Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

BÀI TIỂU LUẬN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.68 KB, 23 trang )

Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Mục lục
Phần I :Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Trách nhiệm Xã hội của Doanh nghiệp (CSR) là một phần rất quan trọng của
Chương trình Hợp tác Doanh nghiệp (B2B).Một trong những mục tiêu của Chương trình
B2B là góp phần giảm nghèo và cải thiện môi trường làm việc tại nơi làm việc ở Việt
Nam, vì thế tất cả các công ty B2B đều phải đưa các yêu cầu CSR áp dụng trong công
việc hằng ngày của mình. chống bất bình đẳng giới, cải thiện môi trường làm việc và thể
chế hóa quan hệ hợp tác giữa người sử dụng lao động và người lao động. Những năm
gần đây, khi nói đến văn hoá, đạo đức kinh doanh, người ta hay nhắc đến trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp.Tuy nhiên, để giúp công chúng hiểu rõ vấn đề này thì còn quá ít
tài liệu.
Trong bối cảnh mà vấn đề đạo đức kinh doanh đang trở thành nỗi bận tâm, lo lắng
của cả cộng đồng như ở nước ta hiện nay,.
II. Đối tượng, phạm vi áp dụng
1. Đối tượng nghiên cứu
Bộ tiêu chuẩn SA 8000
2. Phạm vi áp dụng
Các công ty, doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn …
3. Phương pháp nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ ngày 14/2/2011 đến 12/3/2011
III. Cơ sở pháp lý , cơ sở lý luận
1. Cơ sở pháp lý
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện cách
đây hơn 50 năm, khi H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm
xã hội của doanh nhân” (Social Responsibilities of the Businessmen) (1953) nhằm mục
đích tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và
lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các
doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số người xác định


“trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 1
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58 – 64). Một
số người khác hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã
hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm
nhất định” (Archie. B Carroll, 1979), v.v
Hiện đang tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp. Những người ủng hộ quan điểm thứ nhất cho rằng, doanh nghiệp không có trách
nhiệm gì đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao động của doanh
nghiệp, còn nhà nước phải có trách nhiệm với xã hội; doanh nghiệp đã có trách nhiệm
thông qua việc nộp thuế cho nhà nước. Trái lại, những người khác lại có quan điểm cho
rằng, với tư cách là một trong những chủ thể của nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp đã sử dụng các nguồn lực của xã hội, khai thác các nguồn lực tự nhiên và trong
quá trình đó, họ gây ra những tổn hại không tốt đối với môi trường tự nhiên. Vì vậy,
ngoài việc đóng thuế, doanh nghiệp còn có trách nhiệm xã hội đối với môi trường, cộng
đồng, người lao động, v.v
Còn ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa của
Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp. Theo đó, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social
Responsibility – CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh
tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người
lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi
cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội
Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những
chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao
động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các
mặt, như: 1. Bảo vệ môi trường; 2. Đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3. Thực hiện tốt

trách nhiệm với nhà cung cấp; 4. Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5.
Quan hệ tốt với người lao động; và 6. Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao đông
trong doanh nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài của
doanh nghiệp, còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của doanh
nghiệp. Tất nhiên, sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách nhiệm bên trong
chỉ có ý nghĩa tương đối và không thể nói trách nhiệm nào quan trọng hơn trách nhiệm
nào.
Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc thực hiện trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn
góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói chung.
Như chúng ta đều biết, ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến lược
và được đề ra từ những năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với thời gian, khái niệm phát triển
bền vững đã có sự thay đổi về nội hàm và ngày càng được bổ sung thêm những nội dung
mới.
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 2
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Xét về nguồn gốc, thuật ngữ phát triển bền vững ra đời từ những năm 70 của thế
kỷ XX và bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu về môi trường và phát triển
quốc tế nhờ sự ra đời của công trình Chiến lược bảo tồn thế giới(1980). Sau đó, tư tưởng
về phát triển bền vững được trình bày trong một loạt công trình, như Tương lai chung
của chúng ta (1987), Chăm lo cho trái đất (1991). Khi nói về sự phát triển bền vững,
người ta thường sử dụng hai định nghĩa đã được nêu ra trong các cuốn sách nói trên.
Trong cuốn Tương lai chung của chúng ta, phát triển bền vững được hiểu là sự phát
triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu
cầu của các thế hệ tương lai; còn trong cuốn Chăm lo cho trái đất, phát triển bền vững
được xác định là việc nâng cao chất lượng đời sống con người khi đang tồn tại trong
khuôn khổ bảo đảm các hệ sinh thái. Nhìn chung, cả hai định nghĩa đó đều quy phát
triển bền vững về việc sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
truờng sao cho thế hệ hôm nay vẫn phát triển được mà không làm ảnh hưởng đến tương

lai của các thế hệ sau.
Như vậy, nếu xét theo nguồn gốc của thuật ngữ, phát triển bền vững là một sự
phát triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa có thể thỏa mãn được nhu cầu
của thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi
trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự phát triển bền vững là giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo đảm sự công
bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài nội dung trên đây, khái niệm phát triển bền vững còn được
bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Việt Nam đang chủ trương xây dựng chiến lược phát
triển bền vững phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Nội dung cơ bản
của chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam bao gồm:
Một là, phát triển nhanh phải đi đôi với tính bền vững. Điều đó phải được kết hợp
ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả tầm ngắn hạn lẫn dài hạn.
Hai là, tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
Ba là, trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi
trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
Bốn là, phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con
người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời
sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo.
Năm là, phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát
triển.
Sáu là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, coi
đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững(4).
Có thể nói, đây là những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển bền vững của Việt
Nam. Chiến lược đó đã thể hiện khá rõ sự kết hợp giữa quan điểm truyền thống, kinh
điển và quan điểm mới, riêng của Việt Nam.
Trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh

Trang 3
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
rằng:
Thứ nhất, yếu tố ổn định chính trị – xã hội được xem là tiền đề, điều kiện để phát
triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, chiến lược phát triển nhanh, bền vững tập trung nâng cao chất lượng
phát triển, kết hợp giữa phát triển kinh tế với việc phát triển toàn diện con người, thực
hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng bảo
vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.
Thứ ba, chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam đã đề cập một cách khá toàn
diện các khía cạnh khác nhau của sự phát triển, trong đó nổi lên việc giải quyết hài hòa
các mối quan hệ, như hài hòa giữa phát triển nhanh và bền vững, giữa tăng trưởng về số
lượng và nâng cao chất lượng, giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều
sâu; hài hòa giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, giữa tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi trường, v.v Hài hòa là một trong những nội dung
quan trọng của chiến lược phát triển bền vững.
Thứ tư, vấn đề trọng tâm, mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển bền vững chính là
vấn đề dân sinh. Điều đó được thể hiện trong nội dung của chiến lược mà chúng tôi vừa
trình bày. Chiến lược phát triển nhanh và bền vững đã chú trọng đến chất lượng của sự
tăng trưởng kinh tế, những mục tiêu của sự tăng trưởng hướng tới sự phát triển toàn diện
của con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải
thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc
coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển. Rõ ràng, mục
tiêu của sự tăng trưởng như vậy là nhằm giải quyết ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh,
bảo đảm cho mọi người dân có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Trên thực tế, chiến lược
phát triển nhanh, bền vững là phương thức hữu hiệu bảo đảm cho sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Rõ ràng là, với mục tiêu của phát triển bền vững như vậy, việc thực hiện trách nhiệm

của doanh nghiệp góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển bền vững của Việt
Nam.
Mặt khác, khi tiếp cận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chúng ta cần tiếp cận cả
trên phương diện đạo đứclẫn phương diện pháp lý. Chúng ta không nên chỉ hiểu trách
nhiệm của doanh nghiệp ở khía cạnh đạo đức của chủ doanh nghiệp, ở công tác từ thiện
của doanh nghiệp, mà cần hiểu cả ở khía cạnh pháp lý, tức thực thi trách nhiệm xã hội là
một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Việc kết hợp cả hai phương diện đạo
đức và pháp lý là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp.
2. Cơ sở thực tiễn
Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trách nhiệm xã
hội không còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 4
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
của mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử
(Code of Conduct hay gọi tắt là CoC). Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những
người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ
trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với
quyền của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp
không thực hiện trách nhiệm xã hội có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường quốc
tế.
Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm xã hội
thì lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích mà
doanh nghiệp thu được khi thực hiện trách nhiệm xã hội bao gồm giảm chi phí, tăng
doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất và
thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới. Chúng ta có thể dẫn ra đây một số ví dụ về
lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
.
Thứ nhất, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng suất. Một

doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt các thiết bị mới.
Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất bao bì lớn của Ba Lan đã tiết kiệm được 12 triệu
đô la Mỹ trong vòng 5 năm nhờ việc lắp đặt thiết bị mới, nhờ đó làm giảm 7% lượng
nước sử dụng, 70% lượng chất thải nước và 87% chất thải khí(5).
Chi phí sản xuất và năng suất lao động phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống quản lý nhân sự.
Một hệ thống quản lý nhân sự hiệu quả cũng giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí và tăng
năng suất lao động đáng kể. Chế độ lương, thưởng hợp lý, môi trường lao động sạch sẽ
và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục đều góp phần giảm tỷ
lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, do đó giảm chi phí tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới. Tất
cả cái đó góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động.
Thứ hai, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Mỗi doanh nghiệp đều
đứng trên địa bàn nhất định. Do đó, việc đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương có
thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và đáng tin cậy hơn và nhờ đó
tăng doanh thu. Chẳng hạn, Công ty Hindustan Lever, một chi nhánh của tập đoàn
Unilever tại Ấn Độ, vào đầu những năm 70 chỉ hoạt động được với 50% công suất do
thiếu nguồn cung ứng sữa bò từ địa phương và do vậy, đã bị lỗ trầm trọng. Để giải quyết
vấn đề này, công ty đã thiết lập một chương trình tổng thể giúp nông dân tăng sản lượng
sữa bò. Chương trình này bao gồm đào tạo nông dân cách chăn nuôi, cải thiện cơ sở hạ
tầng cơ bản và thành lập một ủy ban điều phối những nhà cung cấp địa phương. Nhờ đó,
số lượng làng cung cấp sữa bò đã tăng từ 6 tới hơn 400, giúp cho công ty hoạt động hết
công suất và đã trở thành một trong những chi nhánh kinh doanh lãi nhất tập đoàn.

Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín
của công ty. Trách nhiệm xã hội có thể giúp doanh nghiệp tăng giá trị thương hiệu và uy
tín đáng kể. Đến lượt nó, uy tín giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, hấp dẫn các đối tác,
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 5
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
nhà đầu tư và người lao động. Trên thế giới, những công ty khổng lồ đang chi một khoản
tiền rất lớn để trở thành hình mẫu kinh doanh lý tưởng. Chẳng hạn, hãng điện tử dân

dụng Best Buy đã có chương trình tái chế sản phẩm; hãng cà phê nổi tiếng Starbucks đã
và đang bắt tay vào các hoạt động cộng đồng; hãng nước khoáng nổi tiếng của Pháp
Evian phân phối sản phẩm của mình trong những chai nước thân thiện với môi trường.
Những tập đoàn đa quốc gia như The Body Shop (tập đoàn của Anh chuyên sản xuất các
sản phẩm dưỡng da và tóc) và IKEA (tập đoàn kinh doanh đồ dùng nội thất của Thụy
Điển) là những ví dụ điển hình. Cả hai công ty này đều nổi tiếng không chỉ vì các sản
phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý của mình, mà còn nổi tiếng là các doanh nghiệp có
trách nhiệm đối với môi trường và xã hội(7).
Thứ tư, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. Nguồn
lao động giỏi, có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm của
doanh nghiệp. Có một thực tế là, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực được đào
tạo có chất lượng cao không nhiều. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế
nào thu hút, giữ chân họ và phát huy hết khả năng của họ trong hoạt động quản lý, sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, việc thu hút và giữ được nhân viên có
chuyên môn tốt là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường, những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân
viên cơ hội đào tạo, có chế độ bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng
thu hút và giữ được nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Tất cả những điều nói trên là cơ sở để luận chứng cho sự cần thiết phải thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, đồng thời là những kinh nghiệm bổ ích, có
giá trị tham khảo cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là vấn đề
mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Bằng chứng là, từ
năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao giải thưởng
“Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh
các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội
nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối
với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh

nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được
với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang
lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do
Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy
da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng
từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94%
lên 97%. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với
khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp,
thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao.
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 6
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách
nhiệm xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh
nghiệp lớn của Việt Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký
thực hiện trách nhiệm xã hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo
vệ môi trường, với cộng đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao
động.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua ở Việt Nam,
nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội
của mình.
Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo cáo tài chính,
không bảo đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô
nhiễm môi trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư của các Công ty Miwon,
Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, công ty Hyundai Vinashin (Khánh
Hòa), các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người, như nước
tương có chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn
the, sữa có chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp

luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động cũng
không còn là hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho xã hội.
Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng và những giải pháp
để khắc phục tình trạng đó.
Hiện đang có những ý kiến khác nhau về nguyên nhân dẫn đến việc không thực
hiện trách nhiệm xã hội của nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số người cho rằng,
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được luật hóa ở tất cả các doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu, do yêu cầu của khách
hàng nên buộc phải thực hiện trách nhiệm xã hội, còn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ,
do khó khăn về tài chính và thiếu ràng buộc về pháp lý nên nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu
trách nhiệm xã hội là “các khoản đóng góp từ thiện”. Một số người khác cho rằng, việc
thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, làm giảm khả năng
cạnh tranh ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích trước mắt, do đó các doanh nghiệp
vừa và nhỏ không muốn thực hiện trách nhiệm xã hội. Nói tóm lại, việc thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam còn tương đối khó khăn. Sở dĩ như vậy
trước hết là do sự hiểu biết chưa đầy đủ của doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội; trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp chỉ đơn thuần được hiểu là các khoản đóng góp từ thiện.
Thứ hai, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng gây ra những khó
khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp do thiếu nguồn vốn và kỹ thuật để thực hiện các
chuẩn mực trách nhiệm xã hội. Điều này đặc biệt khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Nói một cách toàn diện hơn, theo nghiên cứu năm 2002 của Ngân hàng thế giới tại Việt
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 7
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Nam, những rào cản và thách thức lớn nhất cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp bao gồm:
1. Nhận thức về trách nhiệm xã hội trong và giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn
có sự khác nhau khá lớn.

2. Năng suất lao động bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng bộ nhiều bộ quy tắc
ứng xử (CoC).
3. Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã
hội doanh nghiệp (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
4. Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy tắc ứng xử của khách đặt hàng gây
nhầm lẫn cho doanh nghiệp, chẳng hạn như vấn đề làm thêm hay hoạt động của công
đoàn.
5. Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên thực
tế đang cản trở lợi ích thị trường tiềm năng mang lại cho doanh nghiệp.
6. Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước khiến cho việc áp dụng bộ quy tắc
ứng xử không đem lại hiệu quả mong muốn, ví dụ như mức lương, phúc lợi và các điều
kiện tuyển dụng
Những nguyên nhân được liệt kê ra trên đây có thể quy lại thành ba nguyên nhân chính,
đó là nguyên nhân về nhận thức,nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân pháp lý. Do đó, để
nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, cần bám sát những nguyên nhân nói trên để đề
ra những giải pháp phù hợp. Cụ thể là:
Thứ nhất, cần tuyên truyền, giáo dục cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là các
chủ doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, phải làm cho họ hiểu rằng
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không phải chỉ bó gọn trong công tác từ thiện.
Công tác tuyên truyền, giáo dục rất quan trọng, bởi tất cả những hành vi của con người
đều thông qua ý thức của con người, đều do ý thức của họ điều khiển. Do đó, vấn đề đặt
ra là, phải làm sao cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trở thành
động cơ bên trong của các chủ doanh nghiệp. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội trước
hết cần được xem là một hành vi đạo đức và được điều khiển bằng động cơ đạo đức.
Đây chính là giải pháp bên trong đạo đức.
Thứ hai, cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực
thi trách nhiệm xã hội một cách đầy đủ và nghiêm túc. Điều này liên quan đến trách
nhiệm của nhà nước trong việc tạo môi trường và khung pháp lý cho doanh nghiệp hoạt
động. Khung pháp lý chính là biện pháp có hiệu lực nhất đối với việc thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp; đồng thời, là giải pháp hỗ trợ đắc lực cho giải pháp về

đạo đức, làm cho các động cơ đạo đức thường xuyên được củng cố và ngày càng có hiệu
lực trên thực tế. Cái khó khăn cho Việt Nam và các nước đang phát triển nói chung là
trong bối cảnh cần phải thu hút đầu tư nước ngoài, nếu đặt nặng các mục tiêu về môi
trường và xã hội thì các doanh nghiệp khó có thể thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng, nếu
không đặt mạnh vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thì những hậu quả về môi
trường và xã hội sẽ không thể bù đắp được bằng các kết quả của sự tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu phát triển bền vững, do vậy, cũng không thể thực hiện được.
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 8
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Phần II: Thực trạng
I. Khái quát tình hình thực hiện giữa bộ tiêu chuẩn SA8000
1. Quá trình hình thành bộ tiêu chuẩn SA8000
a) Khái niệm SA 8000
SA 8000 là tiêu chuẩn đưa các yêu cầu về trách nhiệm xã hội do Hội đồng Công
nhận Quyền ưu tiên Kinh tế (nay là tổ chức Trách nhiệm Quốc tế SAI) được ban hành lần
đầu vào năm 1997. Cuối tháng 12 năm 2001, sau khi sửa đổi để thích hợp với sự thay đổi
môi trường lao động toàn cầu, tiêu chuẩn SA 8000 phiên bản 2001 đã ra đời. Đây là một
tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng nhằm cải thiện điều kiện làm việc trên toàn cầu, tiêu
chuẩn này được xây dựng dựa trên các Công ước của Tổ chức lao động Quốc tế, Công
ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em và Tuyên bố toàn cầu về Nhân quyền. Đây là
tiêu chuẩn tự nguyện và có thể áp dụng tiêu chuẩn này cho các nước công nghiệp và cho
cả các nước đang phát triển, có thể áp dụng cho các Công ty lớn và các Công ty có qui
mô nhỏ … Tiêu chuẩn SA 8000 là công cụ quản lý giúp các Công ty và các bên hữu quan
có thể cải thiện được điều kiện làm việc và là cơ sở để các tổ chức chứng nhận đánh giá
chứng nhận. Mục đích của SA 8000 không phải để khuyến khích hay chấm dứt hợp đồng
với các nhà cung cấp, mà cung cấp sự hỗ trợ về kỹ thuật và nâng cao nhận thức nhằm
nâng cao chất lượng điều kiện sống và làm việc đó chính là nguồn gốc sự ra đời của tiêu
chuẩn quốc tế SA 8000.
b) Nội dung của tiêu chuẩn SA8000

SA 8000:2001 bao gồm những yêu cầu cơ bản sau:
Lao động trẻ em: Không sử dụng lao động dưới 15 tuổi; hoặc mức thấp nhất là
dưới 14 tuổi ở các nước đang phát triển (theo công ước 138 của Tổ chức Lao động thế
giới, gọi tắt là ILO); ngoài giờ lao động, trẻ em phải được tạo điều kiện để tham dự các
chương trịnh giáo dục phổ thông.
Lao động cưỡng bức: Không sử dụng hoặc ủng hộ việc sử dụng lao động cưỡng
bức, cũng không được yêu cầu người lao động đóng tiền thế chân hoặc lưu giấy tờ tùy
thân cho chủ doanh nghiệp.
Sức khỏe và an toàn: Môi trường làm việc phải đảm bảo an toàn và vệ sinh; người
lao động được tham gia các khóa huấn luyện định kỳ về an toàn và vệ sinh; đảm bảo việc
cung cấp đầy đủ khu vực vệ sinh cá nhân cũng như nước uống phải luôn sạch sẽ.
Tự do hội họp và quyền thương lượng tập thể: Quyền được tự do lập và tham gia
công đoàn cũng như các thỏa ước tập thể; khi các quyền trên bị giới hạn bởi pháp luật sở
tại, người lao động có quyền được lập và tham các hội hay đoàn thể có tính chất tương
tự.
Sự phân biệt đối xử: Không phân biệt chủng tộc, đẳng cấp, nguồn gốc quốc gia,
tôn giáo, tật nguyền, giới tính, thành viên của nghiệp đoàn hoặc phe đảng chính trị,
không lạm dụng tình dục.
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 9
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Kỷ luật: Không áp dụng các biện pháp nhục hình về thể xác, tinh thần hoặc sỉ
nhục hay lạm dụng lời nói.
Thời gian làm việc: Phải phù hợp với luật pháp hiện hành, bất kỳ trường hợp nào,
người lao động không làm việc quá 48 giờ/ tuần và cứ 7 ngày làm việc thì phải sắp xếp ít
nhất 1 ngày nghỉ; nếu tình nguyện làm thêm ngoài giờ thì sẽ không quá 12 giờ/ tuần và
được chi trả đúng theo luật định.
Làm thêm ngoài giờ chỉ được chấp thuận khi người lao động tình nguyện hoặc khi đã
được qui định trong thỏa ước lao động tập thể.
Việc chi trả lương: Tiền lương trả cho thời gian làm việc chuẩn trong một tuần

phải phù hợp với qui định của luật pháp hoặc của ngành và phải đáp ứng đủ nhu cầu cơ
bản của người lao động và gia đình họ, không áp dụng việc trừ lương như là một hình
thức kỷ luật.
Hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội (gọi tắt là SMS): Cũng tương tự như các hệ
thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 và hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14000,
hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội được xây dựng dựa trên chu trình quản lý của
Deming PDCA. Phần này của tiêu chuẩn đưa ra các yêu cầu của hệ thống quản lý trách
nhiệm xã hội mà việc thực hiện tốt các yêu cầu này sẽ giúp doanh nghiệp kiểm soát có
hiệu quả các yêu cầu cơ bản về trách nhiệm xã hội nêu ở các phần trênSA8000 là một hệ
thống các tiêu chuẩn trách nhiệm giải trình xã hội để hoàn thiện các điều kiện làm việc
cho người lao động tại các doanh nghiệp, trang trại hay văn phòng, do Social
Accountability International (SAI) phát triển và giám sát. Hướng dẫn cụ thể để thực hiện
hay kiểm tra các tiêu chuẩn xã hội theo SA8000 có sẵn tại trang chủ của tổ chức này
(SA8000). SAI cũng đưa ra chương trình tập huấn SA8000 và các tiêu chuẩn làm việc
cho các nhà quản lý, công nhân và các nhà kiểm tra tiêu chuẩn xã hội. Tổ chức này cũng
hoạt động trong vai trò của nhà môi giới trung gian để cấp phép và giám sát các tổ chức
kiểm tra chính sách xã hội nhằm cấp chứng chỉ cho các người (doanh nghiệp) sử dụng
lao động đạt tiêu chuẩn SA8000 cũng như hướng dẫn để các doanh nghiệp đó phát triển
phù hợp với các tiêu chuẩn tương tác đã đưa ra.
SA8000 dựa trên Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về
quyền trẻ em của Liên hợp quốc và một loạt các công ước khác của Tổ chức lao động
quốc tế (ILO). SA8000 bao gồm các lĩnh vực sau của trách nhiệm giải trình:
Lao động trẻ em: Bao gồm các vấn đề liên quan đến lao động của trẻ em dưới 14
(hoặc 15 tuổi tùy theo từng quốc gia) và trẻ vị thành niên 14(15)-18.
Lao động cưỡng bức: Bao gồm các vấn đề liên quan đến lao động tù tội, lao động
để trả nợ cho người khác v.v
An toàn và sức khỏe tại nơi làm việc: Các quy định về vận hành, sử dụng máy
móc thiết bị, các điều kiện về môi trường như độ chiếu sáng, độ ồn, độ ô nhiễm không
khí, nước và đất, nhiệt độ nơi làm việc hay độ thông thoáng không khí, các theo dõi-
chăm sóc y tế thường kỳ và định kỳ (đặc biệt các chế độ cho lao động nữ), các trang

thiết bị bảo hộ lao động mà người lao động cần phải được có để sử dụng tùy theo nơi
làm việc, các phương tiện thiết bị phòng cháy-chữa cháy cũng như hướng dẫn, thời hạn
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 10
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
sử dụng, các vấn đề về phương án di tản và thoát hiểm khi xảy ra cháy nổ, an toàn hóa
chất (MSDS).
Quyền tham gia các hiệp hội: Công đoàn, nghiệp đoàn
Phân biệt đối xử: Các vấn đề về phân biệt đối xử theo các tiêu chuẩn tôn giáo-tín
ngưỡng, dân tộc thiểu số, người nước ngoài, tuổi tác, giới tính. Tiêu chuẩn SA8000
không cho phép có sự phân biệt đối xử.
Kỷ luật lao động: Các vấn đề liên quan đến các hình thức kỷ luật được phép và
không được phép (đánh đập, roi vọt, xỉ nhục, đuổi việc, hạ bậc lương, quấy rối tình dục
v.v)
Thời gian làm việc: Nói chung được đưa ra tương thích với các tiêu chuẩn trong
bộ Luật lao động của từng quốc gia cũng như các tiêu chuẩn của ILO về thời gian làm
việc thông thường, lao động thêm giờ, các ưu đãi về thời gian làm việc đối với lao động
nữ (trong hay ngoài thời kỳ thai sản và nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi).
Lương và các phúc lợi xã hội khác (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế v.v)
Quản lý doanh nghiệp: Các vấn đề về quản lý của giới chủ, bao gồm các vấn đề
liên quan đến quyền được khiếu nại của người lao động và nghĩa vụ phải trả lời hay giải
đáp khiếu nại của chủ.
c) Lợi ích của viêc áp dụng SA8000
- Khách hàng và người tiêu dùng tin rằng sản phẩm hay dịch vụ cung ứng đã được
sản xuất trong một môi trường làm việc an toàn và công bằng và tạo cơ sở để nâng cao
uy tín cũng như hình ảnh tốt đẹp về doanh nghiệp trên thương trường.
Lợi ích đứng trên quan điểm của nhà cung cấp:
- Trong môi trường kinh doanh khi mà vấn đề xã hội ngày có nhiều ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của tổ chức thì SA Việc đưa vào áp dụng SA 8000 sẽ mang lạI
nhiều lợi ích thiết thực cho các tổ chức mà cụ thể là:

Lợi ích đứng trên quan điểm của khách hàng:
Sử dụng sản phẩm được sản xuất từ một tổ chức có trách nhiệm cao đối với cộng
đồng và xã hội.
8000 chính là cơ hội để đạt được lợi thế cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng hơn và
xâm nhập được vào thị trường mới đồng thời đem lại cho Công ty cũng như các nhà quản
lý “Sự yên tâm về mặt trách nhiệm xã hội”.
Áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 sẽ giúp các tổ chức giảm được chi phí liên quan đến
tai nạn lao động, sức khỏe nghề nghiệp, … dẫn đến việc gia tăng năng suất lao động.
Tiêu chuẩn SA 8000 tạo cho Công ty có một chỗ đứng tốt hơn trong thị trường lao
động. Cam kết rõ ràng về các chuẩn mực đạo đức và xã hội giúp cho Công ty có thể dễ
dàng thu hút được các nhân viên được đào tạo và có kỹ năng, đây là yếu tố được xem là
“Chìa khóa cho sự thành công” đốI với mọi tổ chức.
Cam kết của Công ty về đảm bảo phúc lợi xã hội cho người lao động sẽ làm tăng
sự gắn bó và cam kết của họ đối với công ty.
d) Lịch sử hình thành SA8000
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 11
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Hội nghị này có đại diện của các tổ chức liên quan như: các hiệp hội, các tổ chức
phi lợi nhuận, các cơ quan lập pháp, các thương nhân, các công ty sản xuất, các tổ chức
tư vấn, đánh giá và chứng nhận. Toàn cầu hoá về thương mại quốc tế, tự do mậu dịch
này, nhiều tập đoàn mở rộng sản xuất sang các nước khác (nhất là các nước thế giới thứ
ba vì giá lao động rẻ) qua các hình thức đầu tư nước ngoài, hợp tác thương mại, chuyển
giao phát minh hoặc hợp tác với nhà thầu phụ tạo nên một chuỗi nhà cung ứng.
Trên cơ sở đó, khái niệm “trách nhiệm tập thể” được hình thành, các doanh nghiệp
nhận ra rằng Trách Nhiệm Xã Hội tác động trên hoạt động của họ và như vậy phát sinh
một hoạt động cơ bản là Nguyên Tắc Tình Nguyện Áp Dụng Chuẩn Mực Đạo Đức Trong
Kinh Doanh Toàn Cầu khởi xướng bởi Sullivan, General Motors năm 1970, áp dụng ở
Châu Phi trong chế độ Apartheid.
Nguyên tắc Mc Birde 1995 được ứng dụng rộng rãi trong các công ty Mỹ ở Bắc

Ireland hay “Luật Cư Xử Đạo Đức” (Ethical Codes Of Conduct) được các doanh nghiệp
tình nguyện áp dụng khi mà tình trạng lạm dụng lao động đang xảy ra ở nhiều nơi trên
thế giới như Hàn Quốc, Singapore, Hongkong, Đài Loan (những năm 1980), Philipine,
Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, (những năm 1985) và gần đây là Bangladesh,
Parkistan, Srilanka, Laos, Nepal, Viet Nam.
Những nguyên tắc hay luật này đều liên quan đến trách nhiệm về môi trường làm
việc, khái niệm cộng đồng, quyền con người bắt nguồn từ các Công Ước Quốc Tế Về
Lao Động.
Năm 1997 tiêu chuẩn SA 8000 được trình bày bởi một chuyên gia trong Ủy ban tư
vấn của hội nghị CEPAA (Concil on Economic Priorities
SA 8000 đã trở thành tiêu chuẩn toàn cầu về quyền lợi người lao động để giải
quyết các vấn đề liên quan đến người lao động.
Phiên bản SA 8000 ra đời năm 1997 và được liên tục xem xét để đảm bảo hiệu quả
và không mâu thuẩn với mục tiêu của tất cả các tổ chức. Tiêu chuẩn SA 8000 đang được
soát xét lại kể từ tháng 1-3/2001 và đến tháng 3/2001 bảng báo cáo lần chót về việc soát
xét đã được trình đến uỷ ban tư vấn của CEPAA. Dự định năm 2008 sẽ ban hành phiên
bản mới.
2. Khái quát tình hình thực hiện SA 8000 Ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có 551 đơn vị đạt tiêu chuẩn quản lý chất
lượng ISO 9000, 21 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 140000, nhưng
mới chỉ có rất ít doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý trách nhiệm xã hội và điều kiện lao
động SA 8000. Đây là một thực trạng đáng lo ngại, vì hiện tiêu chuẩn SA 8000 là một
trong 3 tiêu chuẩn (ISO 9000, ISO 140000 và SA 8000) được xem là bắt buộc để các
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá (đặc biệt là hàng dệt - may) sang thị trường
Mỹ và Châu Âu.
Theo quan điểm của nhiều chuyên gia kinh tế, việc thực hiện SA 8000 tại Việt
Nam có rất nhiều thuận lợi bởi những tiêu chuẩn của SA 8000 có nhiều điểm tương đồng
với các văn bản pháp luật và các chính sách liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người lao
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 12

Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
động. Nếu doanh nghiệp thực hiện tốt Bộ luật Lao động cũng như quy định của Nhà
nước thì đã đáp ứng gần như các tiêu chuẩn của SA 8000.
Các nhà quản lý ở các công ty đã áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 ở Việt Nam đều cho
rằng, xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn này không khó. Nền tảng của tiêu chuẩn này chính
là thực hiện tốt Bộ luật Lao động và xây dựng tác phong công nghiệp trong quản lý, sản
xuất, kinh doanh, tạo mối quan hệ tôn trọng đoàn kết, gắn bó giữa những người lao động.
Bộ luật Lao động Việt Nam cũng quy định cấm phân biệt đối xử, ngược đãi, cưỡng bức
người lao động và khống chế số giờ làm thêm (không quá 4 giờ/ngày và 200 giờ/năm)
SA 8000 quy định giờ làm việc chuẩn (8 giờ/ ngày hoặc 48 giờ/tuần). Những vấn đề về
kỷ luật lao động, tiền lương trong Bộ luật Lao động cũng được đề cập xử lý tương tự như
yêu cầu của SA 8000.
Qua một số nghiên cứu sơ bộ và khảo sát về việc áp dụng các tiêu chuẩn SA 8000
do nhóm nghiên cứu của Viện Kinh tế TP. Hồ Chí Minh tiến hành, việc áp dụng SA 8000
trong các doanh nghiệp Nhà nước có nhiều thuận lợi, bởi các doanh nghiệp Nhà nước
phải tuân thủ các nguyên tắc và các điều luật về lao động, vốn rất gần gũi với các quy
định của Luật Lao động quốc tế mà SA 8000 lấy đó làm nền tảng. Việc áp dụng SA 8000
trong các doanh nghiệp Nhà nước cũng giúp triển khai cụ thể và đi sâu vào khía cạnh
hiệu quả của hoạt động quản lý lao động, nên gặp rất nhiều thuận lợi và ủng hộ từ các
cấp quản lý cũng như ngay chính công nhân. Ngược lại, áp dụng SA 8000 trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tuy có phần khó khăn hơn, nhưng sức ép từ phía công ty
nhập khẩu sẽ là động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp này áp dụng SA 8000.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt
Nam có chính sách với người lao động tốt hơn so với yêu cầu của SA 8000. Thu nhập của
người lao động tại nhiều doanh nghiệp còn cao hơn mức tối thiểu không chỉ ở Việt Nam
mà còn ở khu vực. Nhưng hiện tại, số doanh nghiệp Việt Nam được chứng nhận đạt SA
8000 chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Trong nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân hàng
đầu là sự nhận thức: Nhiều doanh nghiệp chưa ý thức được sự cần thiết phải xây dựng
tiêu chuẩn này cho hội nhập, chưa nhận thức được rằng, ngày nay, các nhà nhập khẩu
nước ngoài chịu sức ép lớn từ các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức công đoàn, các

nhóm tư vấn và cả giới truyền thông. Lý do mà doanh nghiệp còn thờ ơ và chưa thực
hiện áp dụng tiêu chuẩn này vì họ không thấy được lợi ích thiết thực và lâu dài mà SA
8000 mang lại. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn khá mơ hồ về SA 8000.
Nhiều doanh nghiệp có ý định thực hiện, nhưng không biết bắt đầu từ đâu, kinh phí bao
nhiêu.
Những khó khăn chủ yếu trong việc áp dụng SA 8000 tại Việt Nam hiện nay là:
- Nhận thức của doanh nghiệp về SA 8000. Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam
đều nhìn nhận SA 8000 như một vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu tạo cắt giảm chi phí để
tăng lợi nhuận, không phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
- Các doanh nghiệp không muốn tiết lộ các ghi chép tài chính, đặc biệt trong các
doanh nghiệp tư nhân.
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 13
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
- Không có khả năng chi trả chi phí áp dụng SA 8000 (chi phí đánh giá, chi phí
thực hiện những thay đổi để áp dụng SA 8000). Nhiều công ty muốn được giám định
công khai, nhưng không đủ chi phí cho việc giám định.
- Sự cách biệt văn hoá giữa khách hàng và nhà cung cấp. Do các quy định đạo đức
của từng công ty thường được các công ty đa quốc gia áp đặt một chiều đối với các đơn
vị gia công, nên nội dung thực hiện của các tiêu chuẩn không phản ánh được nhu cầu và
giá trị địa phương. Việc này sẽ dẫn đến những khó khăn trong áp dụng SA 8000.
- SA 8000 là mục tiêu ít được ưu tiên, đặc biệt trong những thời điểm kinh tế suy
thoái. Ngay cả khi hệ thống SA 8000 hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn về lâu dài,
nhưng nhiều công ty vẫn không muốn đầu tư phục vụ nhu cầu trước mắt để thực hiện SA
8000.
- Thực tế của hoạt động gia công gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định khối
lượng công việc giám sát. Các công ty đa quốc gia sẽ đòi hỏi tất cả các nhà cung cấp và
đơn vị gia công thực hiện tiêu chuẩn SA 8000. Nhưng bản chất của hoạt động gia công
đảm đương phần lớn công đoạn sản xuất khác nhau tại các doanh nghiệp độc lập, làm
cho việc giám sát các hoạt động của doanh nghiệp và đòi hỏi các đơn vị gia công áp dụng

SA 8000 trở nên khó khăn.
Tuy nhiên, như đã phân tích, việc áp dụng SA 8000 không những đem lại nhiều lợi
ích trong cạnh tranh, mà còn là điều kiện tất yếu đối với các sản phẩm muốn hội nhập với
thị trường thế giới, nên dù còn nhiều khó khăn, việc xây dựng và áp dụng SA 8000 là
nhiệm vụ cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. SAI cũng đã có nhiều chương
trình để tuyên truyền, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu ở các nước đang phát triển trong
việc xây dựng và xin cấp chứng nhận SA 8000.
3. Quy trình chứng nhận phù hợp SA 8000
Về cơ bản, quy trình chứng nhận phù hợp SA 8000 không có gì khác biệt so với
chứng nhận ISO 9000 và ISO 14000.
Các doanh nghiệp mong muốn được chứng nhận phù hợp SA 8000 phải thực hiện
các hoạt động theo hướng dẫn 3 bước của SAI như sau:
Bước 1: Tìm hiểu, nghiên cứu nội dung quy định của SA 8000 và đề nghị được
chứng nhận, bao gồm:
- Nghiên cứu kỹ lưỡng SA 8000 và quy trình chứng nhận SA 8000;
- Đào tạo nội bộ về SA 8000;
- Liên hệ với tổ chức chứng nhận SA 8000 đã được SAI công nhận để có mẫu đơn đề
nghị chứng nhận;
- Nộp đơn đề nghị chứng nhận.
Bước 2: - Thực hiện chương trình phù hợp SA 8000, bao gồm:
- Thực hiện đánh giá nội bộ và các hành động hiệu chỉnh nội bộ cần thiết;
- Thực hiện các công việc và yêu cầu liên quan đến đánh giá tiền chứng nhận;
- Thực hiện các hành động hiệu chỉnh do các chuyên gia đánh giá của tổ chức chứng
nhận khuyến cáo sau khi đã đánh giá tiền chứng nhận;
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 14
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
- Nếu cần thiết, có thể đề nghị kéo dài thời gian đề nghị chứng nhận đến 2 năm.
Bước 3: - Đo lường hiệu quả, bao gồm:
- Đề nghị tổ chức chứng nhận đánh giá chứng nhận;

- Thực hiện các công việc và yêu cầu liên quan đánh giá chứng nhận;
- Thực hiện các hành động hiệu chỉnh (nếu cần thiết) và thông báo lại cho tổ chức chứng
nhận để thực hiện việckiểm tra lại;
- Được cấp chứng chỉ phù hợp SA 8000;
- Thực hiện các công việc và yêu cầu liên quan đến các đánh giá giám sát trong thời hạn
hiệu lực của chứng chỉ SA 8000.
(Để biết chi tiết hơn về những yêu cầu, cũng như những công việc cần thực hiện
liên quan đến áp dụng SA 8000 và chứng nhận phù hợp SA 8000, các doanh nghiệp có
thể tham khảo tài liệu hướng dẫn về SA 8000 do SAI ban hành).
Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc áp dụng SA 8000 và tiến tới được chứng
nhận phù hợp SA 8000 một cách thuận lợi, SAI đã đưa ra công cụ được gọi là Chương
trình ký kết áp dụng SA 8000 (SA 8000 Signatory Program). Việc tham gia chương trình
này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thể hiện cam kết chắc chắn và đáng
tin cậy của mình đối với việc phấn đấu thiết lập những điều kiện làm việc phù hợp với
những quy định của SA 8000 trong các chuỗi cung ứng. Để trở thành những bên tham gia
chương trình này, các công ty phải xác định được phạm vi hoạt động phù hợp với SA
8000, xây dựng kế hoạch và hệ thống quản lý để đạt được mục tiêu này và công bố báo
cáo hàng năm về kết quả đạt được trong tiến trình áp dụng SA 8000.
Những lợi ích của việc ký kết tham gia chương trình bao gồm quyền được sử dụng
logo đăng ký áp dụng SA 8000 (SA8000 signatory logo) và hướng dẫn về phương thức
liên hệ với các bên liên quan (ví dụ, trong hoạt động quảng cáo, quan hệ công cộng, xúc
tiến sử dụng các phù hiệu v.v ), được trợ giúp kỹ thuật trong việc áp dụng SA 8000 từ
phía SAI và các bên ký kết tham gia khác, được tiếp cận với các kết quả nghiên cứu và
biểu mẫu liên hệ, lập kế hoạch và các hệ thóng liên quan, được tiếp cận với các kết quả
nghiên cứu và biểu mẫu liên hệ, lập kế hoạch và các hệ thống liên quan, được cung cấp
miễn phí các ấn phẩm của SAI, được giảm phí đào tạo v.v
SAI hiện đang triển khai dự án về các hội thảo tư vấn quốc tế, nhằm vào các mục
tiêu: nâng cao nhận thức về SA 8000, thiết lập và nâng cao năng lực của các bên liên
quan và đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của những bên liên quan này vào quá trình
đánh giá. SAI cũng tổ chức các hội thảo tư vấn quốc tế nêu trên theo 5 khu vực có nền

sản xuất được định hướng vào xuất khẩu. Nam á, Đông Nam á, Nam Mỹ, Mê-hi-cô &
Trung Mỹ và Đông Âu.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng
trước nhiều thử thách trong việc tìm kiếm và thực hiện những chính sách phát triển,
nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập khu vực và tiến tới hội nhập
toàn cầu. Một trong những phương thức hữu hiệu luôn được các nhà sản xuất và người
bán lẻ áp dụng và ghi nhớ là chú trọng bảo vệ uy tín và giá trị của các thương hiệu nhằm
giữ vững thế cạnh tranh. Trên các thị trường lớn như Mỹ, Canađa và EU, người tiêu
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 15
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
dùng không chỉ quan tâm đến giá cả, chất lượng, mẫu mã, bao bì mà ngày càng quan
tâm hơn đến điều kiện làm việc của công nhân tạo ra các sản phẩm này và luôn bị lôi
kéo vào các chiến dịch quảng cáo, nhằm bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Do vậy, SA
8000 được xem là tiêu chuẩn “khẳng định giá trị đạo đức” của sản phẩm mà doanh
nghiệp Việt Nam cần thiết phải trang bị cho “hành trang” hội nhập của mình.
II. Thực trạng thực hiện SA 8000.
1. Giới thiệu tổng quan hệ thống trách nhiệm xã hội SA 8000.
SA 8000 được giới thiệu lần đầu năm 1997, phát triển dưới sự bảo trợ của CEPAA
(Council on Economic Priorities Accreditation Agency) và một nhóm các tổ chức bao
gồm: các tổ chức lao động, các tổ chức về quyền con người và quyền trẻ em, các học
viện, nhà phân phối, nhà sản xuất, nhà thầu khoán, cũng các nhà tư vấn, kế toán và công
ty kiểm định.
SA 8000 được thiết kế để trở thành tiêu chuẩn quốc tế có thể kiểm định. Trước hết, SA
8000 là tiêu chuẩn so sánh và đánh giá trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thứ đến,
SA 8000 thúc đẩyviệc đảm bảo quyền cơ bản của người lao động trong doanh nghiệp.
SA 8000 đặc biệt yêu cầu sự công khai trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.
CEPAA là cơ quan điều hành, nay được gọi là SAI (Social Accountability International),
được quyền uỷ nhiệm cho các tổ chức kiểm định độc lập đánh giá và giám sát sự tuân
thủ các tiêu chuẩn đề ra. Việc ủy nhiệm có giá trị trong vòng 3 năm, cùng với việc giám

sát và kiểm định 6 tháng một lần. Các tổ chức kiểm định này được cung cấp tài liệu
hướng dẫn và các khoá đào tạo chuyên môn.
Những công ty đáp ứng được tiêu chuẩn đề ra, sẽ được đăng ký bởi một tổ chức ủy
nhiệm. Sau đó, công ty có quyền sử dụng nhãn chứng nhận SA 8000. Để được chứng
nhận phù hợp với tiêu chuẩn SA 8000, tất cả các cơ sở kinh doanh phải chấp nhận được
kiểm định.
Sự chú ý của công chúng vào vấn đề nhân quyền và điều kiện lao động trong sản xuất
ngày một gia tăng. Nhiều công ty nắm bắt được lợi ích của việc áp dụng các chuẩn mực
đạo đức vào vận hành sản xuất, và họ đã đưa ra các quy tắc ứng xử riêng. Tuy nhiên,
chưa có sự nhất trí về việc thiết lập một chính sách trách nhiệm xã hội cụ thể. Vì vậy mà
các quy tắc đơn lẻ đó đều không tồn tại được lâu dài và không được giám sát chặt chẽ.
Mục đích ra đời của SA 8000 là nhằm tạo ra một bộ quy tắc toàn cầu đối với điều kiện
làm việc trong các ngành sản xuất, giúp cho người tiêu dùng ở các nước phát triển tin
tưởng rằng hàng hoá mà họ mua và sử dụng, đặc biệt là quần áo, đồ chơi, mỹ phẩm, và
đồ điện tử đã được sản xuất phù hợp với bộ tiêu chuẩn được công nhận.
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 16
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
2. Nội dung của SA 8000.
SA 8000 gồm 9 nội dung cơ bản mà các công ty phải tuân theo với điều kiện phù
hợp với pháp luật địa phương và với các điều khoản của SA 8000, dựa trên 12 hiệp ước
của ILO (International Labor Organization), dựa trên Tuyên ngôn về Quyền con người,
và hiệp ước về Quyền trẻ em của UN (United Nation).
Các nội dung này bao gồm
1. Lao động trẻ em: Không có công nhân làm việc dưới 15 tuổi, tuối tối thiểu cho
các nước đang thực hiện công ước 138 của ILO là 14 tuổi, ngoại trừ các nước đang phát
triển; cần có hành động khắc phục khi phát hiện bất cứ trường hợp lao động trẻn em nào.
2. Lao động bắt buộc: Không có lao động bắt buộc, bao gồm các hình thức lao động trả
nợ hoặc lao động nhà tù, không được phép yêu cầu đặt cọc giấy tờ tuỳ thân hoặc bằng
tiền khi được tuyển dụng vào.

3. Sức khoẻ và an toàn: Đảm bảo một môi trường làm việc an toàn và lành mạnh,
có các biện pháp ngăn ngừa tai nạn và tổn hại đến an toàn và sức khoẻ, có đầy đủ nhà
tắm và nước uống họp vệ sinh.
4. Tự do hiệp hội và quyền thương lượng tập thể: Phản ảnh quyền thành lập và
gia nhập công đoàn và thương lượng tập thể theo sự lựa chọn của người lao động.
5. Phân biệt đối xử: Không được phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, đẳng cấp,
tôn giáo, nguồn gốc, giới tính, tật nguyền, thành viên công đoàn hoặc quan điểm chính
trị.
6. Kỷ luật: Không có hình phạt về thể xác, tinh thần và sỉ nhục bằng lời nói.
7. Giờ làm việc: Tuân thủ theo luật áp dụng và các tiêu chuẩn công nghiệp về số
giờ làm việc trong bất kỳ trường hợp nào, thời gian làm việc bình thường không vượt quá
48 giờ/tuần và cứ bảy ngày làm việc thì phải sắp xếp ít nhất một ngày nghỉ cho nhân
viên; phải đảm bảo rằng giờ làm thêm (hơn 48 giờ/tuần) không được vượt quá 12
giờ/người/tuần, trừ những trường hợp ngoại lệ và những hoàn cảnh kinh doanh đặc biệt
trong thời gian ngắn và công việc làm thêm giờ luôn nhận được mức thù lao đúng mức.
8. Thù lao: Tiền lương trả cho thời gian làm việc một tuần phải đáp ứng đựoc với
luật pháp và tiêu chuẩn ngành và phải đủ để đáp ứng được với nhu cầu cơ bản của người
lao động và gia đình họ; không được áp dụng hình thức xử phạt bằng cách trừ lương.
9. Hệ thống quản lý: Các tổ chức muốn đạt và duy trì chứng chỉ cần xây dựng và
kết hợp tiêu chuẩn này với các hệ thống quản lý và công việc thực tế hiện có tại tổ chức
mình.
3. Thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp thiệt hay lợi .
Khách hàng nước ngoài khi mua hàng của DN Việt Nam, vẫn đặt yêu cầu
về trách nhiệm xã hội , nhưng rất nhiều DN băn khoăn vì đầu tư tốn kém.

SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 17
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Trách nhiệm xã hội trong quản lý DN, gọi chung là trách nhiệm xã hội (TNXH),
được hiểu là việc DN thực hiện các quyền lợi dành cho cán bộ công nhân viên, người lao

động nói chung. Đó là sự chăm sóc đến quyền lợi người lao động, từ điều kiện làm việc,
đến chăm sóc sức khỏe, sự tôn trọng, công bằng về tiền lương, tiền công, chăm sóc đời
sống tinh thần… Chứng chỉ SA8000 tập trung đề cao các nội dung này.

Hiện nay trên thế giới, TNXH là một yêu cầu khá khắt khe trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Mặc dù đây là hoạt động tự nguyện, nhưng do sự đề cao nên có những
nước đưa ra thành những quy định pháp luật. Liên hiệp quốc đã có 9 nguyên tắc quy định
về vấn đề này. Ủy ban châu Âu đã đưa ra “Văn bản xanh”, trong đó TNXH được hiểu
như là việc DN đưa các vấn đề xã hội và môi trường vào các hoạt động một cách tự
nguyện. Australia đã đề xuất bộ Luật về TNXH, Anh quốc hàng năm đưa ra kết quả
nghiên cứu và kèm theo đó là khuyến nghị của các Bộ ngành.
Tuy nhiên hiện tại, hoạt động này ở Việt Nam chưa được nhiều DN quan tâm.
Trước đây, các DN Việt Nam có thực hiện TNXH là do yêu cầu của đối tác là khách hàng
nước ngoài, khi khách hàng có yêu cầu. Ông Trần Ngọc Trung, giám đốc Trung tâm huấn
luyện và chuyển giao công nghệ quản lý của Hiệp hội Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, cho biết: khái niệm TNXH manh nha du nhập vào Việt Nam khoảng từ năm 1995,
khi Việt Nam tổ chức một Hội nghị quản lý ở Hà Nội. Từ việc “chữa cháy” là gặp đâu
làm đó, sai đâu sửa đó, chuyển dần sang xu thế “phòng ngừa”, khái niệm này bắt đầu
được DN chú ý tìm hiểu để thực hiện. Tuy nhiên đến nay, cũng chỉ có 1991 chứng chỉ
phù hợp với ISO 14000, một con số rất ít ỏi. Việt Nam vẫn chưa có một quyết định nào
của Nhà nước và giao vấn đề này cho cơ quan nào chịu trách nhiệm. Ông Trung cho
rằng, sức cạnh tranh của hàng Việt Nam bị yếu, cũng có một nguyên nhân từ đây.
Vì vậy, hiện tại ở Việt Nam nếu kể đến DN áp dụng tự giác và đã thành công trong
lĩnh vực này rất ít ỏi. Một số đã thực hiện tốt là các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam, như NIKE, Adidas, Columbia Sport, JC Penny. DN trong nước áp dụng thành công
được nêu làm ví dụ tiêu biểu như Coart Phong Phú, (sản xuất phụ liệu cho ngành dệt và
may mặc), Dệt Thành công, Giày Thái Bình không có nhiều. Giày Thái Bình đã xây
dựng chỗ ở cho 1.000 lao động, trong đó xây 500 căn hộ chung cư cho gia định người lao
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 18

Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
động. Hay như Dệt Thành Công là đơn vị đã đạt chứng chỉ SA8000, ấn tượng nhất ở DN
này là trong các cơ sở sản xuất của công ty đều được trang bị một hệ thống quạt hơi nước
đã làm lạnh, tạo không khí mát mẻ dễ chịu.
• Thiệt hay lợi
Đó là câu hỏi mà các DN băn khoăn nhiều nhất khi đả động đến vấn đề này. Ông
Nguyễn Thanh Bình, Phó Tổng Giám đốc công ty Dệt Thành Công, cho biết, khi khách
hàng nước ngoài đến công ty đặt hàng, vấn đề đầu tiên khách hàng quan sát là điều kiện
làm việc, sức khỏe công nhân, xử lý chất thải, nhà ăn, nhà vệ sinh… chứ không phải
kiểm tra chất lượng sản phẩm. Khách hàng Mỹ đặc biệt chú trọng điều này.

Trong một khảo sát của gần 100 DN ở Hà Nội và TP.HCM, nhiều DN đã nhận ra,
khi thực hiện TNXH, sẽ thu lại phần lợi trên một số điểm: thêm đối tác khách hàng, tăng
đơn hàng, thu hút được lao động; lợi ích lâu dài là người lao động gắn bó, giúp DN cải
tiến tốt hơn về phương pháp quản lý; sức khỏe người lao động bảo đảm sẽ cho hiệu quả
công việc cao hơn, chất lượng sản phẩm tăng, giảm sản phẩm hư, làm hạ giá thành sản
phẩm, nhờ đó nâng cao khả năng cạnh tranh về năng suất và chất lượng, tạo lợi thế cạnh
tranh, phát triển bền vững.

Tuy nhiên, theo các DN, việc thực hiện TNXH cũng là một thách thức không nhỏ.
Cũng trong đợt khảo sát nêu trên, các băn khoăn của DN đưa ra tập trung ở một số điểm,
trong đó hầu hết đều nêu ý kiến DN Việt Nam hầu hết ít vốn, thực hiện TNXH sẽ làm
tăng thêm chi phí đầu tư, tức tăng giá thành sản phẩm. Các yếu tố như: thiếu người thực
hiện, tốn thời gian, cộng với nhận thức của người lao động chưa thấu đáo, luật pháp
chưa có quy định… được xem như là thách thức, khiến DN e ngại.

Ông Trần Ngọc Tuệ, chuyên viên tổ chức phi chính phủ Action Aids Việt Nam,
cho biết, vì vậy, hầu hết các DN cho rằng TNXH như hoạt động từ thiện, hoặc thực hiện
một bộ quy tắc ứng xử (CoC) nào đó, một gánh nặng tốn kém, chứ không phải là trách
nhiệm của DN.


Phân tích về việc bỏ ra chi phí này, là chi phí hiển nhiên hay phải bỏ thêm tiền túi
của DN, bà Phan Thị Hải Yến, chuyên viên tổ chức TNXH quốc tế (SAI), một tổ chức
phi chính phủ tại Việt Nam, cũng là cơ quan chấp bút SA8000, cho rằng: Đây là quyền
lợi của người lao động, người lao động xứng đáng được hưởng. Vì vậy, thực hiện TNXH
là nghĩa vụ của DN phải thực hiện, nên không thể cho rằng DN phải bỏ tiền túi. Đó là
chưa kể, khi đầu tư vào đây, về trước mắt như lâu dài, DN thu lại nhiều lợi ích đặc biệt
khác.

Theo ông Trần Ngọc Trung, trong xu thế cạnh tranh và hội nhập hiện nay, việc
thực hiện TNXH là vấn đề không thể không thực hiện, vì vậy DN phải nghĩ đến ngay từ
bây giờ. Ông Trung cho biết, kinh nghiệm khi ít tiền các DN nên đầu tư trước vào việc
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 19
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
nâng cao nhận thức cán bộ công nhân, sắp xếp cải tạo điều kiện lao động, là những việc
làm chi phí thấp, nhưng có hiệu quả trong thời gian ngắn. Còn về lâu dài, việc đầu tư đầy
đủ để tiến tới nhận chứng chỉ SA8000 là việc cũng rất cần làm.
4. Quan điểm và nội dung của trách nhiệm xã hội trong lĩnh vực tiền lương
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực tiền lương là một trong
những nội dung cơ bản của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR – Corporate
Social Responsibility). Theo chúng tôi, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh
vực tiền lương là:
Sự tự cam kết của doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và thực hiện hệ thống
các quy định về quản lý tiền lương, bằng các phương pháp quản lý thích hợp, công khai,
minh bạch trên cơ sở tuân thủ pháp luật hiện hành;
Thực hiện các ứng xử trong quan hệ lao động nhằm kết hợp hài hoà lợi ích của
doanh nghiệp, người lao động trên cơ sở cùng chia sẻ lợi ích đạt được trong hoạt động
sản xuất – kinh doanh.
Thực hiện các trách nhiệm với khách hàng, người tiêu dùng, cộng đồng, xã hội

thông qua các hoạt động như đóng thuế đầy đủ (kể cả thuế thu nhập), giảm chi phí tiền
lương trên 1 đơn vị sản phẩm…
Trong một số bộ quy tắc ứng xử CoC (Code of Conduct) có quy định về vấn đề
tiền lương. Theo quy tắc ứng xử tại nơi làm việc của Hiệp hội lao động công bằng, người
sử dụng lao động phải đảm bảo tiền lương mà họ trả cho người lao động thoả mãn những
nhu cầu tối thiểu cơ bản nhất của người lao động. Người sử dụng lao động sẽ trả cho
người lao động, ít nhất bằng mức lương tối thiểu theo quy định của luật của nước sở tại
hoặc mức lương phổ biến của ngành, hoặc ở mức cao hơn, và những phúc lợi khác theo
quy định của pháp luật. Theo SA8000 của tổ chức SAI, lương tối thiểu phải đáp ứng nhu
cầu cơ bản cộng thêm 10% tích luỹ… Nhìn chung, các quy định về tiền lương trong các
bộ CoC về cơ bản giống nhau. Tổng hợp các quy định trong bộ CoC, có thể thấy nội
dung chủ yếu của trách nhiệm xã hội trong lĩnh vực tiền lương gồm:
Doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành của nước sở tại
trong vấn đề trả lương cho người lao động (trả không thấp hơn mức lương tối thiểu
chung hoặc của ngành; không được khấu trừ lương người lao động do kỷ luật…)
Tiền lương trong doanh nghiệp phải đảm tính công khai, minh bạch, dễ tính, dễ
hiểu.
Không được phân biệt đối xử khi trả lương
Các quy định về tiền lương, phúc lợi và thu nhập sáng tạo khác phải chi tiết rõ
ràng, phải đáp ứng đủ nhu cầu cơ bản cho người lao động.
Doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động
trên cơ sở các quy định của luật lao động, luật bảo hiểm xã hội. Việc đảm bảo này phải
được đề cập rõ trong thoả thuận hợp đồng lao động. Doanh nghiệp không được trốn tránh
việc này kể cả khi người lao động thi trợt các chương trình dạy nghề.
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 20
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
Gần đây, có một số ý kiến cho rằng thực hiện trách nhiệm xã hội, trong đó có lĩnh
vực tiền lương đòi hỏi phải có chứng chỉ như SA8000, WRAP, … Quan điểm này không
đúng, bởi ngay cả khi một doanh nghiệp chưa có chứng chỉ vẫn có thể thực hiện tốt trách

nhiệm xã hội. Chẳng hạn, doanh nghiệp chỉ cần thực hiện tốt các quy định của pháp luật
lao động về tiền lương hay một nội dung được đề cập trên đã có thể được coi là thực hiện
trách nhiệm xã hội trong lĩnh vực tiền lương.
III. Những khó khăn của công ty khi áp dụng SA 8000.
1. Khó khăn
Thái độ hờ hững của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam đều
nhìn nhận SA 8000 như một vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu tạo cắt giảm chi phí để tăng
lợi nhuận, không phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
Không muốn tiết lộ các ghi chép tài chính, đặc biệt trong các doanh nghiệp tư
nhân.
Không có khả năng chi trả chi phí áp dụng SA 8000. Đó là các chi phí đánh giá,
chi phí thực hiện những thay đổi để áp dụng SA 8000. Nhiều công ty muốn được giám
định công khai nhưng không đủ chi phí cho việc giám định.
Cách biệt văn hóa giữa khách hàng và nhà cung cấp. Do các quy định đạo đức của
từng công ty thường được các công ty đa quốc gia áp đặt một chiều đối với các đơn vị
gia công nên nội dung thực hiện của các tiêu chuẩn không phản ánh được nhu cầu và giá
trị địa phương. Việc này sẽ dẫn đến những khó khăn trong áp dụng.
Ít được ưu tiên, đặc biệt trong những thời điểm kinh tế xuống dốc. Ngay cả khi hệ
thống SA 8000 hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn về lâu dài, nhưng nhiều công ty vẫn
không muốn chi ra cho những nhu cầu trước mắt để thực hiện SA 8000.
Thực tế của hoạt động gia công gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định khối
lượng công việc giám sát. Các công ty đa quốc gia sẽ đòi hỏi tất cả các nhà cung cấp và
đơn vị gia công thực hiện theo tiêu chuẩn SA 8000. Nhưng bản chất của hoạt động gia
công đảm đương phần lớn công đoạn sản xuất khác nhau tại các doanh nghiệp độc lập
làm cho việc giám sát các hoạt động của doanh nghiệp trở nên khó khăn.
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 21
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
2. Thành quả của việc áp dụng SA 8000 mang lại.
Khách hàng và người tiêu dùng tin rằng sản phẩm hay dịch vụ cung ứng đã được

sản xuất trong một môi trường làm việc an toàn và công bằng và tạo cơ sở để nâng cao
uy tín cũng như hình ảnh tốt đẹp về doanh nghiệp trên thương trường.
Lợi ích đứng trên quan điểm của nhà cung cấp:
Trong môi trường kinh doanh khi mà vấn đề xã hội ngày có nhiều ảnh hưởng đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức thì SA Việc đưa vào áp dụng SA 8000 sẽ
mang lạI nhiều lợi ích thiết thực cho các tổ chức mà cụ thể là:
Lợi ích đứng trên quan điểm của khách hàng:
Sử dụng sản phẩm được sản xuất từ một tổ chức có trách nhiệm cao đối với cộng
đồng và xã hội.
8000 chính là cơ hội để đạt được lợi thế cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng hơn và
xâm nhập được vào thị trường mới đồng thời đem lại cho Công ty cũng như các nhà quản
lý “Sự yên tâm về mặt trách nhiệm xã hội”.
Áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 sẽ giúp các tổ chức giảm được chi phí liên quan đến
tai nạn lao động, sức khỏe nghề nghiệp, … dẫn đến việc gia tăng năng suất lao động.
Tiêu chuẩn SA 8000 tạo cho Công ty có một chỗ đứng tốt hơn trong thị trường lao
động. Cam kết rõ ràng về các chuẩn mực đạo đức và xã hội giúp cho Công ty có thể dễ
dàng thu hút được các nhân viên được đào tạo và có kỹ năng, đây là yếu tố được xem là
“Chìa khóa cho sự thành công” đốI với mọi tổ chức.
Cam kết của Công ty về đảm bảo phúc lợi xã hội cho người lao động sẽ làm tăng
sự gắn bó và cam kết của họ đối với công ty.
Phần III. Ý kiến, giải pháp
I. Ý kiến đề xuất
Hiện nay nhiều công ty, doanh nghiệp không áp dụng tiêu chuẩn SA8000 vì
vậy các công ty doanh nghiệp nên áp dụng tiêu chuẩn này
II. Giải pháp kiến nghị
Các công ty doanh nghiệp nên áp dung tiêu chuẩn SA8000 để thu hút sự nhìn
nhận ,tin tưởng và trung thành cỉa người lao động.
Áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 nhằm giúp doanh nghiệp cạnh tranh công bằng
III. Kết luận
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là vấn đề tương đối mới mẻ với Việt Nam.

Song, trong những năm gần đây, trước thảm họa về môi trường và những hậu quả tiêu
cực về xã hội do các doanh nghiệp gây ra, vấn đề trách nhiệm xã hội được đặt ra một
cách cấp bách. Ở Việt Nam, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hoàn
toàn phù hợp với mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững. Để thực hiện trách nhiệm
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 22
Chuyên đề chuyên sâu GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam, thì việc tuyên truyền, giáo dục trách nhiệm xã hội
và việc hoàn thiện hành lang pháp lý để thực hiện nó là việc làm cấp thiết.
Tài liệu tham khảo
1. Bài giảng của thầy
2. Tài liệu trên mạng : trang wed : crs.com.vn, dddn.com.vn
3. Tham khảo tài liệu ở các công ty doanh nghiệp
SVTH: Đoàn Thị Mỹ Trinh
Trang 23

×