng chi phí lên tới 450 triệu đô la Mỹ. Tại Nhật Bản, vào tháng 9/2009, chính quyền
của tân Thủ tướng Yukio Hatoyama đã ngừng ngay 48 trong số 56 Dự án xây đập thủy
điện, thủy lợi trên toàn nước Nhật. Trong số các dự án bị hủy bỏ, nổi bật nhất là Dự án
xây đập Yamba có chi phí dự kiến lên đến 5 tỷ đô la Mỹ và hiện đã hoàn tất 70%.

Bảng
4: 10 nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới (xếp loại theo công suất nhà máy)
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 22
Hình 13: Đập Tam Hiệp - “Vạn Lý Trường Thành” trên sông Dương Tử
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
* Theo Ủy ban Năng lượng Thế giới (WEC): Thủy điện cung cấp 19% nhu cầu năng
lượng toàn cầu và hiện vẫn chưa được khai thác hết, đặc biệt tại các quốc gia đang
phát triển. WEC dự báo, để khai thác được 2/3 tiềm năng còn lại của thủy điện, cần
xây dựng thêm 20.000 nhà máy thủy điện với tổng công suất lên tới 1400 kW và chi
phí 1500 tỉ USD.
2.2. Việt Nam
* Số liệu tổng hợp tại 51 địa phương của bộ
Xây dựng cho thấy, tính đến ngày 22/8/2012
cả nước có gần 7.000 công trình thủy lợi,
thủy điện, trong đó có: 30 công trình thủy
điện và 2 hồ thủy lợi có đập cao trên 30m; 61
công trình thủy điện có đập cao từ 15m đến
dưới 50m hoặc dung tích hồ trên 3 triệu m

3
;
479 công trình thủy lợi có đập cao từ 15m
đến dưới 50m hoặc có dung tích hồ chứa trên
3 triệu m
3
; và hơn 6.000 công trình thủy lợi,
thủy điện có đập cao dưới 15m và có dung
tích hồ chứa dưới 3 triệu m
3
. Đến nay, cả
nước đã xây dựng hơn 2.100 hồ chứa có dung
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 23
Hình 14: Hồ TĐ lớn nhất nước ta
– Hồ TĐ Hoà Bình
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
tích mỗi hồ từ 0,5 triệu m
3
trở lên với tổng dung tích trữ nước gần 41 tỷ m
3
. Hiện đang
xây dựng khoảng gần 240 hồ, tổng dung tích hơn 21 tỷ m
3
và trên 500 hồ đã có quy
hoạch sẽ được xây dựng trong vài năm tới với tổng dung tích gần 4 tỷ m
3

Bảng 5: Một số đập hồ thuỷ điện lớn của nước ta:
TT Tỉnh Tên hồ chứa Địa điểm (xã, huyện)
W trữ

10
6
(m
3
)
1 Hoà Bình TĐ. Hoà Bình Thị xã Hoà Bình 9450.0
2 Yên Bái TĐ. Thác Bà Hán Đà - Yên Bình 2940.0
3 Đồng Nai TĐ. Trị An Trị An - Vĩnh Cửu 2765.0
4 Bình Phước TĐ. Thác Mơ Phước Tín - Phước Long 1360.0
5 Gia Lai TĐ. YaLy Ia Mơ Nông - Chư Pah 1037.0
* Việt nam có khí hậu nhiệt đới, nóng, ẩm và mưa nhiều do vậy chúng ảnh hưởng rất
nhiều đến khối lượng và sự phân bổ nước. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng
2000 mm. Lượng mưa rơi nhiều nhất đạt tới 4000 - 5000 mm, nơi mưa thấp nhất cũng
đạt trên 1000 mm. Mùa mưa trong năm thường từ 3 - 5 tháng. Lượng mưa hầu hết tập
trung vào tháng 5 đến tháng 11, trong thời gian này lưu lượng dòng chảy năm đạt từ
70% đến 75%. Ở miền Bắc, miền Nam và Tây Nguyên, mùa mưa thường bắt đầu từ
tháng 5, 6 và kết thúc vào tháng 10, 11. Ở khu vực Đông Trường Sơn và vùng duyên
hải miền Trung mùa mưa bắt đầu chậm hơn 2, 3 tháng và vùng khu 4 cũ (từ Quy Nhơn
- Nghệ Tĩnh), mùa mưa bắt đầu chậm hơn 1, 2 tháng. Lượng mưa tập trung vào 3
tháng có mưa nhiều nhất, chiếm khoảng 70 - 80% tổng lượng mưa trong năm. Hệ
thống sông ngòi Việt Nam có mật độ cao. Việt Nam có 2360 con sông với chiều dài từ
10 km trở lên, trong đó có 9 hệ thống sông có diện tích lưu vực trên 10.000 km. Mật
độ sông suối trung bình trên toàn lãnh thổ là 0,6 km/km
2
. Hàng năm, mạng lưới sông
suối Việt Nam vận chuyển ra biển lượng nước 870 km
3
/năm, tương ứng với lưu lượng
dòng chảy bình quân khoảng 37.500 m
3

/s. Địa hình đồi núi và tài nguyên nước dồi dào
là tiềm năng lớn để phát triển thủy điện ở nước ta, đáp ứng nhu cầu điện năng cho việc
phát triển bền vững của đất nước.
+ Tổng kết các nghiên cứu về quy hoạch thủy điện ở nước ta cho thấy tổng trữ
năng lý thuyết của các con sông đựơc đánh giá đạt 300 tỷ kWh/năm, công suất lắp
máy đựợc đánh giá khoảng 34.647 MW.
+ Trữ năng kỹ thuật xác định khoảng 123 tỷ kWh. Tương đương với công suất
lắp máy khoảng 31.000 MW
+ Hiện nay các công trình thuỷ điện đã khai thác được khoảng 8.075 MW và
mới khai thác được trên 26% tiềm năng kỹ thuật
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 24
Tiểu luận: Áp dụng các NLKHMT vào vấn đề tài nguyên nước và thuỷ điện (Sông Tranh 2)
- Theo tài liệu quy hoạch các dòng sông do các công ty tư vấn xây dựng điện 1,2 đã
được phê duyệt và Quy hoạch thủy điện Quốc gia do hãng SWECO - STATKRAFT
lập cho 9 hệ thống sông chính (năm 2005), trữ năng kinh tế kỹ thuật của các hệ thống
sông chính theo thứ tự từ Bắc vào Nam như sau:
Bảng 6: Trữ năng kinh tế kỹ thuật của các hệ thống sông chính theo thứ tự từ Bắc vào
Nam
STT Tên sông
Công suất lắp
máy NLM
(MW)
Điện lượng TB hằng
năm (E0 năm)
(triệu kWh)
1 Sông Lô - Gâm – Chảy 1.089 4.025
2 Sông Đà 6.756 30.690
3 Sông Mã 1.087 4.000
4 Sông Cả 416 1.484
5 Sông Hương 284 1.315

6 Sông Vũ Gia – Thu Bồn 1.359 4.965
7 Sông Trà Khúc 135 625
8 Sông Ba 669 2.600
9 Sông Sê San 1.796 7.320
10 Sông Serepok 650 2.850
- Về thủy điện tích năng, hiện tại EVN đang phối hợp với tư vấn Nhật lập PFS (báo
cáo đầu tư) 2 dự án thủy điện tích năng, công suất mỗi dự án khoảng 1.000 MW tại
Phù Yên Đông (Sơn La) và tại Bắc ái (Ninh Thuận) để triển khai công tác chuẩn bị
đầu tư nhằm đưa 1 dự án vào vận hành năm 2018 - 2020, 1 dự án đưa vào vận hành
những năm 2020 - 2025.
- Trong quy hoạch đến năm 2025, Việt Nam vẫn phải tiếp tục xây dựng thêm các
nhà máy thủy điện mới để tăng gấp đôi sản lượng so với năm 2010. Như vậy, nếu
các nhà máy thủy điện đưa vào vận hành đúng tiến độ thì đến năm 2020 sẽ khai thác
hết khoảng 90% tiềm năng kinh tế kỹ thuật thủy điện.
3. Sơ lược về thuỷ điện Sông Tranh 2
* Vị trí địa lý:
- Thủy điện sông Tranh 2 là một tổ
hợp các công trình gồm hồ chứa nước,
đập thuỷ điện và nhà máy phát điện
được xây dựng trên thượng nguồn Sông
Tranh, một nhánh sông thượng lưu sông
Thu Bồn thuộc địa phận các xã: Trà
Đốc, Trà Bui, Trà Tân (huyện Bắc Trà
My) và Trà Dơn, Trà Leng, Trà Mai,
HVTH: Trần Nguyễn Cẩm Lai – QLMT K22 Trang 25
Hình 15: Đập thuỷ điện Sông Tranh 2

×