Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN Thực trạng đời sống kinh tế-xã hội của công nhânViệt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.44 KB, 19 trang )

Thực trạng đời sống kinh tế-xã hội của công nhân
Việt Nam hiện nay
Giai cấp công nhân Việt Nam đang bước vào thời đại mới, thời đại
toàn cầu hóa. Do đó phải thích nghi với môi trường mới để không bị tụt
hậu và tiếp tục con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Nhưng thực trạng của giai cấp công nhân hiện nay cho thấy rằng
nếu không có sự cải cách, thúc đẩy để phát triển thì giai cấp công nhân
Việt Nam vẫn chỉ là những con người nghèo khổ về kinh tế cũng như
nghèo nàng về kiến thức và chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ trở thành một
điều quá xa xôi. Sẽ không có xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ở nơi
nào nếu dân trí bị coi thường, sẽ không có dân giàu, nước mạnh nếu
nhà quản lý và những người trực tiếp xây dựng đất nước lại thiếu tinh
thần trách nhiệm, lòng nhiệt huyết cách mạng và sự đoàn kết giữa
những người cộng sản.
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và
phát triển cùng với quá trình phát triển của nên công nghiệp hiện đại
với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa
ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy
trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các
quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản
xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu
(với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những
sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì
thế, giai cấp công nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát
triển xã hội.
Có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai
cấp công nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành
chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ
những vấn đề cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách


mạng triệt để.
Là “giai cấp dân tộc” - vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân
tộc và chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình: đó là chủ nghĩa Mác-Lênin
phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân , đồng thời hệ tư
tưởng đó dẫn dắt quá trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp
công nhân ở Đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng Sản (Đảng Mác-
Lênin).
Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của
nó, đều có những đặc điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, giai cấp công
nhân mỗi nước đều là một bộ phận không thể tách rời giai cấp công
nhân trên toàn thế giới. Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin mới có quan điểm
đúng đắn về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới cùa giai cấp công nhân.
Từ những đặc điểm vốn có đó, giai cấp công nhân mới có ba tính chất
cơ bản là:
a) Tính tổ chức, kỷ luật cao.
b) Tính tiên phong (về phương thức sản xuất, về tư tưởng, về Đảng của
nó).
c) Tính triệt để cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất của thực dân Pháp. Sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền
thống đấu tranh chống ngoại xâm, trong điều kiện đất nước bị kẻ thù
xâm lược, khiến cho ý chí và động cơ cách mạng của giai cấp công nhân
Việt Nam được nâng lên gấp bội. Ngay từ khi ra đời, giai cấp công nhân
nước ta đã anh dũng, kiên cường đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Phong trào đấu tranh của công nhân từng bước trưởng thành, phát triển
từ tự phát đến tự giác và không ngừng lớn mạnh. Sự ra đời của Công
đoàn Việt Nam - tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất của giai cấp công
nhân Việt Nam - là kết quả tất yếu của quá trình phát triển phong trào

công nhân nước ta cùng với việc chuẩn bị các điều kiện lý luận, tư tưởng,
chính trị, tổ chức của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
Đại đa số xuất thân từ nông dân nghèo ra đô thị, vào các đồn điền,
xưởng máy nhỏ… làm thuê cho chủ tư sản xâm lược.
Chủ yếu sống bằng sức lao động, nguồn thu nhập chính là tiền công
và cũng có thể có cổ phần hay cổ phiếu.
Khi ra đời với trình độ khoa học kĩ thuật, tay nghề và mức sống còn
thấp, vì Việt Nam lúc đó chưa có nền công nghiệp hiện đại; chịu ảnh
hưởng nặng nề của sản xuất nhỏ, tiểu nông.
Có truyền thống lao động cần cù, yêu nước nồng nàn, gắn bó mật
thiết với dân tộc, nhất là nông dân và các tầng lớp lao động.
Sớm được giác ngộ cách mạng và thành lập Đảng tiên phong do Hồ
Chí Minh - Người đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và Đông
Dương - sáng lập và rèn luyện. Giai cấp công nhân sớm trở thành giai cấp
lãnh đạo cáhc mạng Việt Nam từ khi có Đảng của nó. Hơn 70 năm qua,
giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi to
lớn trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
(theo hanhchinh.com.vn)


Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay gồm những người lao động
chân tay và lao động trí óc, làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch
vụ công nghiệp thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay trong
khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài; là lực lượng sản
xuất cơ bản của đất nước.
Giai cấp công nhân Việt Nam là người đại biểu chân chính cho
lợi ích của dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh
đạo cách mạng Việt Nam mang lại độc lập tự do cho dân tộc, thống nhất
đất nước và xây dựng CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công
nhân cùng toàn thể dân tộc đã giành nhiều thắng lợi trong trong CM

DTDCND và CMXHCN
Trong, giai đoạn hiện nay, đội ngũ công nhân Việt Nam đang là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước; là
cơ sở xã hội chủ yếu nhất trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức,
nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt nam.
Xét về cơ cấu trình độ học vấn và chuyên môn, giai cấp công nhân
nước ta gồm: nhóm những người lao động có tính công nghiệp (chân tay,
thủ công), tại các công trường xây dựng, các doanh nghiệp, nông, lâm
trường và tại các hộ tiểu chủ sản xuất hàng hóa; nhóm công nhân công
nghiệp cơ khí, nhất là trong các ngành công nghiệp nặng; nhóm công
nhân công nghiệp tự động hóa hay lao động công nghệ cao, lao động trí
thức tại các doanh nghiệp được trang bị dây truyền tự động hóa và tại
các doanh nghiệp điện tử - tin học, nhất là tại các khu công nghệ cao.
Xét về cơ cấu thành phần kinh tế: giai cấp những người lao động công
nghiệp và có tính công nghiệp, lao động tại tất cả các thành phần kinh tế
và gồm các nhóm: công nhân trong các doanh nghiệp quốc doanh; công
nhân trong các doanh nghiệp cổ phần; công nhân ở các nông - lâm
trường nhận đất khoán; công nhân đồng thời là chủ kinh tế cá thể, tiểu
chủ trực tiếp sản xuất hàng hóa; công nhân làm thuê tại khu vực dân
doanh và có vốn đầu tư nước ngoài. Trong thời kỳ đổi mới, số lượng công
nhân ngoài quốc doanh tăng mạnh, còn số lượng công nhân khu vực quốc
doanh lại giảm.
Về tư tưởng, ý thức giai cấp: qua khảo sát tình hình công nhân tại Hà
Nội, phần lớn công nhân có nhận thức rằng, hiện nay trong xã hội có
nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhưng giai cấp công nhân có vai trò to lớn
trong sản xuất công nghiệp. Trong những năm qua, với sự cố gắng của
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, trên cả nước có hơn 6,0 triệu công
nhân được học tập 5 bài giáo dục chính trị cơ bản. Vì thế sự hiểu biết của
một bộ phận công nhân về chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được nâng lên một
bước. Theo số liệu điều tra trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội, có

23,1% công nhân được hỏi tự nhận là đã hiểu rõ về chủ nghĩa Mác-
Lênin; 71,3% chỉ hiểu khái quát và 5,6% chưa hiểu rõ. Mức độ hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng khá cao. Số công nhân tại các doanh nghiệp nhà
nước ở Hà Nội được hỏi, tự nhận hiểu rõ là 35,4%; chỉ hiểu khái quát là
59,5%; chưa hiểu rõ là 5,1%. Những số liệu đó chứng tỏ ý thức chính trị
của công nhân đã được bồi dưỡng và nâng cao một bước. Tuy nhiên, ý
thức giai cấp công nhân của công nhân ở Hà Nội và một số nơi khác lại
không cao. Chẳng hạn, khi tìm hiểu công nhân về việc có ý định hướng
nghiệp cho con theo nghề của mình không đã cho kết quả như sau: trên
toàn quốc 45,1% trả lời có; 54,9% trả lời không. Các tỷ lệ tương ứng ở
Hà Nội là 40% và 60%; ở thành phố Hồ Chí Minh là 44,5% và 55,5%; ở
Kiên Giang là 46,8% và 53,2%. Tỷ lệ trả lời không muốn cho con theo
nghề của mình là rất cao, nhất là ở Hà Nội. Kết quả này cho thấy ý thức
tự hào giai cấp của đa số công nhân đang còn những hạn chế nhất định,
mặc dù ý thức chính trị đã được nâng cao một bước.
Trong những năm gần đây, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với đô thị hóa đã thúc đẩy quá trình tập trung công nhân tại các khu
công nghiệp và đô thị. Việc tập trung công nhân, một mặt, sẽ thúc đẩy
nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật; mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi
để bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, ý thức giai cấp. Tuy thế, quá
trình này diễn biến không đơn giản do nhiều nguyên nhân như: trình độ
sản xuất công nghiệp, trình độ học vấn của công nhân nhập cư, mức độ
điều tiết quan hệ chủ - thợ theo pháp luật, v.v
Mức độ tập trung công nhân như vậy là không nhỏ. Song do trình độ sản
xuất công nghiệp của nước ta chưa cao, nên việc tập trung công nhân chủ
yếu theo các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động với trình độ
chuyên môn kỹ thuật thấp (dệt, may, da giày ), trình độ học vấn không
cao, về khách quan, đặt ra không ít vấn đề phức tạp trong việc bồi dưỡng,
nâng cao ý thức chính trị, ý thức giai cấp.
Sự phát triển của các cuộc đình công của công nhân, đặc biệt tại vùng

Đông Nam Bộ, trong những năm gần đây cho thấy, việc công nhân tự
khởi xướng, tổ chức các cuộc đình công phản ánh ý thức về lợi ích kinh tế
đã rất rõ nét. Đây là dấu hiệu cơ bản để phát triển ý thức chính trị, ý thức
giai cấp của những người lao động công nghiệp vốn xuất thân từ nhiều
giai tầng xã hội khác nhau, chủ yếu là nông dân. Các cuộc đình công của
công nhân cũng đặt ra yêu cầu phân định rõ nội hàm của khái niệm giai
cấp công nhân, để có định hướng chính sách phù hợp đối với lực lượng
sản xuất hàng đầu này của xã hội.(hanhchinh.com.vn)
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về tổ chức, giỏi về chuyên môn,
vững vàng về bản lĩnh chính trị, đủ sức làm chủ quá trình đổi mới, chủ
động và tích cực hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa là trách nhiệm của
toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Giai cấp công nhân Việt Nam chính
là nền tảng và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng. Xây dựng
giai cấp công nhân lớn mạnh trong điều kiện hiện nay về thực chất là góp
phần quan trọng vào quá trình xây dựng Đảng.
Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn
đề này, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội
ngũ giai cấp công nhân. Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam đã có bước
phát triển lớn mạnh, trưởng thành về chất và có những đóng góp to lớn
vào quá trình đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, giai cấp công
nhân nước ta đang phải đối mặt với không ít thách thức, những con số
khảo sát dưới đây thực sự là những vấn đề rất đáng để chúng ta suy
ngẫm.
1 - Chất lượng nguồn nhân lực - thách thức của quá trình phát triển.
Cùng với sự tăng trưởng nhanh của dòng vốn đầu tư nước ngoài và
xu thế phát triển của các doanh nghiệp trong nước, đội ngũ công nhân
nước ta đang bộc lộ dấu hiệu hụt hẫng và bất cập. Tình trạng thiếu hụt
lao động có tay nghề cao và các chức danh quản lý có trình độ đang là
hiện thực. Số liệu khảo sát tại tỉnh Đồng Nai cho thấy, 72,55% công nhân
lao động trong các doanh nghiệp có độ tuổi từ 18 - 35. Tuyệt đại bộ phận

đều là học sinh phổ thông và xuất thân từ nông thôn, trong đó lao động
phổ thông chiếm đến 43%; 27% có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của
công việc đang đảm nhận nhưng đại đa số chưa qua đào tạo và không có
bằng cấp. Số đã qua đào tạo có bằng cấp chỉ chiếm 30%, trong số đã
được đào tạo, tỷ lệ có tay nghề cao cũng rất ít[1]. Bậc 1- 3 chiếm tỷ lệ
66,51%, bậc 4 - 5 chiếm tỷ lệ 25,01%, bậc 6 và 7 chiếm chỉ có 6,88%.
Không cần phải cảnh báo, với tốc độ thu hút FDI và xu thế phát triển
như 2 năm gần đây (2006 - 2007), vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực có tay
nghề sẽ càng trở nên trầm trọng. Giai cấp công nhân nước ta không
những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời đại mà đang thực
sự bất cập với chính yêu cầu phát triển của bản thân sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
2 - Vấn đề ý thức giai cấp và phẩm chất chính trị của đội ngũ công
nhân.
Chúng ta không phủ định mặt tích cực và những đóng góp chung to
lớn của đội ngũ giai cấp công nhân nước ta, bởi họ là lực lượng đang vận
hành những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của
xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế,
nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới, nhiều công nhân lao động có biểu hiện phai nhạt về
chính trị, một bộ phận chỉ lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực
trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như
định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò vị trí của giai cấp công nhân
Khảo sát tại Đồng Nai cho thấy: 95% công nhân trả lời chỉ quan tâm
đến việc làm và thu nhập, có 40% công nhân được hỏi có quan tâm tới
vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa, 3,5% công nhân không trả lời. Tỷ lệ
công nhân là đảng viên rất thấp, năm 2003 là 7,69%, năm 2004 là 8,18%,
năm 2005 là 6,87%. Tổ chức đảng được đánh giá là hoạt động tốt chỉ
chiếm 35,7%, Công đoàn 45,5%, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh chỉ có 24,6%, Hội Cựu chiến binh 5,9%. Cũng theo số liệu khảo sát

tại 13 doanh nghiệp khác nhau với 5.400 công nhân, cho thấy chỉ có
38,2% công nhân thường xuyên được học tập các nghị quyết của Đảng.
Trong đó doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ 51,9%, doanh nghiệp liên
doanh 40%, công ty cổ phần 37,5%, công ty tư nhân 32,8%, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có 24,9%[2]. Bản thân công nhân
cũng không thường xuyên cập nhật thông tin. Khảo sát 100 công nhân
Công ty Giầy Thái Bình về WTO chỉ có 10% trả lời có nghe nói về WTO
nhưng không hiểu WTO là gì[3].
Rõ ràng, nếu bản thân người công nhân chưa giác ngộ về mục tiêu lý
tưởng, non yếu về bản lĩnh chính trị cộng với trách nhiệm của các cấp và
công tác đào tạo chăm lo như hiện nay, thì sẽ rất khó vượt qua được áp
lực của toàn cầu hóa và hội nhập.
3 - Cường độ lao động, việc làm, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần
đang xuất hiện nhiều vấn đề nghịch lý.
Nước ta hiện đang thuộc nhóm quốc gia có số lượng lao động thất
nghiệp cao, nhiều công nhân thiếu việc làm. Tuy thiếu việc làm nhưng
nhìn chung cường độ làm việc của công nhân tại các doanh nghiệp lại rất
căng. Hầu hết các doanh nghiệp đều tăng ca để bảo đảm kế hoạch và tăng
doanh thu. Điều đáng nói là Luật Lao động quy định công nhân làm việc
không quá 200h/người/năm, nhưng trong nhiều doanh nghiệp công nhân
đã phải làm việc bình quân tới 500 - 600h/người/năm[4].
Ở khía cạnh đời sống, tuy người công nhân vẫn đang chấp nhận được
với mức lương hiện nay, nhưng không phải lĩnh vực này không có vấn đề.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả
nước, thu nhập của khối cán bộ, công chức hành chính, giáo dục bình
quân 1.300.000đ/người/tháng; khối doanh nghiệp nhà nước
1.425.000đ/người/tháng; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1.400.000đ/người/tháng; khối văn phòng và công nhân kỹ thuật cao
4.000.000đ/người/tháng. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.150.000đ/người/tháng[5]. Ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa -

Vũng Tàu cũng có những số liệu không mấy cách biệt.
Không ít các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt siêu lợi
nhuận, nhưng công nhân Việt Nam vẫn chỉ nhận được những đồng lương
rất ít ỏi. Như vậy, nếu so với đóng góp chung và với cường độ lao động
hiện nay, cộng với sự tăng lên của giá cả và các loại dịch vụ, đời sống của
công nhân lao động trực tiếp sản xuất vẫn còn rất nhiều khó khăn.
Đời sống vật chất là như vậy, điều kiện làm việc về tinh thần còn đáng
lo ngại hơn thế nhiều. Phải khẳng định nhiều doanh nghiệp chưa thực sự
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân tương xứng với
quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Số lượng các
khu công nghiệp gia tăng rất nhanh, nhưng đến nay chỉ có khoảng 2%
công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất được thuê nhà ở do các
doanh nghiệp xây dựng. Tuyệt đại bộ phận còn lại phải tự lo thuê lấy nhà
ở trong những điều kiện chật chội, thiếu thốn, không đủ tiện nghi sinh
hoạt và điều kiện an sinh tối thiểu về văn hóa, thẩm mỹ và môi trường
sống. Còn ở tại các doanh nghiệp, điều kiện làm việc cũng không như
mong muốn. Do đa phần công nghệ thiết bị ở nước ta thuộc thế hệ cũ,
người lao động phải làm việc trong môi trường ô nhiễm như nóng, bụi,
tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn quy định. Điều kiện làm việc không
bảo đảm đã tác động xấu đến sức khỏe công nhân lao động, hậu quả là
bệnh nghề nghiệp gia tăng và diễn biến phức tạp. Tuổi nghề của người
công nhân đang có khuynh hướng rút ngắn đáng kể. Theo thống kê của
ngành bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh, mười tháng đầu năm 2006 có
58.000 người nộp đơn xin trợ cấp 1 lần để được nghỉ việc vì không đủ sức
khỏe làm việc đến lúc được hưởng chế độ hưu trí.
Ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có công trình và
những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa tối thiểu cho công nhân.
Theo một kết quả điều tra xã hội học tại Bình Dương có đến 71,8% công
nhân không hề đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7%
không đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu

lạc bộ, 91,8% không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt động
vui chơi giải trí, văn hóa tinh thần, 89% giải trí bằng ti-vi, 82,4% bằng
nghe đài, chỉ có 1,2% sử dụng In-tơ-nét. Nguyên nhân của tình hình trên
đều do công nhân không có đủ thời gian và bản thân các khu công nghiệp
cũng không có đủ cơ sở vật chất để đáp ứng.
Thực trạng trên đây đã dồn nén làm bùng nổ các cuộc đình công lan
rộng và rất khó kiểm soát như hiện nay. Nếu từ 1995 đến 2005 tất cả các
khu công nghiệp, khu chế xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh có 437 vụ
đình công (bình quân 40 vụ/năm), riêng 6 tháng đầu năm 2006 đã có 303
vụ. Có những vụ số lượng tham gia đến hàng nghìn người, nhiều vụ kéo
dài từ 1 - 2 ngày[6]. Xu hướng cho thấy các cuộc đình công tự phát ngày
càng gia tăng và lan rộng, tính chất gay gắt, phức tạp khó lường. Đình
công trở thành hiện tượng phổ biến ở tất cả các thành phần kinh tế, trong
đó doanh nghiệp nhà nước là 6,9%, doanh nghiệp tư nhân 30%, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao nhất 66,5%[7]. Nguyên
nhân của các cuộc đình công phần lớn đều xuất phát từ phía người sử
dụng lao động không thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật:
Không trả lương đúng bảng lương đã đăng ký, tự ý thay đổi định mức lao
động, sa thải công nhân vô cớ, hà khắc trong quản lý điều hành, điều kiện
lao động không bảo đảm vệ sinh tối thiểu, tiền phụ cấp độc hại thấp,
không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công nhân Đáng
nói hơn cả là tỷ lệ ký kết các hợp đồng lao động với công nhân rất thấp.
Nếu có ký chủ yếu cũng chỉ là các hợp đồng ngắn hạn. Hiện nay mới chỉ
có 21% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã
hội cho công nhân, 69% còn lại chưa được bảo đảm về những quyền lợi
tối thiểu[8].
4 - Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong phong trào công
nhân.
Cùng với sự nghiệp đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có sự
trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, chưa bao giờ chúng

ta có lực lượng công nhân đông đảo như hiện nay. Tính đến cuối năm
2005, tổng số công nhân lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế đã lên đến 11,3 triệu người. Trong đó doanh
nghiệp nhà nước là 1,84 triệu, công nhân trong các doanh nghiệp ngoài
nhà nước 2,95 triệu, tăng 6,86 lần; 1,3 triệu công nhân làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,3 lần; doanh nghiệp cá
thể 5,29 triệu, tăng 1,63 lần so với 1995[9].
Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm
70,9%, ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm
4,8%. Riêng các cơ sở kinh tế cá thể công nhân chủ yếu làm việc trong
các lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 66,67%; 33,33% còn lại làm
việc trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp[10].
Các số liệu trên đây cho thấy, đội ngũ và cơ cấu giai cấp công nhân
tăng nhanh, nhưng công tác phát triển đảng và vai trò của Công đoàn,
Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong công nhân chưa tương
xứng, thậm chí rất mờ nhạt.
Nói giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nhưng nhiều
công nhân chưa muốn vào Đảng. Công tác phát triển đảng trong công
nhân rất chậm, không có mục tiêu, kế hoạch và định hướng chiến lược cụ
thể. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp
tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng các tổ
chức đảng. Những nơi có tổ chức đảng thì lúng túng trong công tác tổ
chức và phương thức hoạt động, chất lượng đảng viên, hiệu quả hoạt
động của các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp loại hình này đa
phần là yếu kém.
Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong phong trào công
nhân cũng đang nổi lên nhiều vấn đề bức xúc. Đoàn, hội là lực lượng
xung kích và là trường học giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên
công nhân, nhưng nhiều năm qua, tổ chức đoàn, hội cũng chưa có bước
chuyển thích hợp. Hình thức tổ chức và tập hợp thanh niên công nhân

của đoàn, hội chưa thực sự hấp dẫn, chưa phù hợp với cuộc sống và nhu
cầu của tuổi trẻ trước những đổi thay phong phú, đa dạng của đời sống
thực tiễn. Nhiều cuộc đình công, bãi công tự phát liên tiếp diễn ra trong
các doanh nghiệp thời gian qua chưa thấy rõ vai trò của tổ chức Đoàn và
Hội Liên hiệp thanh niên công nhân. Nếu đoàn và hội không là người đi
tiên phong bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên, không là chỗ
dựa vững chắc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, là nơi gửi gắm tình
cảm, niềm tin, đoàn và hội sẽ không tập hợp và tổ chức được thanh niên.
Tổ chức công đoàn cũng đang đặt ra nhiều vấn đề. Theo báo cáo của
các nhà khoa học, từ năm 1995 - 2006 đã có 700 cuộc đình công diễn ra ở
các doanh nghiệp không có tổ chức công đoàn. Chúng ta không phủ định
thời gian qua tổ chức công đoàn đã làm được rất nhiều việc. Nhờ có các
tổ chức công đoàn đời sống và quyền lợi của công nhân được bảo đảm và
nâng lên rõ rệt. Nhưng phải thẳng thắn thừa nhận, hoạt động công đoàn
đang đứng trước những thách thức rất lớn, nhất là tổ chức công đoàn
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn 20 năm, gần như hoạt động
của các tổ chức công đoàn vẫn mang nặng đặc trưng chung của thời bao
cấp. Bệnh hình thức chủ nghĩa vẫn là phổ biến. Nhiều tổ chức công đoàn
chưa thực sự đứng về phía những người lao động, bởi cán bộ công đoàn
do doanh nghiệp trả lương, làm việc không chuyên trách dưới sự quản lý,
lãnh đạo trực tiếp của chủ doanh nghiệp. Các cuộc đình công, bãi công
thời gian qua, ngoài những nguyên nhân khách quan, còn có một nguyên
nhân thực tế khác, đó là sự yếu kém của các tổ chức công đoàn. Hàng loạt
các vấn đề bức xúc nảy sinh giữa giới chủ và công nhân không được các
tổ chức công đoàn phát hiện hòa giải kịp thời. Nhiều vụ việc công nhân bị
ngược đãi, trù dập không có nhiều tổ chức công đoàn lên tiếng bênh vực,
bảo vệ. Tổ chức công đoàn đang có dấu hiệu thoát ly khỏi phong trào
công nhân, không gắn và chưa thực sự đại diện cho lợi ích chính đáng của
công nhân. Chúng ta đang thực sự thiếu một cơ chế chính sách đủ tầm

cho hoạt động công đoàn. Đã đến lúc cần một cuộc cải biến thực sự mang
tính cách mạng trong hoạt động công đoàn, trong đó đặc biệt chú trọng
đến công tác đào tạo cán bộ công đoàn chuyên trách. Xem việc thành lập
tổ chức công đoàn là điều kiện bắt buộc đối với các nhà đầu tư, xây dựng
tổ chức công đoàn thực sự là tổ chức chính trị của giai cấp công nhân.
(theo tapchicongsan.org.vn)
Chất lượng cuộc sống của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đang
là một vấn đề đau đầu của các nhà quản lý. Người công nhân thường
sống tập trung quanh các khu nhà trọ tồi tàn quanh khu công nghiệp.
Mặc dù đã có một số khu công nghiệp xây chung cho công nhân nhưng
xem ra cũng chẳng đáp ứng được bao nhiêu nhu cầu cho công nhân, chưa
kể là những công trình kém chất lượng, bị rút ruột… Có an cư thì mới lạc
nghiệp, xem ra công nhân vẫn không thể an cư được.
Chỗ ở là một, kế đến là vật chất, thức ăn mà công nhân ăn hàng ngày.
Chúng ta vẫn thường thấy trên báo chí nhan nhản những tin công nhân
bị ngộ độc thức ăn tập thể hoặc chất lượng bữa ăn quá thấp so với thị
trường ngày nay. Ở nơi làm việc là vậy, khi tan ca, họ tụ tập ở những khu
chợ tự phát trước các khu công nghiệp mua những thức ăn đã ương và
không còn tươi… Liệu những thứ đó có đảm bảo sức khỏe để họ làm việc
lâu dài? Chắc chắn là không và chúng ta thấy hầu hết công nhân ở các
khu công nghiệp đều có thể trạng còi cọc, ốm yếu… Với thể trạng như
vậy thì không ai đảm bảo rằng họ sẽ có năng suất làm việc cao.
Sự đảm bảo an toàn cho công nhân vẫn không được chú ý, rất nhiều
những vụ hành hung công nhân mà ta đã thấy, những kẻ ấy vào tận
xưởng làm mà hành hung! Vậy bảo vệ của xí nghiệp ở đâu? An ninh tại
các khu nhà trọ của công nhân còn tệ hại hơn, dường như chính quyền
địa phương đang bỏ rơi theo kiểu “sống chết mặc bay” của người công
nhân – giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Có khi công nhân còn bị giới chủ, đặc biệt là những tên chủ người nước
ngoài thường hay có hành động hành hạ thân xác đối với người công

nhân thế nhưng công đoàn, công an, chính quyền dường như chẳng hay
ho gì việc này! Khiến những người công nhân sống như những “nô lệ”
của thế kỷ 21 mà đáng lẽ ra họ lại là giai cấp lãnh đạo đất nước!
Ăn không đủ no thì làm sao mà còn có thể nghĩ đến những chuyện to lớn
hơn, đặc biệt trong thời đại hiện nay, đồng tiền dường như là thứ mà
người ta bất chấp để đổi lấy. Với những đồng lương rẻ mạc được trả thì
liệu người công nhân có thể sống đủ? Không! Chắc chắn là vậy và họ suốt
ngày chỉ lo làm sao cho qua ngày là ổn rồi chứ không cần phải lo lắng gì
thêm, vậy khi nào mới giác ngộ được lý tưởng cách mạng, sứ mệnh lịch
sử của bản thân công nhân?
Cuộc sống của những người công nhân chẳng khác nào những cổ máy,
sáng làm việc cho đến chiều tan ca. Ai có gia đình thì về nhà nấu cơm, ăn
cơm rồi coi ti vi và ngủ rồi đến sáng lại bắt đầu một chu trình mới khép
kín hoàn toàn. Còn những ai chưa có gia đình thì sau khi tan ca lại tụm
năm tụi bảy hoặc cà-phê, hoặc nhậu nhẹt… và có khi để xảy ra những
chuyện đáng tiếc vì “nhàn cư vi bất thiện”. Mặc dù thời gian rảnh rỗi
đáng lẽ họ phải tranh thủ rèn luyện chính trị để vươn lên làm chủ cuộc
sống nhưng ai sẽ là người “đồng chí” sẵn sàng sát cánh ủng hộ và chiến
đấu cùng những người công nhân khốn khổ ấy?
Chưa kể hàng năm vào các dịp lễ tết thì họ lại kéo nhau về quê vui cùng
gia đình gây một sự xáo trộn trong xã hội, những chiếc vé mà họ mua đắt
hơn ngày thường trong khi với số tiền đó có lẽ họ đã làm cuộc sống tốt
hơn. Tiền tàu xe vô tình đã “hút” đi thu nhập của họ mà chưa kể khi đi
tàu xe họ còn bị đối xử như thế nào. Vào những quán cơm tù, bị nhồi
nhét ghế, gặp tai nạn… Tất cả điều đó đang xảy ra trước mắt họ nhưng
họ không có cách nào khác để giải quyết hay tại chúng ta không giúp họ?
Tại sao họ bị đối xử như vậy? Công nhân Việt Nam hiện nay với thành
phần xuất thân là phần lớn là những lao động phổ thông từ nông thôn lên
thành thị mà chưa qua đào tạo một cách bài bản để trở thành một người
công nhân theo đúng nghĩa của nó. Do thiếu kiến thức về xã hội cũng như

về giáo dục nên họ bị chén ép, lừa đảo, hiệu quả lao động không cao…
Tất cả đều do không có trình độ học vấn mà ra. Ở chính quyền địa
phương, nơi họ sinh sống đáng ra là nởi phải tạo cho họ việc làm hoặc
một lượng kiến thức đủ lớn để họ có thể tự kiếm sống nhưng thực tế thì đi
ngược lại. Mà ở nông thôn thì dường như rất ít việc để làm, do đó họ di
dân vào thành phố để làm công nhân với hy vọng sẽ thay đổi cuộc sống
hiện tại, nghĩa là sẽ đủ ăn hơn chứ không đói như ở quê nhà nhưng trớ
trêu thay hiện nay lại có tình trạng người ta từ thành thị quay trở lại
nông thôn vì… ở thành thị còn khó sống hơn!
Công đoàn là nơi mà công nhân được bảo vệ lợi ích, là vũ khí của giai cấp
công nhân chống lại sự bóc lột, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho công
nhân, vậy họ đã ở đâu khi công nhân đang cần họ? Hiện nay có cả những
công ty, xí nghiệp mà công đoàn còn chưa được thành lập gây nên bức
xúc chung cho mọi người. Vậy còn những nơi có công đoàn, họ làm gì để
bảo vệ công nhân? Được tiếng là vậy nhưng mấy nơi dám đứng ra đảm
bảo quyền lợi của công, vì họ cũng chỉ là “ăn cơm chúa, múa tối ngày”.
Đó là một sự thật trớ trêu mà ta chưa có cách giải quyết, cũng không ít
nơi công đoàn a dua theo giới chủ chèn ép công nhân, họ ăn chặn tiền trợ
cấp công nhân, họ không tạo điều kiện cho công nhân vui chơi giải trí, họ
không bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho công nhân… Đó là một sự
thật đáng buồn cho các công đoàn công nhân hiện nay.
Chính quyền địa phương và những người Đảng viên Cộng Sản, đại biểu
trung thành của giai cấp công nhân thì sao? Chính quyền địa phương
không quan tâm nhiều đến công nhân, đó là thực trạng chung vì có được
mấy nơi mà chính quyền phường, xã quan tâm sâu sát đến quần chúng
nói chung và công nhân nói riêng. Còn những người Đảng viên, họ đáng
ra phải là những người đồng cam cộng khổ với công nhân thì lại quay đi
làm ngơ trước thực trạng hiện tại. Đạo đức cách mạng của những nhà
quản lý còn thế thì làm sao những người công nhân không được may mắn
học hành đầy đủ có thể giác ngộ được sứ mệnh lịch sử của mình? Chính

quyền đã làm mất niềm tin của công nhân nói riêng và người dân nói
chung khi đã quá thờ ơ với những khó khăn mà công nhân đang phải
gánh chịu.
Giữa những người công nhân với nhau cũng không có tiếng nói chung, sự
đoàn kết của họ không thể trở thành một sự đại đoàn kết được nếu chính
quyền không tạo điều kiện cho họ giao lưu với nhau và có cuộc sống tinh
thần tốt hơn. Họ đến từ khắp mọi nơi và có thể bất đồng về văn hóa, tôn
giáo… nhưng không ai chỉ cho họ cách dung hòa các văn hóa đó, xóa bỏ
cái riêng và tìm đến cái chung để cùng nhau vui sống. Tất cả điều đó họ
phải tự tìm kiếm, tìm kiếm được thì không nói làm gì nhưng với những
người có trình độ thấp thì có lẽ họ sẽ rất khó khăn để tìm ra. Mà khi đã
bất đồng về văn hóa, phong tục hoặc tôn giáo thì đó sẽ là mối nguy ảnh
hưởng đến tình đoàn kết của công nhân trong khu công nghiệp nói riêng
cũng như sự đoàn kết dân tộc nói chung.
Tóm lại, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, giai cấp công nhân Việt Nam bộc lộ những bất cập như: trình độ
học vấn, chuyên môn nghề nghiệp thấp so với yêu cầu và mất cân đối
nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhâ ;
lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp
còn yếu; một bộ phận công nhân bị tha hóa về thái độ lao động, phẩm
chất giai cấp và lối sống. Hoạt động công đoàn trong điều kiện nền kinh
tế thị trường cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế; công tác tuyên truyền,
giáo dục trong công nhân, người lao động chậm được đổi mới nên hiệu
quả chưa cao; Công đoàn chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của mình
trong việc góp phần giải quyết những vấn đề chiến lược kinh tế - xã hội;
một số chính sách, pháp luật của Nhà Nước có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của người lao động còn bị vi phạm nghiêm trọng. Trong khi đó,
các thế lực thù địch câu kết với bọn phản động trong nước và quốc tế,
đang xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân, phủ nhận vị trí, vai trò và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt

Nam nói riêng. Chúng xuyên tạc bản chất cách mạng, phủ nhận vị trí, vai
trò, chức năng của Công đoàn Việt Nam.
Công nhân Việt Nam hiện nay với thành phần xuất thân là phần lớn là
những lao động phổ thông từ nông thôn lên thành thị mà chưa qua đào
tạo một cách bài bản để trở thành một người công nhân theo đúng nghĩa
của nó. Do thiếu kiến thức về xã hội cũng như về giáo dục nên họ bị chén
ép, lừa đảo, hiệu quả lao động không cao… Tất cả đều do không có trình
độ học vấn mà ra. Ở chính quyền địa phương, nơi họ sinh sống đáng ra là
nởi phải tạo cho họ việc làm hoặc một lượng kiến thức đủ lớn để họ có thể
tự kiếm sống nhưng thực tế thì đi ngược lại. Mà ở nông thôn thì dường
như rất ít việc để làm, do đó họ di dân vào thành phố để làm công nhân
với hy vọng sẽ thay đổi cuộc sống hiện tại, nghĩa là sẽ đủ ăn hơn chứ
không đói như ở quê nhà nhưng trớ trêu thay hiện nay lại có tình trạng
người ta từ thành thị quay trở lại nông thôn vì… ở thành thị còn khó
sống hơn!
Công đoàn là nơi mà công nhân được bảo vệ lợi ích, là vũ khí của giai cấp
công nhân chống lại sự bóc lột, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho công
nhân, vậy họ đã ở đâu khi công nhân đang cần họ? Hiện nay có cả những
công ty, xí nghiệp mà công đoàn còn chưa được thành lập gây nên bức
xúc chung cho mọi người. Vậy còn những nơi có công đoàn, họ làm gì để
bảo vệ công nhân? Được tiếng là vậy nhưng mấy nơi dám đứng ra đảm
bảo quyền lợi của công, vì họ cũng chỉ là “ăn cơm chúa, múa tối ngày”.
Đó là một sự thật trớ trêu mà ta chưa có cách giải quyết, cũng không ít
nơi công đoàn a dua theo giới chủ chèn ép công nhân, họ ăn chặn tiền trợ
cấp công nhân, họ không tạo điều kiện cho công nhân vui chơi giải trí, họ
không bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho công nhân… Đó là một sự
thật đáng buồn cho các công đoàn công nhân hiện nay.
Chính quyền địa phương và những người Đảng viên Cộng Sản, đại biểu
trung thành của giai cấp công nhân thì sao? Chính quyền địa phương
không quan tâm nhiều đến công nhân, đó là thực trạng chung vì có được

mấy nơi mà chính quyền phường, xã quan tâm sâu sát đến quần chúng
nói chung và công nhân nói riêng. Còn những người Đảng viên, họ đáng
ra phải là những người đồng cam cộng khổ với công nhân thì lại quay đi
làm ngơ trước thực trạng hiện tại. Đạo đức cách mạng của những nhà
quản lý còn thế thì làm sao những người công nhân không được may mắn
học hành đầy đủ có thể giác ngộ được sứ mệnh lịch sử của mình? Chính
quyền đã làm mất niềm tin của công nhân nói riêng và người dân nói
chung khi đã quá thờ ơ với những khó khăn mà công nhân đang phải
gánh chịu.
Giữa những người công nhân với nhau cũng không có tiếng nói chung, sự
đoàn kết của họ không thể trở thành một sự đại đoàn kết được nếu chính
quyền không tạo điều kiện cho họ giao lưu với nhau và có cuộc sống tinh
thần tốt hơn. Họ đến từ khắp mọi nơi và có thể bất đồng về văn hóa, tôn
giáo… nhưng không ai chỉ cho họ cách dung hòa các văn hóa đó, xóa bỏ
cái riêng và tìm đến cái chung để cùng nhau vui sống. Tất cả điều đó họ
phải tự tìm kiếm, tìm kiếm được thì không nói làm gì nhưng với những
người có trình độ thấp thì có lẽ họ sẽ rất khó khăn để tìm ra. Mà khi đã
bất đồng về văn hóa, phong tục hoặc tôn giáo thì đó sẽ là mối nguy ảnh
hưởng đến tình đoàn kết của công nhân trong khu công nghiệp nói riêng
cũng như sự đoàn kết dân tộc nói chung.
Tóm lại, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, giai cấp công nhân Việt Nam bộc lộ những bất cập như: trình độ
học vấn, chuyên môn nghề nghiệp thấp so với yêu cầu và mất cân đối
nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhâ ;
lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp
còn yếu; một bộ phận công nhân bị tha hóa về thái độ lao động, phẩm
chất giai cấp và lối sống. Hoạt động công đoàn trong điều kiện nền kinh
tế thị trường cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế; công tác tuyên truyền,
giáo dục trong công nhân, người lao động chậm được đổi mới nên hiệu
quả chưa cao; Công đoàn chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của mình

trong việc góp phần giải quyết những vấn đề chiến lược kinh tế - xã hội;
một số chính sách, pháp luật của Nhà Nước có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của người lao động còn bị vi phạm nghiêm trọng. Trong khi đó,
các thế lực thù địch câu kết với bọn phản động trong nước và quốc tế,
đang xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân, phủ nhận vị trí, vai trò và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt
Nam nói riêng. Chúng xuyên tạc bản chất cách mạng, phủ nhận vị trí, vai
trò, chức năng của Công đoàn Việt Nam.
Từ thực tiễn và các vấn đề nêu trên, xin có một số kiến nghị đề xuất.
Một là: Cần định hướng lại mục tiêu của giáo dục cho sát với yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có kế hoạch đào tạo nguồn
nhân lực thích ứng với mục tiêu phát triển cụ thể của từng giai đoạn.
Thực hiện nhất quán chủ trương xã hội hóa giáo dục, trong đó Nhà nước
và các tổ chức xã hội có nhiệm vụ đào tạo cơ bản ban đầu, các doanh
nghiệp trực tiếp sử dụng công nhân phải có trách nhiệm đào tạo nâng cao
tay nghề, cập nhật kiến thức chuyên môn, tiêu chuẩn hóa chức danh nghề
nghiệp trong mỗi doanh nghiệp.
Quan tâm đến đội ngũ giai cấp công nhân hiện nay là phải quan tâm
đến trình độ văn hóa, năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp và ý
thức chính trị của họ. Xây dựng giai cấp công nhân phải thể hiện trước
hết ở việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng cao tay nghề và trình độ
chuyên môn. Cần xem việc đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ
chuyên môn là một trong những chỉ tiêu pháp lệnh như mọi chỉ tiêu phát
triển kinh tế - xã hội khác. Một thế hệ công nhân mới giỏi về chuyên môn,
vững vàng về ý thức chính trị, tự họ sẽ vươn lên làm chủ và đủ sức đối
đầu với mọi thách thức. Nâng tầm trí tuệ, năng lực chuyên môn và ý thức
chính trị cho đội ngũ giai cấp công nhân, chính là nhân tố góp phần bảo
đảm sự ổn định chính trị, củng cố vững chắc cơ sở chính trị - xã hội của
Đảng trong thời kỳ mới.
Hai là: Phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần

chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào công nhân hiện
nay. Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi
lớn. Vì sao Đảng của giai cấp công nhân, Công đoàn của công nhân, Đoàn
Thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ công nhân, nhưng một bộ
phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng vào Đoàn, chưa hoàn toàn xem
công đoàn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy công tác xây dựng Đảng và
tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của
sự nghiệp đổi mới. Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan,
mặt khác bản thân các tổ chức đảng, công đoàn cũng bộc lộ những bất
cập yếu kém, tự thân không theo kịp yêu cầu của sự phát triển, nhưng
không có những chấn chỉnh kịp thời. Đã đến lúc không chỉ dừng lại ở
những chỉ thị nghị quyết mà nên có những văn bản pháp luật thể chế rõ
chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ thể. Đảng ta là Đảng cầm
quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên phải
được hình thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần kinh
tế nào. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức trên đây phải góp phần làm
cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Đời
sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác của người công nhân phải
được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và chấp hành nghiêm túc.
Ba là: Phải thực sự chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của công
nhân. Ký các hợp đồng lao động với công nhân phải được xem là tiêu
chuẩn bắt buộc đối với các chủ doanh nghiệp. Ngoài hợp đồng lao động
cần chú trọng thanh kiểm tra điều kiện làm việc và cường độ lao động,
không để và không cho phép chủ lao động ép công nhân làm việc vượt
quá mức về cường độ, thời gian làm việc. Vấn đề này cần phải sớm được
pháp luật quy định cụ thể. Quan tâm thích đáng đến đời sống tinh thần,
hình thành những tiêu chí có tính pháp quy về ăn ở, nơi vui chơi giải trí,
các tiện ích văn hóa công, chế độ nghỉ dưỡng, thưởng thức các chương
trình văn hóa nghệ thuật ở trong từng doanh nghiệp, ở mỗi cụm dân cư

và các khu công nghiệp tập trung. Khuyến khích động viên và khen
thưởng, cổ vũ mạnh mẽ các doanh nghiệp làm tốt, phê bình và xử lý thích
đáng các đơn vị cố tình không làm tốt, hoặc làm có tính chất đối phó,
chiếu lệ Sự thiếu thốn và nghèo nàn về đời sống văn hóa tinh thần sẽ
làm cho đại bộ phận lao động trẻ sống và làm việc trong môi trường
không có cảm hứng sáng tạo, tính tích cực xã hội không có điều kiện phát
huy, lao động chắc chắn sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn, thiệt thòi
trước hết cho chính các doanh nghiệp(tapchicongsan.org.vn)
Đảng, Nhà Nước tiếp tục quan tâm xây dựng giai cấp công nhân, coi
đây là công việc vừa khẩn trương, liên tục, vừa mang tính khoa học, tính
cách mạng cao. Sự quan tâm của Đảng đến công tác xây dựng giai cấp
công nhân không chỉ bằng nghị quyết, chủ trương, chính sách mà còn
bằng chính việc làm cụ thể của mỗi tổ chức đảng, của tất cả cán bộ, đảng
viên ở các cấp, các ngành. Nhà Nước bổ sung, hoàn thiện các chính sách
nhằm giải phóng, khuyến khích phát huy mọi tiềm năng, tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư
vào sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, giải quyết việc làm cho người lao
động. Chú trọng gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội,
phát triển kinh tế với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Quán triệt sâu sắc quan điểm coi đào tạo là quốc sách hàng đầu, trên
cơ sở đó, chú trọng đầu tư thỏa đáng cho công tác đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn lao động, đảm bảo cân đối giữa hệ thống đào tạo và hệ thống
kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng, khắc phục sự mất cân đối về cơ cấu lao
động hiện nay. Quan tâm đặc biệt đến xây dựng, hoàn thiện những chủ
trương, chính sách động viên, khuyến khích, chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần, tạo ra những triển vọng phát triển mới cho công nhân, người
lao động, để họ gắn bó và trung thành với giai cấp, với dân tộc, tự giác nỗ
lực vươn lên trong lao động, sản xuất, học tập, cống hiến ngày càng nhiều
sức lực, trí tuệ cho giai cấp, cho dân tộc.
Trong giai đoạn mới, việc đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với tổ chức công đoàn là yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng
nhằm một mặt, tạo điều kiện cho công đoàn thực hiện tốt các chức năng
của mình; mặt khác, thông qua tổ chức công đoàn vận động, tổ chức, tập
hợp công nhân, người lao động, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối
với giai cấp công nhân. Đảng tăng cường mối quan hệ máu thịt với công
nhân, thông qua phong trào công nhân để nâng cao sức chiến đấu của tổ
chức đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh, nâng cao
bản chất giai cấp công nhân và bản lĩnh chính trị cho đội ngũ đảng viên.
Đào tạo người công nhân có tay nghề cao thông qua các trường dạy nghề,
phải có công tác dân vận và tuyên truyền thật tốt để cho người dân của ta
– cha mẹ của những đứa con sau này sẽ trở thành công nhân xã hội chủ
nghĩa hiểu được lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Phải
đưa công nhân về đúng vị trí của nó và đưa nghề công nhân trở thành
một nghề cao quý mà xã hội phải kính trọng và công nhận, khi ấy thì
người ta mới muốn trở thành công nhân, mới có lòng nhiệt thành để xây
dựng đất nước vì không ai muốn mình bị xem thường mà là công nhận,
do vậy phải hiểu cả tâm lý người lao động.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ lợi ích người lao động, đặc biệt
là bảo vệ lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân Việt Nam là một điều
cần lưu ý để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thiết nghĩ phải có bộ luật để ưu đãi công nhân xã hội chủ nghĩa như
những ưu đãi cho thương bệnh bênh, như những người có công với cách
mạng… Cùng với “luật ưu đãi công nhân” là phải làm rõ nội hàm công
nhân là ai, người như thế nào, trình độ học vấn ra sao… Tất cả vì sự công
bằng xã hội, công nhân xã hội chủ nghĩa đích thực sẽ được chế độ xã hội
chủ nghĩa ưu đãi chứ không nên đánh đồng với các công nhân “ô hợp”
với trình độ chỉ là lao động phổ thông, điều này sẽ làm cho mọi người có
cách nhìn không chuẩn xác về giai cấp công nhân. Cần phải có sự phân
biệt rạch ròi giữa các loại công nhân với nhau để từ đó thực hiện chính
sách làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Điều này không những góp

phần đưa giai cấp công nhân Việt Nam đi lên mà còn góp phần hoàn
thiện công bằng xã hội như Nhà Nước vẫn đang thực hiện. Đây là một
vấn đề vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc phân loại, đánh giá
và nâng cao năng lực của công nhân, tuy khó khăn nhưng chúng ta buộc
phải thực hiện, đó là nhiệm vụ của những người Cộng Sản chân chính
phải thực hiện cho kỳ được.
Công tác làm nổi lên lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước lâu đời, tình
đoàn kết anh em, lòng căm thù kẻ bóc lột… Đó là những điều mà Nhà
Nước cũng như những người Đảng viên Cộng Sản phải thực hiện nhằm
thức tỉnh ý chí chiến đấu tự giác cho những người công nhân. Chúng ta
đành rằng trong thời đại hiện nay đồng tiền chi phối rất nhiều nhưng có
những thứ mà đồng tiền không thể lay động được là truyền thống yêu
nước và lòng căm thù giặc. Lênin đã nói: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thời gian của những cơn đau đẻ”-phải làm cho công nhân và những
người dân hiểu được ý nghĩa của câu nói này, nếu như làm cho giai cấp
công nhân nhận thức được điều đó thì có lẽ áp lực về mặt kinh tế (tiền
lương cho công nhân) sẽ được giảm tải phần nào. Lòng yêu nước thì đã rõ
nhưng lòng căm thù giặc là sao, thực ra nợ non sông vẫn chưa trả hết, dễ
nhận ra nhất là hậu quả chiến tranh làm cho nước ta nghèo nàng lạc hậu,
con người ta bị nhiễm độc… Điều này cũng như Nhật trước đây đã áp
dụng là xây dựng đồng hồ để tưởng nhớ nạn nhân bom nguyên tử ở 2
thành phố Hiroshima và Nagasaki, họ nhắc nhở rằng con cháu phải nhớ
món nợ này để đưa đất nước đi lên, ta cũng có thể làm như thế không chỉ
với người công nhân mà bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào cũng có
lòng căm thù giặc để biến lòng căm thù đó thành ý chí để ta vươn lên và
đây chắc chắn công việc của Nhà Nước và Đảng. Nếu như không có
những cách làm sáng tạo để thức tỉnh lòng yêu nước thì khó mà đưa đất
nước đi lên. Không những thế mà còn phải làm tăng tình đoàn kết với
công nhân quốc tế, ở đây ta đã có chính sách để xuất khẩu lao động, ta
vẫn có thể làm tốt hơn để xuất khẩu những người công nhân xã hội chủ

nghĩa, họ sẽ là những người có kiến thức được đi lao động ở nước ngoài 2
đến 4 năm để tiếp thu thành tựu và cách sử dụng công nghệ hiện đại rồi
quay trở lại đất nước với những gì được học để tiếp tục sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tất nhiên phải có cả những cán bộ
“nằm vùng” đi cùng, để rèn luyện ý chí chiến đấu và tư tưởng Cộng Sản,
tránh bị tha hóa đạo đức cách mạng và bị bọn phản động lợi dụng để
chống phá và đó sẽ là một câu chuyện dài mà với vô vàn thách thức mà
Đảng và Nhà Nước cần nghĩ đến.
Ngoài ra trong phần thực trạng cũng có nhắc đến sự khó khăn cho công
nhân về quê ăn tết và gây lãng phí cho xã hội một khoảng không nhỏ,
không những thế làm tình hình xã hội cũng trở nên phức tạp. Do vậy Nhà
Nước cũng phải quan tâm vấn đề này, không phải giảm giá vé xe hay
khuyến mãi trợ cấp gì, đó là những việc làm chắp vá gây lãng phí nhân
lực cũng như tiền của của Nhà Nước, chúng ta cần quy hoạch tốt hơn về
vấn đề công nhân từ nông thôn lên các thành phố. Ở đây ta có 3 vùng
kinh tế Bắc-Trung-Nam trong đó 2 vùng Bắc-Nam là phát triển tương đối
mạnh về các khu công nghiệp, thật ra cơ chế phân vùng để tuyển lao
động ở đây cũng như việc tuyển quân cho các quân đoàn. Họ thường lấy
quân trong vùng để tuyển chứ không lấy vùng khác. Đó là điều mà chúng
ta có thể áp dụng, chúng ta cũng tuyển lao động theo vùng, ở các tỉnh
miền Bắc thì công nhân phải đến các khu công nghiệp phía Bắc và miền
Nam thì xuống các khu công nghiệp phía Nam. Như vậy, khi lễ tết công
nhân có điều kiện về quê gần nhà, họ có thể ở cùng gia đình lâu hơn và
giá vé tàu xe cũng thấp hơn. Thiết nghĩ đây là việc chúng ta nên làm để
“tiết kiệm” giùm các tầng lớp lao động một khoảng không nhỏ. Nhưng
cũng chưa phải là toàn diện vì nếu toàn diện thì phải phát triển công
nghiệp ở khắp các tỉnh chứ không nên quá tập trung, đó là điều mà
chúng ta cần hướng đến để đến 2020 thì nước ta trở thành nước công
nghiệp và tỉnh nào cũng có khả năng công nghiệp tương đối với số lượng
công nhân tương đối và chất lượng cao.

Tóm lại, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là sự nghiệp cách
mạng lâu dài khó khăn và đầy thách thức. Chúng ta không thể nói giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân một khi giai cấp không
hoàn thành được những trọng trách và những nhiệm vụ kinh tế - xã hội
cụ thể do sự nghiệp đổi mới đang đặt ra. Vì thế phải bằng sự nhạy cảm và
bản lĩnh chính trị kiên định, Đảng ra sức phấn đấu làm cho giai cấp công
nhân, bằng lao động sáng tạo của mình, tạo ra sự giàu có và phát triển ổn
định cho đất nước. Chuẩn bị cho họ những điều kiện để thông qua những
đóng góp cống hiến của mình, giai cấp công nhân được xã hội trân trọng,
tôn vinh. Nhờ đó mà phát triển đội ngũ về số lượng, chất lượng và tổ
chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề
nghiệp, vươn lên trở thành giai cấp công nhân trí thức, lực lượng trụ cột
của Đảng và của toàn xã hội.

×