Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

BÀI TIỂU LUẬN QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ IMF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.88 KB, 40 trang )

Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ GIỮA
VN-IMF
1.1 Tổng quan về quỹ tiền tệ quốc tế:
Tiếng Anh: International Monetary Fund.
Viết tắt: IMF
* Đây là một tổ chức quốc tế phi chính phủ có uy tín lớn trên thế giới, hoạt động
công khai, minh bạch, có hiệu quả, tạo điều kiện tối đa cho các nước nghèo, các
nước chưa phát triển về mặt tài chính để các quốc gia xây dựng và phát triển đất
nước. Tổ chức này giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối
đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có
yêu cầu.
* Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của Hoa Kỳ
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Những mậu dịch thương mại và tài chính thế giới phát triển mạnh mẽ là nhờ
có một hệ thống tiền tệ quốc tế bảo đảm sự cân đối giữa giá trị của các đồng tiền
quốc gia. Tính cách có thể trao đổi của mỗi đồng tiền so với các đồng tiền khác là
yếu tố nền tảng của hệ thống tiền tệ quốc tế. Một đồng tiền quốc gia mà không có
yếu tố này sẽ chỉ có giá trị nội địa. Nhưng nếu muốn tham gia vào những trao đổi
kinh tế thế giới và để cho người dân có quyền tự do di chuyển ra nước ngoài với
một đồng tiền không có giá trị ngoại địa là đường lối chỉ đưa đến những bế tắc
kinh tế và là nguồn gốc gây ra những thị trường chợ đen, đắt đỏ và phức tạp cho
những doanh nghiệp hoặc người dân cần ngoại tệ trong tương quan với các nước
khác.
Nhóm 37-73 1
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Cho tới năm 1914, những thanh toán trong trao đổi thương mại và tài chính
giữa các cường quốc kinh tế dựa trên Hệ Thống Tiền Tệ Vàng mà tiêu biểu nhất là
hệ thống tiền tệ của Anh quốc. Ngân Hàng Quốc Gia Anh là ngân hàng trung ương
đầu tiên được thành lập vào cuối thế kỷ 17 với mục đích nhằm trao đổi những kim
khí quí như vàng hay bạc của dân lấy tiền đúc kim khí và tiền giấy. Nhờ tính tiên


lợi làm tiền giấy có giá trị và được dân Anh xử dụng trong những trao đổi thương
mại
Sau Thế Chiến Thứ Nhất (1918), cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới làm lung
chuyển Hệ Thống Tiền Tệ Vàng. Nhiều ngân hàng bị phá sản làm những người gửi
tiền tiết kiệm cũng mất hết. Tiền giấy không còn được tin tưởng thúc đẩy người
dân đổi tiền giấy ra vàng bạc. Từ đó mỗi nước tự quyết định giá trị tiền nước mình
theo chiều hướng mất giá để có thể cạnh tranh với các nước khác trên thị trường
quốc tế. Sự khủng hoảng tiền tệ càng làm khủng hoảng kinh tế thêm trầm trọng.
Các nước kỹ nghệ mạnh như Mỹ, Anh, Pháp. đã tìm nhiều cách lập ra một hệ
thống tiền tệ mới ít nhiều dựa trên yếu tố chính là vàng.
Mùa hè năm 1940, một sự trùng hợp kỳ lạ đã xảy ra. Hai tư tưởng độc đáo và táo
bạo của Harry Dester White – Người Mỹ và John Maynard Keynes – Người Anh
đã gần như đồng thời đưa ra dự thảo xây dựng một tổ chức tiền tệ quốc tế mà hành
động của nó được giám sát thường xuyên bởi một tổ chức hợp tác chứ không phải
bằng những cuộc gặp gỡ quốc tế thoảng hoặc. Tuy nhiên, phải sau nhiều lần
thương thuyết trong điều kiện khó khăn của thời chiến, cộng đồng quốc tế mới
chấp nhận một hệ thống tiền tệ mới và một tổ chức để giám sát nó. Những thương
thuyết cuối cùng về thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (viết tắt là IMF) đã diễn ra ở
Bretton Woods, NewHamsphire, Hoa kỳ vào tháng 7/1944 giữa 44 quốc gia. Bắt
Nhóm 37-73 2
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
đầu từ 1-3-1947 tổ chức IMF chính thức đi vào hoạt động như một cơ quan chuyên
môn của Liên Hợp Quốc (xem phụ lục 1). Khi đó IMF có 49 thành viên.
Trụ sở chính của IMF ở Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và Geneve.
Một nước có thể trở thành thành viên của IMF nếu nó sẵn sàng gắn bó, trung thành
với các chức năng và nguyên tắc chủ đạo của IMF (xem biểu đồ 1). Từ l945 đến
nay con số thành viên của IMF lên tới 187 Quốc gia (2008). Số lượng thành viên
tăng đều đặn, không có biến động chứng tỏ uy tín của IMF theo năm tháng là
không thay đổi và ngày càng được củng cố.
Theo nhận định chung thì IMF được coi là một tổ chức uy tín lớn có tính độc lập

cao và cho rằng Quỹ đề ra những chính sách kinh tế tối ưu cho các nước thành viên
theo đuổi và áp đặt các quyết định cho các nước thành viên và sau đó giám sát việc
thực hiện. Nhưng trái lại, chính các nước thành viên đã định ra các chính sách mà
IMF phải thực hiện. Các mệnh lệnh đi từ Chính phủ các nước thành viên đến IMF
mà không có lệnh ngược lại. Khi đưa ra các quy định về nghĩa vụ của từng thành
viên đối với Quỹ hoặc đưa ra những điều mục của hợp đổng cho vay với một thành
viên nào đó, IMF không tự hành động mà chỉ đóng vai trò trung gian giữa ý kiến
đại đa số thành viên của quỹ đối với các nước thành viên đó.
1.1.2Mục đích:
- Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm
cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc
tế.
- Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ
đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế
và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu
quan trọng nhất của chính sách kinh tế.
Nhóm 37-73 3
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
- Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao
dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh.
- Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành
viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của
mậu dịch quốc tế.
- Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự
trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong
cán cân thanh toán quốc tế.
- Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các
nước thành viên.
- Trong hơn 50 năm qua IF đã khẳng định được vai trò cũng như thực hiện mục
tiêu của mình trong việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới

trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên quy mô ngày càng rộng với
tốc độ ngày càng nhanh.
1.1.3 Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban Giám đốc Điều hành,
Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ.
- Hội đồng Thống đốc: Bộ phận ra quyết định cao nhất tại IMF. Hội đồng Thống
đốc báo gồm các Thống đốc (thường là Thống đốc Ngân hàng Trung ương hoặc
Bộ trưởng Tài chính) và một Thống đốc phụ khuyết do từng nước hội viên IMF bổ
nhiệm. Hội đồng thống đốc có một số các quyền hạn cụ thể, chẳng hạn như kết nạp
hội viên mới, quyết định cổ phần, và phân bổ đồng SDR cũng như các quyền hạn
khác không phân cấp cho Ban Giám đốc Điều hành hoặc Tổng Giám đốc. Hội
Nhóm 37-73 4
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
đồng Thống đốc IMF họp Hội nghị thường niên kết hợp với Hội nghị thường niên
của Hội đồng Thống đốc Ngân hàng Thế giới.
- Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế: Trước đây gọi là Ủy ban Lâm thời, do Hội
đồng Thống đốc IMF thành lập vào tháng 10/1974 với chức năng là để tư vấn cho
các Thống đốc về các vấn đề tiền tệ quốc tế. Mỗi thành viên trong số 24 thành viên
của Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế cũng là Thống đốc tại IMF, một Bộ trưởng
hay một quan chức có chức vụ tương đương.
- Ban Giám đốc Điều hành: gồm 1 Tổng Giám đốc điều hành và 24 Giám đốc điều
hành, trong đó 5 Giám đốc điều hành đại diện cho 5 nước có cổ phần lớn nhất tại
Quỹ (Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp) và 19 Giám đốc điều hành đại diện cho các nhóm
nước có đặc điểm giống nhau về kinh tế địa lý, văn hóa, trừ Nga và Trung quốc có
Giám đốc điều hành riêng.
- Tổng Giám đốc: do Ban Giám đốc Điều hành lựa chọn, với nhiệm kỳ đầu tiên là
5 năm. Tổng Giám đốc tham gia vào các buổi họp của Hội đồng Thống đốc, Ủy
ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế và Ủy ban Phát triển. Ngoài ra, Tổng Giám đốc còn
phụ trách các cán bộ IMF. Mỗi Phó Tổng Giám đốc, phụ trách một bộ phận dưới
sự chỉ đạo của Tổng Giám đốc, có nhiệm vụ chủ trì các buổi họp của Ban Giám

đốc Điều hành và duy trì các mối liên hệ với các quan chức chính phủ của nước hội
viên, với các Giám đốc Điều hành, với các cơ quan thông tin và các tổ chức khác.
- Cán bộ Quỹ: có khoảng 2700 cán bộ từ hơn 191 nước, được tổ chức thành 5 Vụ
khu vực (Vụ Châu Phi, Vụ Châu Âu, Vụ Trung đông và Trung Á, Vụ Châu Á Thái
Bình Dương và Vụ Tây Bán cầu); 9 Vụ chức năng và nghiệp vụ đặc biệt (Vụ Tài
chính, Vụ Các vấn đề ngân sách, Học viện IMF (bao gồm các học viện tại
Washington D.C, học viện Viên, học viện Châu Phi và học viện Singapore), Vụ
Nhóm 37-73 5
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Các Thị trường vốn quốc tế, Vụ Pháp luật, Vụ các Hệ thống Tài chính Tiền tệ, Vụ
Xây dựng và Kiểm điểm Chính sách, Vụ Nghiên cứu, Vụ Thống kê); 3 Vụ về
thông tin liên lạc (Vụ Đối ngoại, Văn phòng thông tin liên lạc khu vực Châu Á
Thái Bình Dương, Văn phòng Quỹ tại Liên Hợp Quốc); 3 Bộ phận giúp việc (Vụ
thư ký, Vụ Nguồn nhân lực, và Vụ Dịch vụ Tổng hợp và Công nghệ).
Ngoài ra, IMF có hơn 60 Văn phòng đại diện tại nhiều nước thế giới có trách
nhiệm báo cáo cho các Vụ khu vực tương ứng.
- Các nước thành viên IMF
Ngày 27 tháng 12 năm 1945,điều lệ thành lập IMF đã được 44 nước ký kết(trong
đó có Mỹ và Liên Xô cũ)ngày 1 tháng 3 năm 1947,IMF bắt đầu hoạt động và tiến
hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8 tháng 5 năm 1947.
Hiện nay,IMF có 187 thành viên(2008),nhiều hơn 6 lần so với số thành viên khi nó
vừa thành lập,Cộng Hòa Đong Timor là nước mới được chấp nhận là thành viên
của IMF,điển hình là một số nước như:
-Mỹ : cổ phần lớn nhất 17,46 %
- Đức :cổ phần 6,11 %
-Nhật : hội viên từ năm 1952
phần đóng góp SDR : 13312 triệu SDR
SDR : 891 triệu
Cổ phần : 6,26%
-Anh : cổ phần 5,05%

Nhóm 37-73 6
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
-Pháp : cổ phần 5,05%
-Trung Quốc : hội viên từ năm 1945
phần đóng góp SDR : 4687 triệu SDR
SDR : 237 triệu
-Hàn Quốc : hội viên từ năm 1955
phần đóng góp : 1633 triệu SDR
SDR : 73 triệu
Và nhiều quốc gia khác
Đây là những dữ liệu có được vào tháng 8 năm 2008
1.1.4 Chức năng cơ bản của IMF:
1. Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên
Theo quy định của văn bản hiệp định đầu, các nước thành viên đều áp dụng
hệ thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. Trong hiệp định có ghi : ”Tất cả các
thành viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra trên lãnh thổ nước mình những hoạt
động hối đoái giữa các đồng tiền của mình với đồng tiền của những nước thành
viên nào tôn trọng một sự cách biệt không quá 1% chế độ đồng giá”.
Do sức ép của Mỹ, Hội nghị Bretton Woods phải chấp nhận 1 tỷ lệ vàng USD
là 35 USD – 1 ounce vàng. Cuối 1947 Bộ Trưởng Tài chính Mỹ, ông Johw Suyder
đã tuyên bố với Tổng giám đốc của IMF là Mỹ bán và mua vàng bằng USD với giá
35 USD/ ounce cho tất cả các NHTW nào có yêu cầu. Ðiều này biến hệ thống
Bretton Woods thành một hệ thống bản vị USD.
Nhóm 37-73 7
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Để giải quyết vấn đề dự trữ của quỹ tháng 6-1967 Hội đồng Thống đốc IMF đã
nhóm họp ở Rio de Janeiro, thủ đô Brazil và đã chấp nhận nguyên tắc tạo ra một
loại dự trữ quốc tế mới là SDR (Special drawing right). Dự trữ SDR được thể hiện
dưới hình thức bút tệ, được ghi trong tài khoản đặc biệt của mỗi nước thành viên
và có thể sử đụng qua chuyển khoản. Giá trị của mỗi đơn vị SDR lúc ban đầu được

ấn định là 0,888671 gram vàng, tương đương với hàm lượng vàng của 1 USD. Ðến
năm 1973 vì có sự thả nổi hối suất của USD, giá trị của SDR được quy định căn cứ
vào giá trị tổng hợp của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng theo tầm quan trọng
của mỗi đơn vị tiền tệ thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia trong
tổng giá trị xuất khẩu của thế giới. Năm 1981, giá trị tổng hợp đó chỉ còn căn cứ
vào 5 đồng tiền của 5 nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 1975-1979
là USD 40; FRF 11%; GDB 11%; JPY 17%; DEM 21%; Cứ 5 năm duyệt lại một
lần: một lần vào đầu năm 1986, một lần vào đầu năm 1991.
Tuy nhiên sau hơn hai thập kỷ, hệ thống này đã bộc lộ nhiều yếu kém. Ðến đầu
thập kỷ 70 khủng hoảng kinh tế đã các thành viên của quỹ làm cho nó không thể
duy trì hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia. Hệ
thống Bretton Woods sụp đổ hoàn toàn vào năm 1973 khi Tổng thống Mỹ Nixon
tuyên bố ngừng chuyển đổi USD ra vàng. Lý do chính là Mỹ không còn đủ khả
năng về dự trữ vàng để tiếp tục quy đổi với USD theo tỷ giá 35 USD/ounce vàng.
Ðể đáp ứng được yêu cầu dự trữ ổn định quỹ tiền tệ quốc tế trong hoàn cảnh mới
của nền kinh tế quốc dân, IMF yêu cầu các nước thành viên thực hiện bảy nghĩa vụ
cũ là:
- Thi hành chính sách tự do mua bán vàng trên thị trường.
- Tạo điều kiện cho đồng tiền của các nước được chuyển đổi tự do.
- Loại bỏ dần các hành chế về hối đoái.
Nhóm 37-73 8
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
- Tôn trọng quy định của các thành viên khác về hối đoái phù hợp với quy
định của IMF.
- Cung cấp thông tin tài chính cho IMF
- Hợp tác với các nước khác việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế
về tiền tệ .
- Duy trì 1 tỷ giá hối đoái cố định .
Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ 1978 đến nay được gọi là hệ thống tỷ giá thả
nổi có quản lý (hệ thống Jamaica). Nhiều cường quốc ấn định tỷ giá của mình theo

cơ chế thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này IMF có vai trò lớn và thường kiến nghị,
tác động đến chính sách quản lý tỷ giá của các nước thông qua các điều kiện tín
dụng. Tuy tác động, quản lý hệ thống tiền tệ quốc tế theo nhiều cách gián tiếp
nhưng IMF đã thực hiện chức năng duy trì ổn định hệ thống tỷ giá hối đoái cố định
tương đối l cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc thực hiện chức năng này còn được
hỗ trợ bởi các hoạt động thực hiện các chức năng khác.
2. Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân
thanh toán
Ðể thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ
quốc tế IMF đã cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng cho các nước
có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán. Khi một nước rơi vào tình trạng này
thì buộc họ phải giảm dự trữ ngoại hối hoặc đi vay để tài trợ cho các hoạt động
này. Hậu quả là các nước đó phải đối mặt với sức ép ngày càng tăng về tỷ giá hối
đoái. Ðây chính là lúc IMF thực hiện chức năng của mình. Nếu gặp khó khăn về
cán cân thanh toán, một nước thành viên có thể rút lại ngay lập tức 25% quota đã
góp bằng vàng hoặc ngoại tệ có thể chuyển đổi Trước 1980, IMF quy định thành
viên hàng năm chỉ được vay tối đa 25% và tổng các khoản vay không được quá
125% quota.
Nhóm 37-73 9
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Ðể đáp ứng nhu cầu về vốn, IMF đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng vốn.
Năm 1962, IMF ký kết tổng nghị định thư về vay mượn (General Agreement to
Borrow) GAB với thời hạn 4 năm. Sau đó tổng nghị định GAB được gia hạn nhiều
lần và đến nay đã hoạt động ổn định. Tham gia vào GAB có 10 nước tư bản chủ
chốt (Mỹ, Anh, Hà Lan, Canada, Pháp, Tây Ðức, Thụy Ðiển, Thụy Sỹ và Nhật
Bản). Số vốn GAB tăng từ 6,4 tỷ SDR lên 17 tỷ SDR vào 2/83. Ðối tượng vay vốn
theo GAB này ban đầu chỉ là các nước thành viên, nhưng từ năm 1984 các nước
không phải thành viên cũng được tham gia. Thời hạn cho vay không quá 5 năm.
Gần đây Hội đồng quản trị đã chấp nhận Hiệp định vay mượn mới (New
Agreement to Borrow – NAB) cùng với 10 nước trên cũng được thực hiện với

Arập Xêút và đã tạo ra một nguồn vốn 1,5 tỷ SDR. Các khoản vay NAB này sẽ có
hiệu lực cho đến 26/12/1998.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Mêhicô hồi cuối 1994 đầu năm 1995, Hội
đồng quản trị IMF đã tăng cường khả năng vay vốn để đối phó với tình trạng khẩn
cấp trong tương lai bằng cách thông qua NAB vào tháng l/1997. Theo NAB thì 25
nước và tổ chức có thể sẵn sàng cho IMF vay 34 tỷ SDR (47 tỷ USD) để bổ sung
cho nguồn vốn đóng góp của quý khi cần thiết, ngăn chặn hoặc đối phó với tình
huống bất thường có thể đe doạ sự ổn định của hệ thống.
3. Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế
của các nước thành viên
Theo Hiệp định thành lập thì mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là
“thực hiện sự giám sát chặt chẽ tỷ giá hối đoái của các nước thành viên”. Ðồng
thời IMF có quyền áp đụng các nguyên tắc cụ thể để hướng dẫn các thành viên trên
cơ sở tôn trọng chính sách của họ. Ðể thực hiện nhiệm vụ này IMF kiểm tra các
vấn đề tiền tệ quốc tế và phân tích các khía cạnh của chính sách đó có thể tạo ra tác
động đến hệ thống TGHÐ.
Nhóm 37-73 10
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của việc giám sát kịp thời và hiệu
quả đã tăng lên do nhiều biến chuyển cơ bản trong nền kinh tế toàn cầu : tăng
trưởng nhanh chóng của thị trường vốn tư nhân, hội nhập khu vực và thế giới, gia
tăng, chỉnh đốn tài khoản vãng lai và cải cách kinh tế theo hướng thị trường của
nhiều nước. Cuộc khủng hoảng Mêhicô năm 1995 và khủng hoảng tài chính Ðông
Á 7/1997 cho thấy sự cần thiết và vai trò giám sát quan trọng của IMF. Năng l995,
IMF đẩy mạnh chức năng giám sát, nhấn mạnh vào việc các thành viên cung cấp
đầy đủ, chính xác các số liệu.
Theo Ðiều 4 về quan hệ hợp tác giữa IMF và thành viên, IMF được phép xem
xét một cách có hệ thống sự phát triển kinh tế và chính sách kinh tế của thành viên,
đánh giá tác động của các chính sách đối với tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán.
1.2 Hoạt động của IMF:

Tương trợ tài chính khi các nước hội viên cần được giúp đỡ vẫn là hoạt động
chính của Quỹ. Nhưng cách thức kiểm soát, đề phòng và nhìn trước những khó
khăn của các nước hội viên là yếu tố quan trọng trong bối cảnh một nền kinh tế thế
giới ngày càng liên quan mật thiết với nhau
1.2.1. Kiểm soát chính sách tiền tệ của các nước hội viên :
- Hiện nay Quỹ có một hoạt động nghiên cứu quan trọng về tình trạng kinh tế tổng
quát, chính sách tiền tệ của mỗi nước hội viên để có thể nhìn trước những khó khăn
một nước để có thể phải đối đầu và do đó cần sự giúp đỡ của Quỹ
- Theo quy chế (Article IV), IMF tham khảo mỗi nước mỗi năm một lần hoặc
nhiều lần nếu Quỹ nhận định là nước có nhiều nguy hiểm sẽ rơi vào tình trạng khó
khăn kinh tế.
Nhóm 37-73 11
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Hằng năm, một nhóm chuyên viên của Quỹ được cử tới thủ đô mỗi nước
quãng hai tuần để thu thập tại chỗ những dữ kiện kinh tế có ảnh hưởng đến giá trị
đồng tiền như những thống kê về xuất nhập khẩu, lương bổng, giá cả, việc làm, chỉ
số phân lãi, số lượng tiền quốc gia đang lưu hành, đầu tư, thuế vụ, ngân sách quốc
gia và đối thoại với những vị đại diện chính phủ về sự hữu hiệu của những chính
sách kinh tế đang được áp dụng, những dự trù thay đổi để có một chính sách trao
đổi ngoại tệ một cách tự do không bị kiểm soát hay giới hạn. Nhóm chuyên viên
trở về trụ sở Washington và lập một bản tường trình chi tiết để ban điều hành có
thể góp ý kiến cho nước hội viên phải sửa đổi hay canh tân trong những lĩnh vực
có nhiều thiếu sót. Những tài liệu này là yếu tố cơ bản để IMF quyết định giúp đỡ
hay không khi cần thiết.
1.2.2. Giúp đỡ tài chính :
- IMF chỉ cho vay tiền những nước nào gặp khó khăn về vấn đề thanh toán trong
cán cân chi tiêu ngoại địa, nghĩa là số tiền ngoại tệ có từ xuất khẩu không đủ để
thanh toán những hàng hoá nhập khẩu. Một nước có thể tiêu xài nhiều hơn là điều
mình có. Không ai, không nước nào cho vay mượn thường xuyên một nước thích
ăn tiêu hơn những gì mình có. Do đó chỉ còn cách thắt lưng buộc bụng, giảm tiêu

xài trong nước : bớt nhập khẩu, giảm chi tiêu quốc gia. Để tìm lại được mức thăng
bằng của giá trị đồng tiền và cán cân chi tiêu ngoại địa. IMF cho mượn tiền trong
mục đích này.
- Những nước gặp khó khăn như trên có thể rút ra ở IMF 25% phần mình đã đóng
góp trả bằng vàng hay tiền những nước lớn. Nếu không đủ, Quỹ có thể cho vay
một số tiền tương đương với 75% phần đóng góp, chia ra làm ba lần, mỗi năm có
thể rút một lần. Nếu lần rút 25% là tiền nước đã đóng góp thì 75% sau là tiền Quỹ
Nhóm 37-73 12
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
cho mượn. Khi Quỹ đồng ý giúp 75%, điều này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một
hay nhiều nước hội viên khác có nền kinh tế vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền
nước đang cần trợ giúp. Nước mượn tiền sẽ phải trả lại tiền đã đổi để các nước
khác mà tiền đã bị đổi có thể xử dụng để vay Quỹ trong trường hợp cần thiết. Đây
là nguyên tắc nền tảng
Theo phương thức làm việc của IMF, cách giúp đỡ được chia làm hai loại :
+ Giúp đỡ ngắn hạn (Stand-by Arrangements - Accords de Confirmation) nhằm
giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu tạm thời. Thời gian mượn kéo dài từ
12 tháng đến 18 tháng. Mỗi năm các nước mượn có thể rút một phần. Hạn trả kéo
dài từ 3 đến 5 năm.
+ Giúp đỡ dài hạn (Extended Fund Facility - Mécanisme Élargi de Crédit) nhằm
giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu mà nguồn gốc xuất phát từ những vấn
đề liên quan tới hạ tầng cơ sở kinh tế của nước. Hạn trả kéo dài từ 4 đến 10 năm.
- Nếu lần rút đầu tiên 25% được Quỹ chấp thuận dễ dàng thì những lần rút sau Quỹ
đòi hỏi nhiều điều kiện khắt khe như: nước hội viên phải có một chương trình chi
tiết về tài chính và kinh tế để giải quyết những khó khăn về cán cân chi tiêu ngoại
địa và Quỹ chia tiền cho mượn ra làm nhiều phần. Đó là nguyên tắc thận trọng để
tránh việc một nước mượn được tiền và xử dụng một cách hoang phí hay ít hữu
hiệu.
- IMF quan tâm đặc biệt đến chính sách tiền tệ, đặc biệt là hoạt động của hệ thống
ngân hàng. Bởi vì số lượng tiền tệ lưu hành nhiều hay ít là do những chính sách

của ngân hàng trung ương qua việc kiểm soát hệ thống ngân hàng trong nước. Số
lượng cho vay của các ngân hàng quá lớn sẽ khuyến khích nhập cảng gia tăng.
Nhóm 37-73 13
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Việc kiểm soát và giới hạn hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng là điều Quỹ
bắt nước cần mượn phải thực hiện. IMF thường đòi nước phải hạ tỷ giá hối đoái để
giới hạn phần nhập khẩu và để phần xuất khẩu gia tăng, vì sự cạnh tranh sẽ dễ dàng
hơn do giá rẻ hơn.
- Quỹ cũng khuyến khích nước phải giảm những chi tiêu trong ngân sách quốc gia:
ít công chức hơn, giảm đầu tư công cộng, giới hạn việc giúp các doanh nghiệp
quốc doanh nếu không muốn nói là phải tư hữu hoá, xoá bỏ những hạn chế về giá
cả. Và ngay cả đường lối cứng rắn chống lại tệ nạn tham nhũng hối lộ, nguồn gốc
của nhiều cản trở và hoang phí cho sự phát triển kinh tế.
- Mặt khác, các nước hội viên có thể dùng quyền SDR của mình nếu cần thiết. Quỹ
không đòi hỏi điều kiện để một nước có thể dùng quyền này. Nếu một nước hội
viên cần ngoại tệ, Quỹ sẽ chỉ định một nước có sức mạnh kinh tế và tài chính đổi
những phần SDR lấy ngoại tệ. Khi nước gặp khó khăn tìm lại được tình trạng
thăng bằng kinh tế, số ngoại tệ đã mượn sẽ được trả lại cho nước đã cho mượn.
SDR cũng có thể được thanh toán trực tiếp giữa các ngân hàng trung ương của một
số nước hội viên mà không cần sự can thiệp của Quỹ.
- Ngoài những cách thức cho vay mượn trên, IMF cũng đặt ra một số phương thức
cho vay tuỳ theo tình trạng khẩn cấp của những khó khăn tài chính mà các nước
hội viên có thể phải đối đầu.
- Những cách thức cho vay của Quỹ đều kèm theo một phân lời (từ ngữ được Quỹ
dùng gọi là commission) cần thiết để trả tiền lời cho những nước hội viên mà Quỹ
đã chỉ định đóng góp tiền cho vay và để cho cơ quan hành chánh của Quỹ có thể
hoạt động.
Nhóm 37-73 14
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
- Điểm cuối cùng cần đề cập là hoạt động của IMF để giúp đỡ các nước hội viên

nghèo. Mục đích và tổ chức của IMF dành một chỗ đứng ít quan trọng cho các
nước đang phát triển ; hoặc vì phần đóng góp của các nước này rất ít trong các
nguồn tài chính của Quỹ như đã đề cập ở trên ; hoặc vì ảnh hưởng của các nước
này trong những trao đổi thương mại, tài chính quốc tế ít tầm quan trọng.
1.2.3. Giúp đỡ về mặt kỹ thuật:
Trong thập niên 60, nhiều nước Phi châu và Á châu trở thành độc lập đã nhờ
IMF giúp đỡ để thiết lập hạ tầng tài chính quốc gia như ngân hàng trung ương, bộ
kinh tế tài chính. Sự giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng được mở rộng không
những về số nước được giúp đỡ, mà còn trong chương trình huấn luyện kỹ thuật
như phương cách thiết lập chính sách tiền tệ, ngân sách quốc gia, kiểm soát hệ
thống ngân hàng, kế toán quốc gia, thống kê. Trong thập niên 90, nhiều nước
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường đã được Quỹ giúp đỡ
trong lĩnh vực này. Kinh nghiệm của Quỹ trong lĩnh vực tài chính từ hơn 50 năm
nay, với những chuyên viên kinh tế, tài chính, luật pháp, thống kê. gây nhiều tin
tưởng quốc tế. Những nước giầu muốn giúp đỡ những nước đang phát triển trong
lĩnh vực này có thể đóng góp tài chính và để Quỹ tổ chức cách giúp đỡ.
1.3 NHỮNG NGUỒN TÀI CHÍNH CỦA IMF:
Tổ chức IMF có tính chất tổ hợp tương trợ tài chính,mỗi hội viên đóng góp
một số tiền được hội quy định.Nguồn tài chính này được dùng để giúp các nước
hội viên trong trường hợp cần thiết.Nhưng Quỹ cũng có những phương cách phụ
thuộc khác để có thể đáp ứng những nhu cầu của các nước hội viên.
1.3.1. Phần đóng góp ( Quotas-quotes-parts P):
Nhóm 37-73 15
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
- Phần đóng góp của mỗi nước là nguồn tài chính của Quỹ ngay từ khi được thành
lập.IMF không vay mượn trên thị trường tài chính quốc tế.Phần đóng góp không
những đóng vai trò của nguồn tài chính,nó còn là tiêu chuẩn để xác định số tiền mà
nước hội viên có thể vay mượn,để phân chia SDR và số phiếu bầu của mỗi nước.
- Phần đóng góp được xác định theo tiêu chuẩn : tổng sản lượng quốc gia,dự trữ
vàng và dollar Mỹ,số lượng xuất khẩu,nhập khẩu.Nước càng giàu đóng góp càng

cao.Số đóng góp lúc đầu là 7,6 triệu USD Mỹ.Số đóng góp tính từ năm 1998 là 193
tỷ USD Mỹ.Năm 1999,đề nghị của IMF tăng 45% nhưng phần đóng góp đã được
các nước hội viên phê chuẩn ,nguồn tài chính của cơ quan do đó trị giá khoảng 300
tỷ USD Mỹ.
- Nguồn tài chính Quỹ tăng nhiều vì 2 lý do : thứ nhất,thành viên gia nhập ngày
càng nhiều,từ 44 nước lúc đầu giờ là 187 nước thành viên,Việt Nam là hội viên từ
năm 1956.Thứ hai,phần đóng góp có thể tăng lên hay giảm xuống mỗi thời gian 5
năm theo quyết định của những Thống đốc với ít nhất 85% phiếu thuận.Những
phần đóng góp quan trọng nhất hiện nay là Mỹ(),Anh(),Pháp(),Đức(),Nhật().Phần
đóng góp càng nhiều thì ảnh hưởng trong IMF càng mạnh về những đường hướng
và quyết định quan trọng.Rất nhiều nước nhỏ có phần đóng góp rất ít,khoảng 50
nước có phần đóng góp dưới 65 triệu USD Mỹ,phần đóng góp của Mỹ cao hơn 2
lần so với những phần đóng góp của các nước Châu Mỹ La Tinh.
- Cách thức xác định tiền của mỗi hội viên rất đặc biệt.Theo quy chế Quỹ,mỗi
nước thanh toán 25% phần đóng góp bằng vàng và 75% bằng tiền nước mình.Số
vàng được dự trữ trong 4 ngân hàng trung ương lớn nhất,75% tiền mỗi nước được
giữ dưới hình thức một trương mục của Quỹ tại ngân hàng trung ương mỗi
nước.Trong thực tế các nước thanh toán bằng vàng ít hơn là 25 % như quy định.Từ
Nhóm 37-73 16
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
năm 1971,khi Hệ Thống Tiền tệ vàng Dollar hết hoạt động,25% được thanh toán
bằng SDR hay những đồng tiên lớn thường được sử dụng trên thị trường quốc tế.
1.3.2. Quyền SDR(special drawing right)
- Nguồn dự trữ trong các ngân hàng trung ương để bảo đảm cho ngoại thương là
vàng và các tiền lớn như Dollar Mỹ,Yên Nhật,Pound Anh và mới đây là tiền
EURO thay thế cho những tiền lớn của Cộng Đồng Tiền Tệ Châu Âu như Mark
Đức,Franc Pháp.Từ năm 1969,IMF quyết định phân chia cho các nước hội viên
một loại quyền lợi đặc biệt gọi là SDR,viết tắt theo Anh ngữ hoặc DTS,viết tắt theo
Pháp ngữ.Quyền này được coi như một loại tiền dự trữ ghi trên sổ kế toán của ngân
hàng trung ương mỗi nước. Lúc đầu, ban lãnh đạo IMF đặt rất nhiều hy vọng vào

SDR và dự trù nó sẽ trở thanh đồng tiền quốc tế thay tiền Dollar Mỹ.Nhưng không
được,bởi vì các nước lớn nghĩ nhiều đến quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi
chung và cũng vì dự tính trên lý thuyết thì hay nhưng khó thực hiện trong thực
tế.Lúc ban đầu,SDR được phân chia cho các nước hội viên theo phần đóng góp đã
trình bày ở trên,do đó các nước nhỏ ít đóng góp không được nhiều SDR.Trong
những lần phân chia sau này,Quỹ có khuynh hướng tăng phần dành cho những
nước này.
- Giá trị của SDR ban đầu được định giá tương đương 1/35 oune vàng,do đó 1
SDR=1 USD.Sau năm 1971,USD không còn được đổi ra vàng,giá trị của SDR
được xác định dựa trên giá trị 16 đồng tiền của 16 nước có hoạt động hoạt động
xuất khẩu cao nhất và thay đổi theo giá thị trường của những đồng tiền này.Từ năm
1980,để đơn giản hóa cách tính,gía trị dựa trên 5 đồng tiền lớn và mức quan trọng
của mỗi đồng tiền:USD(39%),mark(21%),yên Nhật(18%),pound Anh(11%),Franc
Nhóm 37-73 17
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Pháp(11%),Từ khi đồng Euro ra đời,mức quan trọng được xác định như sau :
USD(45%),EURO(29%),yên Nhật(15%),pound Anh(11%) và Franc Pháp(11%).
**Sứ mệnh:
- SDR ra đời là sự kiện đánh dấu sự thay đổi của hệ thống tỷ giá hối đoái (TGHĐ)
cố định sang TGHĐ linh hoạt hơn.
- Giảm thiểu những hạn chế trong việc sử dụng đồng USD và vàng.SDR ra đời đã
bổ sung vào IMF,làm hoạt động thanh toán quốc tế được thông suốt hơn,thị trường
hối đoái ổn định hơn.
- Sau CTTG thứ II, Anh, Mỹ và các nước đồng minh đã cùng nhau xây dựng nên
hệ thống TGHĐ cố định: Hệ thống Bretton Woods(1944-1973). Trong đó,các quốc
gia thành viên phải cố định tiền tệ của họ với đồng USD theo TGHĐ chính thức,
NHTW Mỹ phải đảm bảo có thể chuyển đổi USD thành vàng với giá 35 USD/1
ounce vàng.
- Năm 1969, SDR được IMF đề ra theo đề nghị của 10 nước trong CLB Paris
gồm: Bỉ,Canada,Pháp,Ý,Nhật,Hà Lan,Thụy Điển,Anh,Mỹ,Đức. Khi được khai

sinh, SDR là tài sản dự trữ có tính chất quốc tế nhằm bổ sung cho tài sản dự trữ của
các quốc gia thành viên,góp phần giúp duy trì TGHĐ của đồng nội tệ.
- Ban đầu, SDR được tính theo vàng : 1 SDR = 0,888671g vàng = 1 USD.Năm
1974, SDR không được xác định bằng vàng nữa,mà căn cứ vào giá trị đồng tiền
của một số nước chủ yếu, gồm 16 nước ma mỗi loại chiếm tỷ trọng từ 1% trở lên
trong thương mại quốc tế : Hoa Kỳ, Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Tây Ban Nha,
Nhật, Canada, Hà Lan, Bỉ, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Ôxtraylia, Áo, Nam Phi.
Nhóm 37-73 18
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
- Đến 1980,giảm xuống còn 5 nước : Mỹ(USD),Anh(bảng
Anh),Nhât(yên),Pháp(Prăng),Đức(Mac).
- Từ năm 1999 đến nay,khi đồng tiền chung châu Âu(EURO)ra đời và có sự thay
đổi về tiềm lực tài chính của các nước phát triển,IMF đã đưa EUR vào rổ tiền tệ và
bỏ Franc va Mac ra khỏi rổ tiền tệ.
- Sau khi hệ thống TGHĐ cố định bị sụp đổ và áp dụng tỷ giá thả nổi,tỷ giá của
các đồng tiền thường xuyên biến động.Vì vậy,IMF công bố hàng ngày TGHĐ của
từng đồng tiền quốc gia với SDR.
- Ngày nay,SDR ít được sử dụng như tài sản dự trữ,mà chức năng chính của nó là
sử dụng như một tài khoản tại IMF của các nước thành viên và một số tổ chức
quốc tế khác, sử dụng như một đơn vị tính toán,Quốc gia nắm giữ SDR có thể đổi
ra các đồng tiền khác theo 2 cách :
+ Thông qua thỏa thuận trao đổi tiền với các nước thành viên khác.
+ Thông qua một thành viên được chỉ định,có địa vị đối ngoại cao để để trao
đổi với một thành viên khác có vị thế yếu hơn.
- Tỷ lệ đóng góp vào ngân sách của IMF liên quan đến quyền bỏ phiếu của từng
thành viên đối với các quyết định tài trợ,cho vay…của IMF.
- Ngày nay,giá trị của SDR được xác định dựa trên một nhóm các đồng tiền mạnh
theo tỷ lệ bình quân gia quyền theo USD.
**Xác định giá trị SDR:
Từ năm 1969 đến tháng 6/1974,SDR được định nghĩa bằng giá trị của USD và

USD xác định theo giá trị với vàng :
Nhóm 37-73 19
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
- Từ 1969 đến ngày 17/12/1971 : 35 USD = 1 oz vàng
- Từ ngày 18/12/1971 đến 11/2/1973 : 38 USD = 1 oz vàng
- Từ ngày 12/2/1973 đến 30/6/1974 : 42,22 USD = 1 oz vàng
Năm 1973,TGHĐ cố định sụp đổ nên từ tháng 7/1974 đến nay,SDR được định
nghĩa theo các điều kiện của 1 rổ tiền tệ,bao gôm các loại tiền tệ chính được sử
dụng trong thương mại và thanh toán quốc tế:
- Tỷ lệ mỗi loại tiền tệ tạo ra một SDR được chọn theo tầm quan trọng của nó
trong thương mại và thanh toán quốc tế.Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDR và
tỷ lệ của nó do Ban lãnh đạo IMF thực hiện sau mỗi 5 năm.Tỷ lệ của các loại tiền
tệ trong giai đoạn từ 1981 tới 2010 là :
+ 1981-1985 : USD 42% ,DEM 19%, JPY 13% ,GBP 13%,FRF 13%
+ 1986 -1990: USD 42% ,DEM 19%, JPY 15%,GBP 12%,FRF 12%
+ 1991-1995: USD 40%,DEM 21%, JPY 17%,GBP 11%,FRF 11%
+ 1996-2000: USD 39% ,DEM 21%, JPY 18%,GBP 11%,FRF 11%
+ 2001-2005: USD 45% ,EUR 29%, JPY 15%,GBP 11%,
+ 2006-2010: USD 44%,EUR 34%, JPY 11%,GBP 11%,
- SDR được định giá bằng số bình quân gia quyền của các đồng tiền mạnh.IMF
tiến hành tiến hành phân bổ đồng SDR cho các nước thành viên đồng thời cũng
được chính phủ của các nước thành viên hỗ trợ.
- Giá quy đổi USD theo SDR được niêm yết hàng ngày trên wedsite của IMF.
Nhóm 37-73 20
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
- Giá này được xác định dựa vào số lượng giao dịch của 4 đồng tiền trên quy đổi
ra USD dựa theo TGHĐ niêm yết vào buổi trưa mỗi ngày trên thị trường tiền tệ
London.Nếu thị trường London đóng cửa thì dùng tỷ giá trên thị trường New
York,cuối cùng là thị trường Frankfurt.
** Quyền rút vốn đặt biệt (SDR):

Đó là loại tiền đặt biệt mà IMF tạo ra để bổ sung vào tài sản dự trữ mà hầu
hết các nước thành viên dùng để đảm bảo nhu cầu thanh toán ngoại tệ và giao dịch
với nước ngoài.Việc này để giải quyết nguy cơ khan hiếm những công cụ thanh
toán quốc tế.
Hội nghị thường niên IMF ngày 3/10/1969 đã biểu quyết chấp thuận dự án
cấu tạo 9,5 tỷ SDR,lần phân phối SDR đầu tiên là 3,5 tỷ SDR thi hành ngày
1/1/1970,hai lần phân phối sau đó mỗi lần 3 tỷ vào đầu năm 1971 và năm
1972.Đến năm 1979 thêm 3 đợt phân phối nữa vào đầu 1979,1980,1981.Tính
chung,từ 1970 đến 1986,Quỹ đã tạo ra và phân phối tổng cộng 21,4 tỷ SDR,trị giá
gần 29 tỷ USD,chiếm khoảng 2% tổng dự trữ thế giới.
1.3.3.Bán vàng:
Báo cáo của IMF dự kiến thúc đẩy nhu cầu vàng.
Một báo cáo của IMF cho rằng các nền kinh tế mới nổi Châu Á như Ân
Độ,Trung Quốc và Indonesia vẫn đang dẫn đầu phục hồi kinh tế toàn cầu,điều này
sẽ hỗ trợ thị trường vàng trong những tuần tới. Báo cáo IMF sẽ thúc đẩy nhu cầu
vàng ở Trung Quốc và Ân Độ -những thị trường có nhu cầu mua vàng mạnh trong
thời gian gần đây.Mùa lễ hội ở Ân Độ cũng sẽ cung cấp hỗ trợ cho vàng.Theo
IMF,các hoạt động của các nền kinh tế mới nổi rất sôi nổi nhờ nhu cầu trong nước
Nhóm 37-73 21
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
khá mạnh của sự phục hồi của thương mại toàn cầu.Các nền kinh tế lớn ở Châu Á
như Trung Quốc,Ân Độ và Indonesia vẫn đang dẫn đầu sau đó là Brazil ở Châu Mĩ
La Tinh.
Nói về vấn đề lạm phát,báo cáo của IMF cho rằng lạm phát vẫn đang chịu
nguy cơ nền kinh tế phát triển,tỷ lệ thất nghiệp cao khiến áp lực lạm phát chưa
đáng lo ngại lắm.Với mức lạm phát cơ bản chỉ duới 1%,giảm phát sẽ là vấn đề
được chú y nhiều hơn. Tuy nhiên IMF cũng cảnh báo về nguy cơ nợ quốc gia và sự
yếu kém trên thị trường tài chính có thể làm chệch hướng phục hồi kinh tế toàn
cầu. Trước nỗi lo về sức khỏe của các ngân hàng Châu Âu và tài chính công ở
Châu Âu, Nhật và Mỹ, sự hồi phục kinh tế sẽ bắt đầu chậm lại. Điều này có thể

tăng áp lực mua trú ẩn lên vàng.Trong khi Ân Độ và Trung Quốc mua vàng vì kinh
tế phát triển thì Mỹ, Châu Âu và Nhật có thể mua vàng vì lựa chọn nơi trú ẩn.Cả
hai tình huống này đều tốt cho vàng. Tính tới ngày 30/4/2000,số lượng vàng dự trữ
của IMF có vào khoảng 103 triệu ounces(3.217 tấn)và được định theo giá thị
trường vào khoảng 30 tỷ USD Mỹ.
Tuy nhiên trong thời gian 1976 đến 1980,Quỹ đã thỏa thuận với các nước
hội viên để giảm bớt số vàng dự trữ.Quỹ đã bán khoảng 50 triệu ounces vàng.Một
nửa trả lại cho các nước hội viên theo giá 1 ounce = 35 SDR,nửa còn lại để bán
theo giá thị trường và là nguồn tài chính giúp đỡ các nước hội viên nghèo. Hội
đồng điều hành IMF đã phê chuẩn việc bán ra 403 tấn vàng,trị giá khoảng 13 tỷ
USD Mỹ,để tăng năng lực cho vay tới các nước nghèo.
Bán vàng một cách có trách nhiệm và minh bạch.
IMF cho rằng quyết định bán vàng là một yếu tố then chốt trong mô hình thu
nhập mới giúp IMF bớt lệ thuộc vào lợi tức từ cho vay để trang trải các chi phí
Nhóm 37-73 22
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
giám sát chính sách kinh tế và tài chính của các quốc gia thành viên. Số vàng được
bán ra lần này chiếm 1/8 kho vàng 3.217 tấn mà IMF đang cất giữ tại thủ đô
Washington. IMF là cơ quan có nhiều vàng đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ, Đức. Là
cổ đông lớn nhất IMF, Mỹ đã bật đèn xanh cho việc bán vàng này của IMF.Quyết
định quan trọng này được thông qua với hơn 85% số phiếu thuận.
Theo kế hoạch,IMF sẽ chào bán vàng trực tiếp cho các ngân hàng trung
ương. Một khách hàng tiềm năng nổi bật là ngân hàng trung ương Trung Quốc,hiện
nắm giữ khoảng 2000 tỷ USD Mỹ dự trữ ngoại tệ và có nhu cầu đa dạng hóa nguồn
dự trữ này.Trung quốc cũng đang thường xuyên tìm mua vàng và dự trữ của nước
này đã tăng 75% trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2008.
Trường hợp nhu cầu mua vàng của ngân hàng trung ương không đủ 403 tấn,
IMF sẽ xem xét việc bán vàng ra thị trường,theo cách mà các ngân hàng trung
ương vẫn đang làm, “sẽ thông tin trên thị trường trước khi bắt đầu cuộc bán vàng
và báo cáo thường xuyên cho công chúng về tiến độ việc bán vàng”,IMF cho biết.

Nước nghèo được vay dễ hơn,nhiều hơn.
Khoản tiền thu được từ bán vàng lần này dự kiến sẽ tăng năng lực cho vay tới các
nước nghèo nhất thế giới như châu Phi. IMF cũng đã quyết định xóa các khoản tiền
lãi vay mà các nước nghèo đang nợ từ nay đến cuối năm 2011 và tiến hảnh cải tổ
thủ tục để việc cho vay diến ra nhanh và dễ dàng hơn.
Vốn hoạt động:
Khi gia nhập IMF,mỗi thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là
một khoản lệ phí hội viên. Khoản này chỉ thực hiện khi Quỹ có nhu cầu : khi ai cần
Nhóm 37-73 23
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
vay tiến của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải đóng.Số tiền này được sử dụng
với nhiều mục đích khác nhau:
+ Tạo thanh khoản vốn IMF có thể cho các thành viên vay khi gặp khó khăn về tài
chính.
+ Căn cứ để quyết định số lượng tiền mà các nước thành viên được vay.
+ Số tiền ký quỹ này còn có vai trò quyêt định quyền bỏ phiếu của các nước thành
viên.
Bản thân IMF là người quyết định số tiền mà mỗi nước thành viên phải nộp vào
quỹ sau khi phân tích đánh giá mức đọ giàu có và tình hình kinh tế của nước
đó.Nước càng giàu,lệ phí càng cao. Khoản tiền đóng góp của các nước thành viên
tạo nên nguồn tài chính cho IMF sử dụng.Tổng số tiền đóng góp các nước thành
viên cho đến nay khoản 210 tỷ USD,mặc dù trên thực tế số tiền dử dụng được
không thể coi là lớn bởi vì các nước thành viên nộp 75% số lệ phí của họ bằng tiền
nội địa và hầu hết đồng tiền quốc gia của nhiều nước không phổ biến trong thanh
toán quốc tế.
Nhóm 37-73 24
Trường ĐHCN TPHCM GVHD: Nguyễn Anh Tuấn
Sau đây là 10 nước góp vốn nhiều nhất từ năm 1991 đến cuối năm 1992:
Nhóm 37-73 25

×