Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

đề tài lạm phát và các giải pháp nhằm hạn chế và kiểm soát lạm phát ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.18 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
2
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt như
hiện nay để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế
cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền
kinh tế mới. Một trong những vấn đề kinh tế nổi cộm hiện nay là lạm phát. Lạm phát như
một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu
tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt kết quả khả quan. Kiểm soát lạm
phát là nhiệm vụ của Chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
đến đời sống xã hội, đặc biệt là tầng lớp lao động. Ở Việt Nam hiện nay, kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội là mục tiêu rất quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Tiểu luận với đề tài: “Lạm phát và các giải pháp nhằm hạn chế và kiểm soát
lạm phát ở Việt Nam hiện nay” do Nhóm 9 thực hiện xuất phát từ vấn đề nghiên cứu
lạm phát là cần thiết, cấp bách, mang tính thời sự hiện nay.
Với lượng kiến thức còn hạn chế, nhóm em thiết nghĩ quan tâm nghiên cứu đến
đề tài cũng là một phương pháp tìm hiểu nó một cách thấu đáo, sâu sắc hơn. Trong quá
trình thực hiện không thể tránh khỏi sai sót. Mong Thầy cho nhận xét, đánh giá để giúp
chúng em có thể hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy !
Nhóm thực hiện
Nhóm 9
3
I/ Vấn đề chung về lạm phát
Khái niệm:
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền
tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì
người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia,
còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị


trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh
cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm
phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả".
Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu
được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí
kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với
nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp
các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức
giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ
số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá
trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích
thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số
này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ
thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ
số lạm phát bao gồm:
Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh
hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả
định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một
CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên
lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản
ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng
dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
4
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu
dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự
thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường
hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do

những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc
cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá
cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của
CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi
lạm phát đã xảy ra).
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi
nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không
bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển
hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều
người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm
phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các
chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch
vụ.
Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa
chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi
nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là
tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc,
từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem
thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi
nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu
dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu
dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm
phát của mình.
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ
cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm
2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước

đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí
tiêu dùng cá nhân".
5
Các loại lạm phát phân theo mức độ
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm
phát. Nếu phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế thường phân
biệt 4 loại lạm phát: thiểu phát, lạm phát thấp, lạm phát cao (lạm phát phi mã) và siêu lạm
phát.
Thiểu phát: Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn
trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với
giảm phát. Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở
xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức
3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ
quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản,
thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa
phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát
ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là
thiểu phát.
Lạm phát thấp: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 13 phần
trăm một năm.
Lạm phát cao (Lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong
phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn
thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang nề kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những
năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho
nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi
người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng
hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và

tích lũy của cải.
Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả
tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát
được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười
Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày
thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15
cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức
6
sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên đến
70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng
tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên
10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến
mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức
quốc xã và Thế chiến thứ hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ
xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát
có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự
căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc
khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm
phát ở một số nước Mỹ La-tinh.
Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó
là: (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa trong
nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín
dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và (4) lãi suất, tiền
công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới
100 phần trăm.
Các hiệu ứng từ lạm phát
Các hiệu ứng tích cực
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá
mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để

miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế
mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà
sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
Các hiệu ứng tiêu cực
Đối với lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia
vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất
cho xã hội:
Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi
suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người
ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng
để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn
7
thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều
hơn so với không có lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ
mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm
phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh
nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của
doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do
nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến
tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn
của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ:
trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa
tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu
nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo
trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các

cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các
cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất
danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay
bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay
chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác
động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực
của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không
đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi
lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải
giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các
nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
8
1. Thực trạng lạm phát Việt Nam hiện nay
Nhìn chung, lạm phát ở nước ta từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khá cao. Từ năm
2007 đến nay, lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 khoảng 7,1%, trong khi đó lạm phát bình quân
hàng năm khoảng gần 11%.
Mức lạm phát nói trên ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với lạm phát của các nước
trong khu vực. Ví dụ, lạm phát bình quân hàng năm ở Trung Quốc giai đoạn 2006-2009
khoảng 3%, ở Indonesia khoảng 8,4%, Thái Lan khoảng 3,1%, Malaysia khoảng 2,7% và
Philipine khoảng 5,8%,v.v
Cuối tháng 12 /2011, Tổng cục Thống kê Việt Nam chính thức thông báo tỷ lệ
tăng chỉ số giá tiêu dùng của năm 2010 là 11,75%, cao hơn chỉ tiêu do Quốc hội đề ra
năm gần 5%.
Qua tới năm 2011, trong bốn tháng đầu năm, lạm phát ở nước ta vẫn ở mức cao và
diễn biến phức tạp.
Lạm phát cuối tháng 4 năm 2011 so với tháng 12 năm 2010 đã tăng 9,64%; tăng

17,51% so với tháng 4 năm 2010; lạm phát 4 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỹ năm
2010 đã tăng 13,95%. Mức lạm phát có thể lên đến 20% trước khi giảm xuống 13% vào
cuối năm theo một dự kiến của Vietnam Property Fund Ltd. [3] Nhiều người e sợ rằng
Việt Nam trở lại tình trạng lạm phát phi mã gần 30% vào năm 2008. Trong khi đó nhà
nước nhắm duy trì lạm phát ở mức tối đa là 7% cho cả năm 2011. Điều này xem ra không
thể nào thực hiện được trên thực tế.
9
Biểu đồ: CPI Việt Nam 2007 – 4/2011
Lạm phát 4 tháng đầu năm nay ở nước ta cũng cao hơn nhiều so với các nước khác
trong khu vực. Ví dụ, lạm phát tháng 3 năm nay ở Trung Quốc là 5,4% so với cùng kỳ
năm ngoái; còn lạm phát quý I năm nay ở Indonesia có thể tăng lên 7,1%, ở Phillipine là
4,9%, Thái Lan là 4% và Malaysia là khoảng 2,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) vừa mới công bố báo cáo triển vọng kinh tế thế giới,
theo đó mức tăng trưởng dự báo cho nền kinh tế Việt Nam năm 2011 là 5,8% cùng với
lạm phát kỳ vọng 19%. Năm 2012, dự kiến khả năng kiềm chế lạm phát của Việt Nam sẽ
tốt hơn, mức tăng giá sẽ trong khoảng 12% và tăng trưởng kinh tế là 6,3%.
2. Tác động:
Lạm phát cao, kéo dài trong nhiều năm liên tục đã gây nhiều tác động tiêu cực đến
sản xuất và đời sống của người dân. Lạm phát cao là một trong các biểu hiện của bất ổn
kinh tế vĩ mô.
Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô là bất lợi lớn đối với khuyến khích và thu
hút đầu tư; làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta kém cạnh tranh hơn so với các nước
khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận;
làm cho các kế hoạch đầu tư trung và dài hạn trở nên rủi ro hơn và không dự tính được
một cách chắc chắn. Hệ quả là, các doanh nghiệp nói chung không những phải cắt giảm
đầu tư phát triển, mà có thể phải cắt giảm cả quy mô sản xuất hiện hành để đối phó với
lạm phát cao.
10
Thực tế cho thấy, lượng vốn FDI đăng ký bốn tháng đầu năm nay chỉ bằng 52%
của cùng kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, số doanh nghiệp đăng ký

mới và số vốn đăng ký đã giảm xuống, chỉ bằng khoảng 75% của cùng kỳ năm ngoái.
Điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu cũng cho thấy chỉ số lạc quan kinh doanh
của các doanh nghiệp thành viên ở Việt Nam trong quý I/2011 đã giảm đáng kể. Lạm
phát cao (nhưng tiền lương và thu nhập bằng tiền khác của người lao động không tăng lên
tương ứng) đã làm cho thu nhập thực tế của họ giảm xuống. Ví dụ, trong hai năm qua,
lạm phát đã làm cho thu nhập thực tế của người lao động mất hơn 20%; từ đó, đời sống
của đa số dân cư đã trở nên khó khăn hơn nhiều so với trước đây. Lạm phát cao làm giảm
giá trị thực của đồng tiền nội tệ, làm xói mòn giá trị số tiền tiết kiệm của dân chúng; làm
giảm lòng tin và mức độ ưa chuộng của người dân trong việc nắm giữ và sử dụng đồng
nội tệ. Điều đó vừa gây áp lực thêm đối với lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô trước mắt, vừa
làm xói mòn nền tảng phát triển lâu dài trong trung và dài hạn.
Nguyên nhân
Lạm phát về thực chất là sự mất giá của đồng tiền so với hàng hóa, dịch vụ, với
nguyên nhân tổng quát là mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu, mà biểu hiện của nó là
mất cân đối tiền-hàng: tổng cung cao hơn tổng cầu, tiền nhiều hơn hàng thì lạm phát (còn
tổng cung ít hơn tổng cầu, tiền ít hơn hàng thì thiểu phát).
Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát bao gồm những yếu tố tác động đến hai vế của
quan hệ cân đối này, tức là các yếu tố tác động đến tổng cung, đến hàng và các yếu tố tác
động đến tổng cầu, đến tiền.
Xét theo các mặt này, thì các nguyên nhân của lạm phát thời gian qua bao gồm các
yếu tố sau.
1. Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng,
hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập
siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp.
Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà
còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát )
và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô ).
Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 34,9% trong thời kỳ 1996-2000 lên 39,1% trong thời
kỳ 2001-2005 và lên 43,5% trong thời kỳ 2006-2010. Tiêu dùng cuối cùng/GDP của
Việt Nam đã tăng tương ứng từ 71,1% thời kỳ 2001-2005 lên 72,2% thời kỳ 2006-2010.

11
Đây là tỷ lệ cao so với một số nước (năm 2009 của Việt Nam là 72,8%, trong khi
của Brunei là 47%, Trung Quốc 48,7%, Singapore 52,4%, Malaysia 64%, Indonesia
68,2%, Thái Lan 68,3%, Ấn Độ 69,6%, Hàn Quốc 70,3% ).
Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô
GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; nhưng
có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ
phận dân cư.
Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua
các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ
2001-2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010).
Trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó
đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu lớn như
thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và
nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài
nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công,
lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép,
chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu
dùng có kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy
nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm lên đến mấy tỷ USD.
2. Nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư và năng suất lao
động thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và tăng lên qua các thời kỳ
(thời kỳ 1996-2000 là 5 lần, thời kỳ 2001-2005 lên 5,2 lần, thời kỳ 2006-2010 lên 6,2 lần,
cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực).
Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư của Việt Nam từ năm 2003 trở về trước ở
mức trên dưới 57%, từ 2004 đã giảm xuống nhưng vẫn ở mức trên dưới 40%, trong khi
ICOR của khu vực này cao gấp rưỡi hệ số chung của cả nước.
Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ
tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước (năm
2008 của Nhật Bản 73.824 USD, Brunei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc

38.235 USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD,
Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD ).
3. Tổng thu ngân sách/GDP của Việt Nam thuộc loại khá cao (mấy năm nay đạt
trên dưới 28%), nhưng thu từ dầu thô, từ hải quan, thu từ đất đai là những khoản không
trực tiếp phản ánh hiệu quả kinh tế và có xu hướng giảm (thu từ dầu thô năm 2005 chiếm
12
29,2%, 6 tháng đầu năm 2011 chiếm 13,9%; thu từ hải quan, tương ứng chiếm 16,7% và
22,5%; thu từ đất đai chiếm khoảng 6-7%).
Bội chi ngân sách/GDP từ năm 2006 trở về trước ở mức thấp, nhưng từ năm 2007
đến nay ở mức cao, tuy đã có xu hướng giảm xuống trong vài năm nay, nhưng vẫn thuộc
loại cao. Trong tổng chi ngân sách, tỷ trọng chi cho đầu tư, chi cho lĩnh vực xã hội là cần
thiết, nhưng thuộc loại cao, nhất là chi cho đầu tư công-thể hiện Nhà nước còn “ôm”
nhiều quá mà cần khuyến khích các nguồn lực xã hội.
4. Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm phát. Tốc độ
tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP.
Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi GDP chỉ
gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến trên 6,2 lần-một
hệ số rất cao. Do vậy, dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi con số
tương ứng của nhiều nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng tổng phương
tiện thanh toán, mà tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam không chỉ là tiền đồng mà
còn có vàng, có ngoại tệ.
t 5. Tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với lạm phát
trên 4 mặt.
- Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp cho
sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền.
- Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh
toán tăng lên.
- Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác động tới
nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm
lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ

- Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát ở
trong nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của thế
giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND.
6. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường là tất
yếu, đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. Tuy nhiên, kết quả
của việc thực hiện lộ trình này nếu thực hiện dồn dập cùng một lúc sẽ tạo ra mặt bằng giá
mới cao hơn, như đã từng xảy ra trong thời kỳ lạm phát phi mã, hay vào tháng 2-3 vừa
qua.
7. Giá cả thế giới tăng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đối với lạm
phát ở trong nước xét trên các góc độ khác nhau.
13
- Tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá cao
(năm 1992 đạt 51,6%, năm 1995 đạt 65,4%, năm 2000 đạt 96,5%, năm 2005 đạt 130,8%,
năm 2010 đạt 154,4%, khả năng năm 2011 sẽ còn cao hơn)-tức là có độ mở khá cao,
đứng thứ 5 thế giới-nên biến động giá cả trên thế giới sẽ tác động nhiều đến biến động
giá ở Việt Nam hơn các nước khác.
- Giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VND tăng kép:
vừa tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa tăng do tính bằng VND tăng.
8. Ngoài ra, cũng cần tính đến sự chuyển động của dòng tiền giữa các kênh đầu
tư. Từ quý II/2007, thị trường chứng khoán sau khi lên đỉnh đã đao xuống mạnh, làm cho
một lượng tiền lớn từ kênh này chuyển sang làm cho giá bất động sản bốc lên và giá tiêu
dùng tăng cao vào cuối năm 2007, đạt đỉnh điểm vào năm 2008.
Giá vàng, giá bất động sản tăng cao vào năm 2009, đầu năm 2010 cũng đã hút
một lượng tiền lớn vào đây, nên CPI cũng tăng chậm lại. Từ cuối 2010, chứng khoán và
bất động sản đều giảm, góp phần làm cho sức ép tăng giá tiêu dùng cao lên. Sự chuyển
động của dòng tiền giữa các kênh cũng góp phần tạo lên sự cộng hưởng và chia sẻ dòng
tiền với thị trường tiêu dùng.
Như vậy, lạm phát ở Việt Nam do nhiều yếu tố. Các giải pháp kiềm chế lạm phát
cần tác động vào các yếu tố đó.
4. Giải pháp nhằm hạn chế và kiểm soát lạm phát

Để đối phó với lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã ban hành và
thực thi Nghị quyết số 11/2010/NQ-CP ngày 24 tháng 2 năm 2011 về kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Ngày 16 tháng 3 năm 2011, Bộ Chính
trị ra Kết luận số 02-KL/TW về tình hình kinh tế-xã hội năm 2011. Kết luận của Bộ chính
trị cũng đã nhấn mạnh đến tập trung ưu tiên hàng đầu là việc kiềm chế lạm phát; ổn định
kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của
năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo. Hàng loạt các giải
pháp cụ thể đã dược các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện, như: thắt chặt tín
dụng, giảm cung tiền tệ, tăng lãi suất, điều chỉnh tỷ giá, quản lý chặt chẽ thị trường vàng,
quản lý, kiểm soát chặt hoạt động thị trường ngoại tệ phi chính thức, rà soát, cắt, hoãn,
giảm và điều chuyển vốn đầu tư nhà nước, thực hiện trợ cấp cho các tầng lớp, nhóm dân
cư thu nhập thấp, ưu tiên tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho nông nghiệp và
nông thôn, cho xuất khẩu, lập danh mục hạn chế nhập, giảm nhập khẩu, giảm thâm hụt
cán cân thanh toán,.v.v…Cụ thể như sau:
14
Về chính sách tiền tệ : mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị
đồng nội trên cơ sở kiểm soát lạm phát . Chúng ta đều biết vấn đề quan trọng là kiểm soát
lạm phát chứ không phải triệt tiêu nó ví tỉ lệ lạm phát vừa phải sẽ có những tác động tích
cực lên nền kinh tế. Trách nhiệm này thuộc về NHNN, thông qua các công cụ của chính
sách tiền tệ của mình NHNN sẽ phải cố gắng điều tiết mức cung tiền cho hợp lý. Vì vậy
vấn đề nâng cao trình độ của các nhà hoạch định chính sách cũng rất quan trọng.
Về chính sách tài khoá : đối với nước ta hiện nay thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn
bộ máy nhà nước, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực hiện tốt biện pháp này sẽ
góp phần to lớn vào việc cắt giảm chi tiêu thường xuyên của Chính phủ , trên cơ sở đó
làm giảm bội chi ngân sách nhà nước.
Các giải pháp nói trên đã đạt được những kết quả ban đầu như tỷ giá có xu hướng
ổn định dần; thị trường ngoại tệ phi chính thức giảm về quy mô và mức độ hoạt động;
cung-cầu ngoại tệ bớt căng thẳng hơn; quy mô thị trường vàng tự do được thu hẹp đáng
kể, nhất là vàng miếng; việc sử dụng vàng làm phương tiện đầu cơ, làm phương tiện
thanh toán cũng giảm hẳn,.v.v…

Tuy vậy, việc triển khai Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết Luận số 02-
KL/TW cho đến nay còn có một số khiếm khuyết sau đây:- Các giải pháp về tiền tệ đã
được thực hiện khá quyết liệt, bám sát nội dung và tinh thần Nghị quyết số 11/2011/NQ-
CP và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị.
Tuy vậy, một số giải pháp, nhất là giải pháp về lãi suất đã tỏ ra là chưa thật hợp
lý Khác với chính sách tiền tệ, các giải pháp về tài khóa chưa được thực hiện đúng theo
yêu cầu của Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị;
và chưa có tác dụng đáng kể. Các địa phương, các ngành vẫn khởi công mới hơn 5000 dự
án mới với số vốn được phân bố hơn 22 nghìn tỷ đồng. Vốn đầu tư phát triển từ ngân
sách nhà nước 4 tháng đầu năm vẫn tăng hơn 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Số vốn đầu
tư được báo cáo là sẽ cắt giảm, đình hoãn và điều chuyển vẫn còn thấp hoặc chưa đủ độ
tin cậy. Danh mục cụ thể các dự án được cắt giảm vẫn chưa được xác định cụ thể và công
bố công khai. Cũng tương tự như vậy đối với danh mục các dự án sẽ được bổ sung thêm
vốn từ việc điều chuyển vốn từ các dự án bị cắt giảm. Một lần nữa, có sự thiếu hụt đáng
kể trong phối hợp cần có giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong cuộc chiến
chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. – Các giải pháp được thực hiện cho đến nay còn
mang nặng tính hành chính, ngắn hạn và tình thế; chưa đặt trong tổng thể các giải pháp
đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế; nên chưa hướng đến giải
quyết nguyên nhân cơ bản của lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP của Chính phủ và Kết luận số 02-KL/TW của Bộ chính trị
được đánh giá là phù hợp để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Thực hiện các
15
biện pháp chống lạm phát, bên cạnh các kết quả bước đầu, cũng đã gây ra một số khó
khăn ngắn hạn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, như lãi suất vay vốn cao,
khó tiếp cận vốn tín dụng, tiêu thụ hàng hóa khó khăn, tốc độ tăng trưởng năm nay sẽ
thấp hơn so với chỉ tiêu kế hoạch v.v…. Tuy vậy, về trung và dài hạn, thì lạm phát thấp,
ổn định kinh tế vĩ mô một cách lâu dài và vững chắc là điều kiện cần thiết không thể
thiếu cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, phải tiếp tục kiên trì và nhất
quán thực hiện đầy đủ nội dung, tinh thần Nghị quyết 11 của Chính phủ và Kết luận số 02
của Bộ Chính trị không chỉ trong năm 2011 và cả trong nhiều năm tiếp theo. Mục tiêu cụ

thể trong ba năm tới là phải giảm được lạm phát hàng năm và giữ ổn định mức lạm phát ở
mức khoảng 5%. Phải giảm chi tiêu, nhất là chi đầu tư nhà nước để giảm bội chi ngân
sách; qua đó, phối hợp và hỗ trợ tốt hơn, hiệu quả hơn với chính sách tiền tệ và tỷ giá để
chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh các giải pháp nói trên, phải khởi động ngay các giải pháp kích hoạt quá
trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong đó, trọng tâm là đổi mới
cơ chế phân bố và sử dụng nguồn lực theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả và năng
lực cạnh tranh. Theo tinh thần đó, trong năm 2011 cần triển khai nghiên cứu, soạn thảo
Luật Quản lý đầu tư nhà nước, Luật sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách nhà nước, Luật sửa
đổi, bổ sung Luật Đất đai, Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư, Đề án đổi mới toàn diện cơ
chế quản lý DNNN, thực hiện triệt để, đầy đủ và nhất quán kết quả Đề án 30 về đơn giản
hoá thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực quản lý nhà nước.
Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô
như sau:
- Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị
trường tiền tệ để ổn định lãi suất nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp có nhiều yếu tố bất lợi làm cho chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tăng vượt khỏi tầm kiểm soát,cần áp dụng kịp thời các giải pháp thắt chặt tiền tệ
trên cơ sở sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm
soát tín dụng, đồng thời tiếp tục sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ chủ đạo
trong việc điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó lãi suất nghiệp vụ
thị trường mở được điều chỉnh tăng trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường để phát tín
hiệu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng và thúc đẩy các tổ chức tín dụng tập trung
huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư.
- Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát cung cầu về ngoại tệ
trên thị trường, đảm bảo tỷ giá danh nghĩa bám sát tỷ giá thực, không để xảy ra các cú
sốc đột biến về tỷ giá; tiếp tục phát triển các công cụ phòng chống rủi ro trên thị trường
ngoại hối; phối hợp việc điều hành tỷ giá và điều hành lãi suất nhằm đảm bảo mối quan
16
hệ hợp lý giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất ngoại tệ tránh gây tác động xấu thị trường

ngoại hối đối với phát triển kinh tế. Ngoài ra, NHNN cần củng cố hoạt động hệ thống
ngân hàng thương mại an toàn, lành mạnh, hiện đại và bền vững hơn thông qua việc sửa
đổi các quy định về mở văn phòng, chi nhánh, về phân loại nợ đọng và trích lập rủi ro tín
dụng
- Sử dụng công cụ hạn ngạch, thuế để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu mặt
hàng có thể gây biến động giá trong nước như gạo, sắt thép, phân bón, chất dẻo ; đồng
thời thực hiện tốt dự trữ các mặt hàng trên để can thiệp thị trường trong nước khi xảy ra
những biến động do thiên tai, và giá cả thế giới lên cao.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý thị trường, hệ thống phân phối để tránh
đầu cơ, đẩy giá lên cao, đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh,
ban hành và tổ chức thực hiện quy chế kinh doanh đối với một số vật tư, hàng hoá quan
trọng như xi măng, sắt thép, phân bón, điện, than, thuốc chữa bệnh để khắc phục tình
trạng đầu cơ, mua bán lòng vòng, lũng đoạn thị trường…
- Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách
tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng
cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy,
trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng
một lúc. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, thông thường Ngân hàng Trung ương cần phải thực hiện chính sách
tiền tệ nới lỏng, hạ thấp lãi suất chủ đạo, mở rộng cửa cung ứng tiền cho nền kinh tế, tăng
cường khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Song bên cạnh việc kinh tế tăng trưởng theo ý muốn, thì lạm phát có thể tăng cao. Vì vậy,
trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, thông thường ít khí đạt được hai mục tiêu cùng
một lúc.
- Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá NHNN,
nâng cao tính độc lập của NH trung ương trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền
tệ và sự bền vững của hệ thống ngân hàng còn nhiều rủi ro; đẩy mạnh cải cách tài chính
công theo hướng phân công, xác định trách nhiệm của các cơ quan, trách nhiệm giải trình

đảm bảo công khai minh bạch; đẩy mạnh xã hội hoá kinh tế, xã hội. Ngoài ra, phải phát
triển thị trường vốn, tài chính phục vụ hiệu quả đầu tư phát triển, tăng cường kiểm soát
chặt chẽ đầu tư gián tiếp, khuyến khích đầu tư dài hạn.
- Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, thực hiện
các cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA, cam kết gia nhập WTO, nên thị
17
trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc tế. Trong quá trình đó, Việt Nam
được hưởng lợi từ giá cả xuất khẩu các mặt hàng có khối lượng lớn, thì cũng bị ảnh
hưởng của giá cả biến động tăng của những mặt hàng nhập khẩu. Thời gian tới đây giá cả
thị trường thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp khó lường trước. Đó là tính tất
yếu khách quan của các giao dịch buôn bán trên thị trường quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần
tôn trọng tính thị trường, tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, Chính
phủ không nên làm thay thị trường. Đặc biệt là không nên sử dụng các biện pháp có tính
bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước như: cấp bù lỗ, cấp bù lãi suất, khoanh nợ, khi
mà thị trường trong nước có tính thông thương với thị trường thế giới. Cơ chế bao cấp
qua giá một số mặt hàng có tính theo sát thị trường thế giới sê làm méo mó giá cả trong
nước, tạo điều kiện cho tình trạng xuất lậu qua biên giới, tác động tiêu cực đến ngân sách
quốc gia, tác động gây tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Việc sử dụng biện pháp tài chính hỗ trợ
cho các doanh nghiệp trong dự trữ và thu mua nông sản phẩm càng làm gia tăng cơ chế
xin cho, kẽ hở cho nhiều loại tiêu cực khác, trong khi người nông dân, người sản xuất
không được hưởng lợi trực tiếp. Cơ chế quản lý giá và quản lý thị trường cũng cần linh
hoạt và đổi mới phù hợp với tình hình của nền kinh tế nước ta hiện nay.
- Lạm phát ở ta cũng do một nguyên nhân quan trọng là Ngân sách Nhà nước liên
tục ở mức thâm hụt. Hầu như từ khi thống nhất đất nước đến nay, chưa bao giờ ngân sách
đạt được cân bằng thu chi, đặc biệt trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế vĩ mô trước
thập kỷ 90. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, thâm hụt ngân sách tăng dần, từ
mức 0,13% GDP năm 1998 lên đến 3,23% năm 2001, sau đó giảm xuống, nhưng vẫn còn
đứng ở mức khá cao, trên 2% trong vòng 2 - 3 năm gần đây. Như vậy, kiềm chế thâm hụt
tài khoá sẽ góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát và do đó, làm giảm bớt tầm
quan trọng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Dường như lâu nay ở ta có một quan niệm sai

lầm và nguy hại rằng lạm phát chủ yếu bắt nguồn từ các cơn sốt giá nguyên nhiên liệu
chiến lược đầu vào. Một số ít người thì tỉnh táo hơn đã nhắc đến sự tăng trưởng tín dụng
mạnh để kích cầu trong những năm trước là một nguyên nhân khác của xu hướng lạm
phát tăng cao trong những năm gần đây. Thế nhưng hầu như không ai đả động đến một
nguyên nhân cũng rất quan trọng là thâm hụt tài khoá đã và đang ở mức khá cao như hiện
nay. Từ nhận thức đầy đủ về nguồn gốc lạm phát này, có thể thấy chính sách kiềm chế
lạm phát nhờ thắt chặt tín dụng và kiềm chế giá của các nguyên nhiên liệu đầu vào không
cho tăng lên là chưa đủ, chưa thật thích hợp, thậm chí là có hại
Để cho chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc kiềm chế lạm phát, có một số điều
kiện tiên quyết. Đó là một thị trường tài chính được tự do hoá, một Ngân hàng Trung
ương độc lập với Chính phủ và một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn, tiến gần đến cơ chế thả
nổi hoàn toàn. ở Việt Nam, 3 điều kiện này chưa (hoàn toàn) được xác lập. Chúng ta mới
bắt đầu tự do hoá thị trường tài chính qua một số động thái, trong đó có việc xoá bỏ trần
18
lãi suất, nhưng hoạt động trong các ngành tài chính và ngân hàng chưa hoàn toàn dựa trên
các nguyên tắc thị trường. Ngân hàng Nhà nước, với tư cách là một Ngân hàng Trung
ương, vẫn là một thành viên của Chính phủ và chịu nhiều chi phối từ đây. Cơ chế tỷ giá
vẫn rất cứng nhắc, hầu như là gắn chặt giá đồng nội tệ với USD.
19
KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày
một ngày hai. Nó là căn bệnh mãn tính nhưng việc xóa bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá
phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại.
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát
đã hoành hành công khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xóa bỏ cơ chế
bao cấp, quan liêu. Sự quản lý không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát 1989 đưa đất nước
vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực
giáo dục, khoa học, chính trị…Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công

cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà làm chúng ta chủ quan, nới lỏng. Lạm phát
luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước cần phải
luôn thận trọng trong những bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát
triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học, giáo dục đuổi kịp sự phát triển của
các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không
chỉ của riêng ai mà một phần không nhỏ dành riêng cho các nàh doanh nghiệp trẻ góp
phần làm rạng danh đất nước trong nhiều năm tới này.
Lạm phát đã và đang sẽ là vấn đề nổi cộm trong lý thuyết Tài chính – Tiền tệ. Tuy
vậy, chúng em đã cố gắng tới mức cao nhất để hoàn thành tiểu luận trong khả năng của
mình. Bài viết này chỉ là những thu thập bước đầu mang tính chất cơ sở cho việc phát
triển nhận thức sau này.
Chúng em hy vọng đây là cách tiếp cận có hiêu quả trong quá trình tìm hiểu nền
kinh tế nói chung và lạm phát nói riêng.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 9

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
21

×