Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

bài tiểu luận triết học mác lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.52 KB, 69 trang )

Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
1. Triết học là gì?
1.1. Triết học và đối tượng nghiên cứu của triết học
a. Khái niệm “Triết học”, nguồn gốc của triết học
Triết học ra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN) tại một số trung tâm văn
minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Ấn Độ, triết học đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con
ngời đến với lẽ phải. Còn ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ "triết". Đó không phải là sự miêu tả, mà
là quá trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng.
Ở phương Tây, thuật ngữ "Triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "Philôsôphia”, nghĩa là "yêu mến sự thông
thái". Triết học đợc xem là hình thái cao nhất của tri thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con ngời về thế
giới; về vị trí, vai trò của con ngời trong thế giới ấy.
Với quan niệm đó, triết học cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà đợc xem là "khoa học của mọi khoa
học".
Từ thế kỷ XV - XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm phát triển
mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏi triết học, từng bước làm phá sản tham vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi khoa học"
của một số học thuyết triết học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.
Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan niệm trên và xác định đối tợng nghiên cứu
của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng:"Triết học là một trong những hình thái ý thức xã
hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con ngời đối với thế giới; là khoa
học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy".
Khác với các khoa học cụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới, triết học xem xét thế giới
nh một chỉnh thể và đem lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận.
Mặc dù có sự khác nhau giữa các hệ thống triết học, nhưng điểm chung của chúng là đều nghiên cứu những vấn đề chung
nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con ngời nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.
Như vậy, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, khái quát nhất, triết học không thể ra đời cùng với sự
xuất hiện của xã hội loài nười. Triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:
Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân tay,
tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và


trên cơ sở đó triết học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị thay thế bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ - chế độ
xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học tự nó đã mang
trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất định.
Thứ hai, con ngời đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái
quát hóa, trừu tượng hóa để có thể rút ra đợc cái chung từ vô số các sự vật và hiện tợng riêng lẻ, xây dựng nên các học
thuyết, lý luận.
Điều đó khẳng định rằng, với t cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học đã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của
thực tiễn quy định.
1.2. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí
con người trong thế giới đó.
Đặc tính của tư duy con ngời là muốn đạt tới sự hiểu biết hoàn toàn, đầy đủ; song tri thức mà con ngời đạt đợc luôn
luôn là có hạn. Quá trình tìm hiểu về quan hệ giữa con người với thế giới đã hình thành nên những quan niệm nhất định,
trong đó có sự hoà quyện thống nhất giữa cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình
thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi đã trở thành niềm tin định hớng cho hoạt động của con người.
Khác với thế giới quan thần thoại và tôn giáo, thế giới quan triết học dựa vào tri thức, là sự diễn tả quan niệm của
con nười dưới dạng hệ thống các quy luật, phạm trù đóng vai trò là những nấc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với
ý nghĩa đó, triết học đợc xem là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới
và về vị trí của con người trong thế giới đó.
2. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
Ngay từ thời cổ đại đã nảy sinh vấn đề quan hệ giữa linh hồn con ngời với thế giới bên ngoài. Triết học ra đời cũng
giải quyết vấn đề đó, nhng ở tầm khái quát cao hơn là mối quan hệ giữa tw duy và tồn tại. Theo Ăngghen: "Vấn đề cơ bản
lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa t duy với tồn tại"( C. Mác và Ăngghen: Toàn tập,
Nxb CTQG, HN, 1995, t.21, tr.403); bởi vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và xuất phát điểm để giải quyết các vấn đề
khác của triết học. Đồng thời sẽ là tiêu chuẩn để xác định lập trờng thế giới quan của các triết gia và các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trớc, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: ý thức con ngời có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan hay không? Nghĩa là con ngời có khả
năng nhận thức hay không?

Việc trả lời hai câu hỏi trên đã dẫn đến sự hình thành các trờng phái và các học thuyết triết học khác nhau.
2.2. Các trờng phái triết học
2.2.1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân chia các học thuyết triết học thành
hai trờng phái triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
a. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trớc, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc
lập với ý thức con ngời và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người;
không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát
triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại dới nhiều hình thức khác nhau.
+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới.
Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay
một số chất cụ thể. Ví dụ nh quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh hởng của Cơ học cổ điển nên chủ nghĩa duy
vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phơng pháp t duy siêu hình, máy móc - phơng pháp nhìn nhận thế giới trong
trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ nh quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp
thế kỷ XVIII.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau
đó đợc V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trớc đó và vận dụng các thành tựu
của khoa học đơng thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục đợc những hạn chế của chủ nghĩa
duy vật trớc đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực
mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lợng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
b. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trớc và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng
tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu là:
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con ngời, khẳng định mọi sự vật,
hiện tợng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể. Ví dụ quan niệm của Beccơly.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhng đó không phải là ý thức cá
nhân mà là tinh thần khách quan có trớc và tồn tại độc lập với con ngời, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và t duy.

Nó thờng đợc mang những tên gọi khác nhau nh ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụ quan
niệm của Platon, Hêghen.
Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của
chủ nghĩa duy vật là các lực lợng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với
khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực lợng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận
thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật
chất.
Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực
bên trong cho sự phát triển của t duy triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t tởng giữa các giai cấp đối lập
trong xã hội.
c. Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận(duy vật hoặc duy tâm) giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật
chất hoặc tinh thần, còn có các nhà triết học nhị nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để giải
thích mọi hiện tợng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên
thể tinh thần. Họ muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhng cuối cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy
tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.
2.2.2. Thuyết không thể biết
Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, đại đa số các nhà triết học( cả duy vật và duy tâm) đều thừa
nhận khả năng nhận thức thế giới của con ngời, nhng với những cách lý giải trái ngợc nhau. Chủ nghĩa duy vật xuất phát từ
chỗ coi vật chất có trớc, ý thức có sau và là sự phản ánh thế giới vật chất đã thừa nhận con ngời có thể nhận thức đợc thế giới
khách quan và các quy luật của nó. Còn chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trớc và quyết định vật chất nên nhận thức
không phải là sự phản ánh thế giới, mà chỉ là sự tự nhận thức, tự ý thức về bản thân ý thức. Họ phủ nhận thế giới khách quan
là nguồn gốc của nhận thức.
Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con ngời đợc gọi là thuyết không thể biết. Họ cho rằng, con
ngời không thể hiểu đợc đối tợng hoặc nếu có hiểu thì chỉ là hình thức bên ngoài; bởi vì tính xác thực của các hình ảnh về
đối tợng mà các giác quan của con ngời cung cấp trong quá trình nhận thức không đảm bảo tính chân thực. Tiêu biểu là quan
niệm của Beccơly, Hium.
3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
Một vấn đề rất quan trọng mà triết học phải làm sáng tỏ là: các sự vật, hiện tợng của thế giới xung quanh ta tồn tại nh thế
nào?
Vấn đề này có nhiều cách trả lời khác nhau, nhng suy đến cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng

và siêu hình.
3.1. Phương pháp siêu hình
- Nhận thức đối tợng trong trạng thái cô lập, tách rời đối tợng khỏi các chỉnh thể khác; giữa các mặt đối lập nhau có một ranh
giới tuyệt đối.
- Nhận thức đối tợng trong trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về số lượng và nguyên nhân biến đổi
nằm ở bên ngoài sự vật.
Như vậy, phương pháp siêu hình là phơng pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại với một t duy cứng nhắc,
"chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn
tại mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh mà quên mất sự vận
động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng".(Sđd, t.20, tr.37).
3.2. Phương pháp biện chứng
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái liên hệ với nhau, ảnh hởng lẫn nhau và ràng buộc lẫn nhau.
- Nhận thức đối tượng trong trạng thái vận động, biến đổi và phát triển; đó là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện t-
ợng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn bên trong của chúng.
Như vậy, phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, trong trạng
thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt, "không chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà còn
thấy cả mối liên hệ giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự
vật, không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy cây mà còn thấy cả
rừng".
Phương pháp biện chứng đã phát triển trải qua ba giai đoạn và đợc thể hiện qua ba hình thức lịch sử của phép biện chứng:
phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật.
- Trong phép biện chứng tự phát thời cổ đại, các nhà biện chứng cả phơng Đông và phương Tây đã thấy các sự vật,
hiện tợng trong vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Nhng đó mới chỉ là cái nhìn trực quan,
cha phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
- Trong phép biện chứng duy tâm, mà đỉnh cao là triết học cổ điển Đức (ngời khởi xớng là Cantơ và ngời hoàn thiện
là Hêghen), lần đầu tiên trong lịch sử t duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội
dung quan trọng nhất của phơng pháp biện chứng. Nhng đó là phép biện chứng duy tâm, bởi nó bắt đầu từ tinh thần và kết
thúc ở tinh thần; thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm tuyệt đối.
- Trong phép biện chứng duy vật, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý
trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ

phổ biến và về sự phát triển dới hình thức hoàn bị nhất.
4. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đợc thể hiện qua chức năng của triết học như chức năng nhận thức,
chức năng đánh giá, chức năng giáo dục, nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
4.1. Chức năng thế giới quan và phơng pháp luận của triết học
Trong cuộc sống của con ngời và xã hội loài ngời, thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ
thống quan niệm về thế giới, con ngời tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan nh một
thấu kính, qua đó con ngời nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện tợng của thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ
đó, xác định thái độ, cách thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh
quan tích cực.
Triết học ra đời với t cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển nh một quá trình tự
giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết
học.
Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực đặc thù của khoa học lý thuyết và triết
học - Đó là phương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc tìm
tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét theo phạm vi tác dụng, phơng pháp luận có thể chia thành ba cấp độ:
+ Phương pháp luận ngành (hay phơng pháp luận bộ môn) là phơng pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phơng pháp luận đợc sử dụng cho một số ngành khoa học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phơng pháp luận đợc dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các phơng pháp
luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con ngời trong thế giới đó; với
việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và t duy, triết học thực hiện chức năng phơng pháp luận
chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phơng pháp, là một lý luận
về phơng pháp.
4.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của
tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên
cũng nh đời sống xã hội và tư duy con ngời.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phơng pháp biện chứng

duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên
triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có
khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không
chỉ là lý luận về phơng pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định hớng cho hoạt động nhận thức và
thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát điểm của phơng pháp luận.
Nh vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phơng pháp luận thống nhất
hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công
cụ nhận thức vĩ đại".
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự
phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngợc lại, triết học
Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phơng pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa
học.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa triết
học Mác - Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết học sẽ khô
cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành. Ngợc lại, nếu không
đứng vững trên lập trờng duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì trớc những
phát hiện mới, ngời ta dễ mất phơng hớng và đi đến những kết luận sai lầm về mặt triết
học.
Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm vững triết học
Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần
và năng lực tư duy sáng tạo của mình, tránh những sai lầm do chủ nghĩa chủ quan và ph-
ơng pháp tư duy siêu hình gây ra.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể giải
quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần
tránh cả hai khuynh hớng sai lầm: hoặc xem thờng triết học hoặc là tuyệt đối hóa vai trò
của triết học. Nếu xem thờng triết học sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với
những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất phơng hớng, thiếu chủ động và sáng tạo. Còn
nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc
những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trờng

hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.
Chương 2: Triết học Ấn Độ cổ trung đại
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học ấn độ cổ, trung đại
1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học ấn độ cổ, trung đại
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Ấn Độ là một bán đảo lớn - một "tiểu lục địa" nằm ở miền Nam châu Á; phía Tây
Nam và Đông Nam giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc là dãy Hymalaya hùng vĩ án ngữ
theo một vòng cung dài 2.600km.
Điều kiện thiên nhiên và khí hậu của Ấn ộ rất phức tạp. Địa hình vừa có nhiều núi
non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những vùng đồng bằng trù phú; có
vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá, quanh năm tuyết phủ, lại
cũng có những vùng sa mạc khô cằn, nóng nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của
điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi
dấu ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự phát triển của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại có thể được chia thành ba thời kỳ sau.
a. Thời kỳ văn minh sông ấn (Hay nền văn minh Harappa )
Xuất hiện vào khoảng giữa thiên niên kỷ III đầu thiên niên kỷ II tr. CN. Qua các di
chỉ khảo cổ cho thấy đây là một nền văn minh đồ đồng mang tính chất đô thị của
một xã hội đã vượt qua trình độ nguyên thủy, đang tiến vào giai đoạn đầu của xã
hội chiếm hữu nô lệ. Sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương
nghiệp đã đạt tới một trình độ nhất định. Thành phố được xây dựng bằng gạch
nung, theo một quy hoạch thống nhất, có đường phố rộng rãi, thẳng tắp, có chợ
búa, cửa hiệu, có giếng nước và hệ thống thoát nước, có những bể tắm lớn Thành
phố được chia thành hai khu, khu "dưới thấp" và "khu trên cao", cách biệt nhau về
quy mô nhà cửa và số lượng của cải chứng tỏ xã hội thời kỳ này đã xuất hiện sự
phân chia kẻ giàu và người nghèo rõ rệt.
Về công nghệ, có nghề dệt bông len, nghề đúc đồng, điêu khắc, nghề làm nữ trang,
nghề làm gốm sứ tráng men đạt tới trình độ tinh xảo.
Thời kỳ này cũng đã có chữ viết, được thấy trên các quả ấn bằng đồng hay đất

nung. Tôn giáo cũng đã xuất hiện biểu hiện qua các hình nổi điêu khắc trên các
quả ấn.
b. Thời kỳ Vêđa (khoảng từ thế kỷ XV đến thế kỷ VII tr.CN)
Vào khoảng thế kỷ XV, các bộ lạc du mục của người Arya từ Trung á xâm nhập
vào Ấn Độ, đem theo những phong tục, tập quán, tín ngưỡng và bắt người bản xứ
làm nô lệ. Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của
người Arya trên lưu vực sông Hằng và sông ấn.
Sau một thời gian dài chung sống, người Arya và người Dravida bản xứ đã đồng
hóa. Do tiếp thu được kỹ thuật và văn minh của người Dravida, do chiếm được
những vùng đất đai màu mỡ và thuận lợi, người Arya bắt đầu chuyển từ chăn nuôi,
du mục sang đời sống nông nghiệp định cư, phát triển thủ công nghiệp và thương
nghiệp. Đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp thời kỳ này là kinh tế tiểu nông kết
hợp chặt chẽ với thủ công nghiệp gia đình nên tính chất tự cấp tự túc là nổi bật và
quan hệ trao đổi giữa các công xã rất yếu ớt. Đó cũng là nguyên nhân làm xã hội
ấn độ phát triển rất chậm chạp và trì trệ.
Về mặt xã hội, thời kỳ này đã xuất hiện chế độ đẳng cấp ( varna - màu sắc, chủng
tính) góp phần quy định cơ cấu xã hội và ảnh hưởng đến hình thái tư tưởng ấn độ
cổ đại. Đó là chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dòng dõi,
nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn nhân được hình thành
trong thời kỳ người Arya chinh phục, thống trị người Dravida, cũng như trong cả
quá trình phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc giữa quý tộc và thường dân Arya.
Theo thánh điển Bàlamôn và bộ luật Manu, xã hội ấn độ cổ đại chia thành bốn
đẳng cấp lớn: Đứng đầu là đẳng cấp tăng lữ, lễ sư Bàlamôn (Brahmana); thứ hai là
đẳng cấp vương công, vua chúa, tướng lĩnh, võ sĩ (Kshatriya); thứ ba là đẳng cấp
thương nhân, điền chủ và thường dân Arya (Vaishya); thứ tư là đẳng cấp tiện dân
và nô lệ (Shudra). Ngoài bốn đẳng cấp trên còn có những người bị coi là ngoài lề
đẳng cấp xã hội. Đó là tầng lớp người cùng đinh, hạ đẳng (Paria) như người
Chandala.
Thời kỳ Vêđa cũng là thời kỳ hình thành các tôn giáo lớn mà tư tưởng và tín
ngưỡng của nó ảnh hưởng đậm nét tới đời sống tinh thần xã hội ấn độ cổ đại, như

đạo Rig - Vêđa, đạo Bàlamôn, sau đó là đạo Phật, đao Jaina
c. Thời kỳ từ thế kỷ VI đến thế kỷ I tr. CN
Các quốc gia chiếm hữu nô lệ đã thực sự phát triển, thường xuyên thôn tính lẫn
nhau dẫn đến sự hình thành các quốc gia lớn, các vương triều thống nhất ở ấn độ
như Magadha , Maurya. Trong thời kỳ này nền kinh tế, xã hội và văn hóa ấn độ có
những bước phát triển tiến bộ vượt bậc. Mặc dù nền kinh tế tự nhiên vẫn chiếm ưu
thế, nhưng thương nghiệp, buôn bán cũng phát triển hình thành một tầng lớp mới
trong cơ cấu giai cấp xã hội ấn độ - tầng lớp thương nhân và thợ thủ công. Tiền
kim loại xuất hiện, nhiều thành phố trở thành trung tâm công thương nghiệp quan
trọng. Nhiều con đường thương mại thủy bộ nối liền các thành thị với nhau và
thông từ ấn độ qua Trung Hoa, Ai Cập và miền Trung á dần dần xuất hiện.
Tóm lại: Xã hội ấn độ cổ, trung đại có những đặc điểm nổi bật như sau:
+ Sự tồn tại dai dẳng của chế độ công xã nông thôn.
+ Chế độ đẳng cấp rất khắc nghiệt.
+ Chế độ quốc hữu hóa về ruộng đất và lao động
+ Tôn giáo bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống xã hội.
1.1.3. Tiền đề khoa học và văn hóa
Ngay từ thời Vêđa, thiên văn học ấn độ đã bắt đầu xuất hiện. Người ấn độ cổ đã
biết sáng tạo ra lịch pháp, phỏng đoán trái đất hình cầu và tự quay quanh trục của
nó. Cuối thế kỷ V tr.CN, người ấn độ đã giải thích được hiện tượng nhật thực và
nguyệt thực.
Về toán học, họ đã phát minh ra chữ số thập phân, tính được trị số pi ( ), biết được
những định luật cơ bản về quan hệ giữa cạnh và đường huyền của một tam giác
vuông, biết giải phương trình bậc 2, 3
Nền y học ấn độ có từ rất sớm. Ngay trong kinh Vêđa, người ta đã tìm thấy nhiều
tên cây làm thuốc và nhiều phương pháp trị bệnh đơn giản. Vào thế kỷ V tr.CN,
Shursada đã viết sách trình bày thuật chữa bệnh ngoại khoa, bảo trợ thai, vệ sinh
hài nhi, phương pháp dưỡng sinh, tiêu độc
Trong nghệ thuật kiến trúc, người ấn độ đã có một phong cách kiến trúc độc đáo,
tinh tế, đặc biệt là lối xây dựng chùa chiền, tháp Phật theo kiểu hình tháp vừa có ý

nghĩa triết học, tôn giáo, vừa biểu hiện ý chí, vương quyền.
Tất cả những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội cùng với sự phát triển rực
rỡ của văn hóa, khoa học ấn độ cổ đại là những tiền đề lý luận và thực tiễn phong
phú làm nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của ấn độ cổ đại.
1.2. Đặc điểm của triết học ấn độ cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không mang tính
cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học có
trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học mới.
Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín ngưỡng
tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề
nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Lịch sử phát sinh và phát triển của triết học ấn độ cổ, trung đại được chia thành hai
thời kỳ: thời kỳ Véđa ( khoảng cuối thiên niên kỷ II đến thế kỷ VII tr.CN) và thời
kỳ cổ điển, hay thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn giáo ( từ thế kỷ VI đến thế kỷ I tr.CN).
2.1. Triết học thời kỳ Véđa
Kinh Véđa là những bộ kinh cổ nhất của ấn độ và của nhân loại. Đó là một bộ sách
thu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những tư tưởng, quan điểm, những tập
tục, lễ nghi của nhiều bộ lạc người Arya.
Chữ Véđa bắt nguồn từ căn tự "vid", nghĩa đen là "tri thức", "hiểu biết". Nó cũng
được dùng chung với nghĩa là "thánh kinh", là "sự sáng suốt cao nhất". Có thể nói
Véđa là một tác phẩm tổng hợp, có tính hỗn hợp và có nhiều cách phân chia.
2.1.1. Giai đoạn từ khoảng 2000 năm tr.CN đến thế kỷ VIII tr. CN
+ Rig - Véđa: Rig, có nghĩa là "tán ca", tán tụng Véđa. Đây là bộ kinh cổ nhất của
nền văn hoá ấn độ bao gồm 1017 bài, sau được bổ sung thêm 11 bài dùng để cầu
nguyện, chúc tụng công đức của các vị thánh thần.
+ Sama - Véđa: Tri thức về các giai điệu ca chầu khi hành lễ, gồm 1549 bài.
+ Yajur - Véđa: Tri thức về các lời khấn tế, những công thức, nghi lễ khấn bái

trong hiến tế.
+ Atharva - Véđa: Tách riêng với bộ ba trên, gồm 731 bài văn vần là những lời
khấn bái mang tính bùa chú, ma thuật, phù phép nhằm đem lại những điều tốt lành
cho bản thân và người thân, gây tai họa cho kẻ thù.
Nhìn chung trong các tập Véđa thời kỳ này tập trung phản ánh ước vọng của người
dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong có thức ăn, có gia súc ; đồng
thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái quát
triết học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã thể hiện sự phát triển của tư duy trừu
tượng trong đó người ta đã thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn,
biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh thần và các nghi lễ.
2.1.2.Giai đoạn từ thế kỷ VIII tr. CN đến thế kỷ V tr. CN
+ Brahmana: (gọi là Phạn chí hay kinh Bàlamôn), gồm những bài cầu nguyện, giải
thích các nghi lễ của Véđa.
+ Aranyaka: Nghĩa là suy tưởng trong rừng - kinh rừng, giải thích ý nghĩa huyền
bí của những nghi lễ Véđa và phát hiện những ý nghĩa tượng trưng cao siêu của
Véđa.
+ Kinh Upanishad: Là những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, gồm 200 bài
kinh giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại, tôn giáo
Véđa. Nó thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của
nghi lễ và bàn đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự.
2.1.3. Tư tưởng triết học trong kinh Upanishad
Đây là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Véđa, được biên soạn
qua nhiều thế kỷ ( khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ V tr.CN) bởi các tông phái, các
đạo sĩ trong những hoàn cảnh và địa phương khác nhau.
Khái niệm Upanishad có nghĩa là ngồi trang nghiêm cùng giảng giải lý thuyết cao
siêu, huyền bí với thầy. ("shad" nghĩa là "ngồi"; "upa" nghĩa là "gần"; "ni" có
nghĩa là "trang nghiêm"). Upanishad không phải là một tác phẩm trình bày có hệ
thống, chặt chẽ những quan điểm của một trường phái triết học, mà được viết dưới
hình thức hội thoại giữa thầy và trò. Sự xuất hiện của Upanishad được coi là "bước
nhảy" hoàn toàn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học. Tư

tưởng triết học cơ bản của Upanishad có thể khái quát như sau:
a. Thế giới quan
Upanishad đã đưa ra cách giải thích duy tâm về nguồn gốc của thế giới, coi
Brahman - "Tinh thần vũ trụ tối cao" - là thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại
vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới này đều nảy sinh ra và nhập về với
nó sau khi chết.
Atman - Linh hồn con người chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của "Tinh thần vũ
trụ tối cao". Cơ thể con người chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh
hồn, là hiện thân của "Tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối, bất tử Brahman. Vì toàn
bộ vũ trụ là Brahman nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với "Linh hồn tối cao".
b. Nhận thức luận
Upanishad phân sự nhận thức của con người thành hai trình độ khác nhau là hạ trí
(aparâ - vidây) và thượng trí (parâ - vidây). Hạ trí là tri thức phản ánh những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, có hình tướng, danh sắc đa dạng của hiện thực gồm các tri
thức khoa học thực nghiệm, các ngành nghệ thuật. Thượng trí là trình độ vượt qua
tất cả thế giới hiện tượng hữu hình, hữu hạn, thường xuyên biến đổi để nhận thức
một thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (aksara), thường hằng, vô hình và là bản
chất của tất cả những cái đang tồn tại (Brahman). Tuy nhiên, hạ trí cũng có vai trò
và công dụng của nó đối với nhận thức, là phương tiện cần thiết để đưa con người
tới hiểu biết thượng trí.
c. Nhân sinh quan
Upanishad bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn" tồn tại
trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng "linh hồn"
đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục vọng và
hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống trần
tục đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là
"nghiệp báo" (Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác này
đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, gọi là
sự "luân hồi" (Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản
của mình là Brahman được.

Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp báo để đạt
tới đồng nhất với "Tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối thì con người phải dốc lòng
toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác, thực
nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn bất tử
mới đồng nhất được với "linh hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu "siêu thoát" (moksa).
2.2. Triết học thời kỳ cổ điển (Hay thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn giáo)
Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ ấn Độ đã phát triển cao, nhưng vẫn bị bóp
nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, cùng sự thống trị của
nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc nghiệt của chế độ
đẳng cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ
tư tưởng chính thống, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết
học thời kỳ này với khuynh hướng đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác
nhau, vừa mang tính chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo.
Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến
đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Véđa. Từ đó đã hình thành
cách phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái triết học thành hai
phái chính:
+ Phái triết học chính thống (Astika) thừa nhận uy thế tối cao của kinh Véđa, đạo
Bàlamôn, bao gồm 6 trường phái chính là 1)Samkhya, 2) Nyaya, 3) Vaisêsika, 4)
Mimamsa, 5) Yoga và 6) Védanta.
+ Phái triết học không chính thống (Nastika) bác bỏ uy thế tối cao của kinh Véđa,
đạo Bàlamôn gồm 3 trường phái chính là: 1) Các trường phái triết học vô thần,
duy vật trong phong trào mới đòi tự do tư tưởng ở Đông ấn và trường phái triết
học duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ nghĩa duy vật khoái lạc Charvaka; 2) Phật
giáo và 3) Đạo Jaina.
Trừ trường phái Lokayata là trường phái triệt để duy vật, vô thần, còn tất cả các
trường phái khác đều mang tính chất nhị nguyên luận hay thiếu triệt để.
2.2.1. Các trường phái triết học chính thống
2.2.1.1. Trường phái Samkhya (Số luận)

Trường phái Samkhya bắt nguồn từ tư tưởng triết học ở nhiều tác phẩm rất cổ xưa.
Lý luận về bản nguyên vũ trụ là tư tưởng triết học trung tâm của trường phái này.
Những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy
vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết về sự tồn
tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự
chuyển hóa thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ cho rằng loại nào có
nguyên nhân của loại ấy với luận điểm nổi tiếng " Trồng Sali được Sali, trồng
Vrihi được Vrihi". Từ đó, trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ cho rằng
nếu vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là
nguyên nhân cũng phải là vật chất; đó là "vật chất đầu tiên"(Prakriti) - một dạng
vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết được. Thế giới vật chất là thể
thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, vui tươi); Rajas (kích thích, động);
Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng thì Prakriti ở trạng thái
chưa biểu hiện - tức là trạng thái không thể trực quan được. Nhưng khi sự cân
bằng bị phá vỡ thì đó là điểm khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Trái lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị
nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất
(Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố tinh thần (Purusa) mang tính phổ quát vĩnh
hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng và biến hóa vào yếu tố vật chất. ở
con người, khi tinh thần chiếu rọi vào Sattva thì sinh ra trí tuệ; khi tinh thần chiếu
rọi vào Rajas thì sinh ra vận động; khi tinh thần chiếu rọi vào Tamas thì sinh ra
hình thể.
Về bản chất con người, phái Samkhya cho rằng con người có sự ý thức về mình.
Chính vì vậy mà họ nảy sinh ra những lo lắng, ham muốn và hành động để đạt đến
cái "tôi". Do đó tinh thần con người không thoát ra được, luôn bị chìm đắm trong
vòng luân hồi, khổ não. Muốn giải thoát, con người phải dùng phương pháp Yoga.
2.2.1.2. Trường phái Mimansa
Kinh điển của triết học Mimansa là "Mimansa - Sutra". Một đại biểu lớn của
trường phái này là Sabara, người viết chú giải cho "Mimansa - Sutra".
Các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn giáo của Véđa, nhưng

coi Véđa như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ không
thừa nhận sự tồn tại của thần. Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng cứ về sự tồn
tại của thần và cảm giác không nhận thức được thần. Nhưng cảm giác lại được coi
là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa không phản đối việc coi thần
linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu thần chú của nghi lễ. Nghi lễ
không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh, mà nghi lễ tự nó có sức
mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành động ma thuật. Tuy
nhiên, tinh thần duy vật và vô thần của phái Mimansa không được tiếp tục phát
triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã thừa nhận sự tồn tại của thần.
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được
sinh ra từ các nguyên tử (Anu)
Phái Mimansa coi đời người là khổ và vấn đề đặt ra là phải thoát khỏi nỗi khổ ấy.
Họ chủ trương thoát khổ bằng cách duy trì các nghi lễ, đặc biệt là lễ "Hiến sinh".
Họ cho rằng cần phải biết kết hợp lòng tin và kiến thức để đạt đến giải thoát. Có
hai con đường để tạo kiến thức là bằng giác quan và bằng suy luận.
Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại đứng trên lập trường
duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi.
2.2.1.3. Trường phái Vêđanta
Các nhà tư tưởng Vêđanta hệ thống các tư tưởng của Upanishad - tác phẩm được
coi là kết thúc của Véđa (Vêđanta nghĩa là "kết thúc Véđa"). Tác phẩm Brahman -
Sutra được coi là kinh điển của Vêđanta, nhưng nội dung không rõ ràng, khá mơ
hồ nên có nhiều cách giải thích khác nhau.
Cách luận giải có ảnh hưởng lớn nhất là " thuyết Vêđanta nhất nguyên". Đó là triết
học nhất nguyên luận duy tâm chủ quan cho rằng chỉ có Brahman, tức ý thức
thuần túy là tồn tại duy nhất, mà Brahman lại được đồng nhất với "Cái tôi"
(Atman). Thế giới vật chất không tồn tại hiện thực, hình ảnh của nó chỉ là ảo ảnh
do "Vô minh" sinh ra. Đại biểu cho thuyết này là Sankara, người viết chú giải cho
Brahman - Sutra.
Các phái Vêđanta sau này lại giải thích Brahman - Sutra theo quan điểm hữu thần,
hay duy tâm khách quan. Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng; còn

Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tưc Thượng đế
Brahman.
2.2.1.4. Trường phái Yoga
Yoga xuất hiện rất sớm, từ nền văn minh Indus. Cuốn Yoga - Sutra được coi là của
Patanjali (Thế kỷ II tr. CN).
Tư tưởng cốt lõi của trường phái này là sự thừa nhận nguyên lý hợp nhất vũ trụ
nơi mỗi cá thể. Trường phái Yoga kết hợp tư tưởng triết học của phái Samkhya với
sự thừa nhận sự tồn tại của thần (Yoga = Sakhya + Thượng đế). Nhưng sự thừa
nhận Thượng đế của phái Yoga không có ý nghĩa nhiều lắm về phương diện triết
học. Tư tưởng về Thượng đế không ăn nhập với hệ thống Yoga. Thượng đế hay
thần chỉ là một loại linh hồn không khác gì mấy với linh hồn cá thể. Vì vậy, bằng
phương pháp luyện tập và tu luyện nhất định, con người có thể điều khiển và tự
làm chủ được bản thân mình, tiến đến làm chủ được vạn vật và cao hơn nữa là đạt
tới sự "giải thoát", "tự do tuyệt đối".
Yoga còn là phương pháp dưỡng sinh được xây dựng trên cơ sở nhận thức về thế
giới và con người. Nó cho rằng cuộc đời con người chỉ là ảo ảnh, không có thực và
luôn thay đổi. Hình thể con người được coi là cái vỏ và không tồn tại vĩnh hằng.
Nó sẽ bị mất đi và chỉ còn lại linh hồn (Atman) là tồn tại. Linh hồn con người là
một bộ phận của Brahman nên nó phải thoát ra khỏi cái vỏ của mình (tức hình thể)
để nhập với Brahman, làm cho con người siêu thoát. Yoga đưa ra 8 phương pháp
để thoát ra khỏi thể xác là:
- Cấm chế (Yama): Giữ các điều răn (giới), bao gồm ngũ giới: Sát sinh, đạo, vọng
ngữ tà dâm, của riêng.
- Khuyến chế (Niyama): Thanh tịnh trong học tập kinh điển
- Tọa pháp (Anasa): Giữ vị trí thân thể đúng đắn
- Điều tức (Pranayama): Giữ hơi thở đều, sâu, nhịp nhàng.
- Chế cảm (Pratyahara): Điều khiển cảm giác sao cho lúc ngồi thiền, giác quan
được thoải mái.
- Chấp trì (Dharana): Tập trung tư tưởng.
- Thiền định (Dhyana): Giữ tâm thống nhất

- Đẳng trì hay Tam muội (Samadhi): Đưa tâm đến hư không, chứng được cảnh
giới sán lạn.
Phương pháp tu luyện này sẽ sản sinh ra những năng lượng lớn mà những người
bình thường không đạt được. Nhiều phái cho rằng, nếu thực hiện các phương pháp
Yoga thì sẽ có sức mạnh siêu nhiên.
2.2.1.5. Trường phái Nyaya - Vaisesika
Đây là hai trường phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học tương đồng,
nhất là vào giai đoạn hậu kỳ. Đại biểu cho phái Nyaya là Gantana, tác giả của
"Nyaya - Sutra". Đại biểu cho phái Vaisesika là Kananda, tác giả của "Vaisesika -
Sutra". Tư tưởng triết học cơ bản của hai phái này là học thuyết nguyên tử, lý luận
nhận thức và logic học.
a- Thuyết nguyên tử
Giải quyết vấn đề bản nguyên của thế giới, phương pháp luận của
Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn cho rằng có sự tồn
tại của những linh hồn ở những trạng thái phụ thuộc hoặc ở ngoài những nguyên
tử vật chất, gọi là Ya mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý chí, vui,
buồn, giận hờn
Để thấu triệt nguyên lý thống nhất của những cái hiện hữu, hai phái này đã tìm đến
lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên, giữ vai trò phối hợp, điều phối sự tác
động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên tử.
b- Nhận thức luận và lôgic học
Hai phái này đã có những tư tưởng duy vật và đã có những đóng góp vào lý luận
nhận thức như : thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức; đề cao
vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức v.v Theo họ nhận thức có thể tin cậy, và
cũng có thể không đáng tin cậy. Nhận thức tin cậy là sự phản ánh không nghi ngờ
và trung thành với hình ảnh của đối tượng. Có bốn hình thức nhận thức không đáp
ứng được yêu cầu đó và được coi là không đáng tin cậy, là ký ức, nghi ngờ, sai
lầm và mới là giả thiết, chưa có chứng cứ chắc chắn. Vì vậy, cần phải kiểm tra tính
đúng sai của nhận thức một cách thực tế. Nhận thức là đúng đắn khi nó phù hợp
với bản chất của đối tượng và ngược lại. Họ cho rằng thực tiễn là thước đo duy

nhất để kiểm tra nhận thức. Thí dụ : Nước do ảo ảnh là giả vì không giải khát
được, còn nước trong hồ là thật vì có thể giải khát được.
Thuyết biện luận của phái Nyaya có đóng góp quan trọng về lôgic hình thức. Họ
đưa ra hình thức biện luận gọi là "Ngũ đoạn luận" gồm năm mệnh đề:
1. Luận đề: Đồi có lửa cháy
2. Nguyên nhân: Vì đồi bốc khói
3. Thí dụ: Có khói thì có lửa, giống như ở trong bếp lò.
4. Suy đoán: Đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy
5. Kết luận: Do đó đồi có lửa cháy.
Các phái này ban đầu có tư tưởng vô thần và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
triết học. Song ở giai đoạn cuối, họ lại thừa nhận có thần và cho rằng thần đã dùng
nguyên tử để tạo nên thế giới. hai phái này là quy toàn bộ tính đa dạng của tồn tại
vào bốn yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió (hay không khí). Những yếu tố này lại
được quy vào bản nguyên duy nhất, đầu tiên là những hạt nhỏ vật chất không đồng
nhất, bất biến và vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dạng,
tồn tại trong một môi trường đặc biệt, trong không gian và thời gian, được gọi là
nguyên tử (Anu).
2.2.2. Các trường phái triết học không chính thống
2.2.2.1. Trường phái triết học Lokayata và phong trào tư do tư tưởng ở Đông
ấn
Đông ấn là vùng đồng bằng sông Hằng với điều kiện tự nhiên, khí hậu điều hòa,
đất đai phì nhiêu, màu mỡ thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, công,
thương mại và kỹ nghệ tạo nên những khu đô thị, những trung tâm kinh tế, buôn
bán sầm uất trong nước cũng như giao lưu với bên ngoài, hình thành những tầng
lớp điền chủ, đại công thương làm chủ về kinh tế, về tư tưởng và sinh hoạt xã hội.
Trên cơ sở đó đã nảy sinh những tư tưởng triết học mới với những trường phái
triết học duy vật, vô thần. Họ cố gắng giải thích thế giới bằng các sự vật, hiện
tượng của tự nhiên như nước, lửa, không khí, đất , phủ nhận linh hồn bất tử và
đưa ra các khái niệm, phạm trù của triết học. Đặc biệt trong các trào lưu duy vật,
vô thần, hoài nghi tôn giáo và thần linh ấy là trường phái triết học duy vật

Lokayata.
Trong học thuyết về tồn tại, phái Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện
tượng trong vũ trụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành.
Chúng có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian để tạo thành vạn vật,
kể cả con người. Tương ứng với bốn nguyên tố là bốn nguyên tử đất, nước, lửa và
không khí tồn tại ngay từ đầu, không thay đổi và không thể tiêu diệt được. Mọi đặc
tính của các vật thể đều phụ thuộc vào chỗ chúng là kết hợp của các nguyên tử
nào, vào số lượng và tỷ lệ kết hợp của các nguyên tử. ý thức, lý tính và các giác
quan cũng xuất hiện do sự kết hợp của các nguyên tử và sẽ mất đi khi sự kết hợp
đó bị tan rã.
Về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, họ giải thích trên quan điểm duy vật thô
sơ, mộc mạc. Theo họ, ý thức là thuộc tính cố hữu của cơ thể; rời khỏi nhục thể thì
người ta không thể có ý thức. Khi con người chết đi, thể xác tan ra thì ý thức về
"cái tôi" cũng hết.
Về nhận thức luận và lôgic học, phái Lokayata mang tính chất duy cảm, thừa nhận
cảm giác là nguồn gốc duy nhất xác thực của nhận thức. Chỉ có cái gì cảm giác
biết được thì mới tồn tại. Các giác quan có thể tri giác được sự vật bởi vì bản thân
các giác quan cũng gồm các nguyên tố giống như các sự vật. Theo họ, suy lý, kết
luận hay những chứng minh của kinh Véđa đều là những phương pháp sai lầm của
nhận thức. Từ đó, họ phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, linh hồn.
Về đạo đức học, họ phê phán những thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt khổ đau
bằng cách kiềm chế mọi ham muốn, dục vọng và hy vọng cuộc sống tốt đẹp ở thế
giới bên kia sau khi chết. Họ chủ trương hãy để cho mọi người sống, hoạt động,
hưởng thụ tất cả mọi thứ trong cuộc đời nên đạo đức học của họ được gọi là "chủ
nghĩa khoái lạc".
2.2.2.2. Triết học Phật giáo
Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ
VI tr. CN ở miền Bắc ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa ấn Độ
với Nêpan hiện nay. Đạo Phật ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo
Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đườn giải

thoát con người khỏi nỗi khổ đó.
Người sáng lập Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni có tên thật là Siddharha(Tất Đạt Đa)
họ là Gautama (Cù Đàm), con trai đầu của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) dòng họ
Sakya, có kinh đô là thành Kapilavatthu (Ca- tỳ - la - vệ). Phật Thích Ca sinh ngày
8 tháng 4 năm 563 tr. CN và mất năm 483 tr. CN. Năm 29 tuổi, ông từ bỏ cuộc
sống vương giả đi tu luyện tìm con đường diệt trừ nỗi đau khổ của chúng sinh. Sau
6 năm khổ luyện, ông đã "ngộ đạo", tìm ra chân lý "Tứ diệu đế" và "Thập nhị nhân
duyên".
Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết thành văn thể
hiện trong kinh "Tam tạng"(Tripitaka) gồm ba bộ phận: 1) Tạng kinh (Sutra -
pitaka) ghi lời Phật dạy; 2) Tạng luật ( Vinaya - pitaka) gồm các giới luật của đạo
Phật; 3) Tạng luận ( Abhidarma - pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải,
bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả về sau.
a- Thế giới quan
Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và biện
chứng chất phác, phủ nhận tư tưởng về đấng sáng tạo Brahman, cũng như phủ
nhận"Cái tôi" (Atman) và dưa ra quan niệm "Vô ngã" (Anatman) và "Vô thường";
Phạm trù "Vô ngã" bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả
hợp" do hội đủ nhân duyên nên thành ra "có" (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại
của thực thể con người cũng do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai
thành phần là thể xác (Rupa - sắc) và tinh thần (Nâma - danh), do sự hợp tan của
ngũ uẩn( sắc - thụ - tưởng - hành - thức). Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta, duyên tan
ngũ uẩn ra thì không còn là ta, là diệt, nhưng không phải là mất đi mà là trở lại với
ngũ uẩn. Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hóa theo luật nhân quả
không ngừng nên vạn vật, con người cứ biến hóa vụt mất, vụt còn, không có sự vật
riêng biệt tồn tại mãi mãi, không có cái tôi thường định (An - Atman).
Phạm trù "Vô thường" gắn liền với phạm trù "vô ngã". "Vô thường" nghĩa là vũ trụ
là vô thủy, vô chung; vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hóa vô thường, vô
định không do một vị thần nào tạo nên cả; tất cả đều biến đổi theo luật nhân quả,
theo quá trình sinh, trụ, dị, diệt (hay thành, trụ, hoại, không) và chỉ có sự biến hóa

ấy là thường hữu. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ đều bị chi phối
bởi luật nhân duyên. Cái nhân (Hetu) nhờ có cái duyên (pratitya) mới sinh ra được
mà thành quả (phla). Quả lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại
nhờ có duyên mà thành quả mới và cứ biến đổi mãi mãi.
Vì không nhận thức được sự biến ảo vô thường đó nên người ta nhầm tưởng là cái
tôi tồn tại mãi, cái gì cũng là của ta nên con người cứ khát ái, tham dục, hành động
chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn, dục vọng đó tạo ra những kết quả,
gây nên nghiệp báo (karma), mắc vào bể khổ triền miên (sam - sara) tức là mắc
vào kiếp luân hồi.
b- Nhân sinh quan
Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp" trong Upanishad, Phật giáo đặc biệt
chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho chúng sinh
khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana).
Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra
thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh ra khỏi
mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây là triết lý nhân sinh chủ yếu của
đạo Phật.
"Tứ diệu đế" là bốn chân lý chắc chắn, hiển nhiên, hoàn toàn cao hơn hết, gồm:
+ Khổ đế: Phật giáo coi " đời là bể khổ". Có trăm ngàn nỗi khổ, nhưng có 8 nỗi
khổ trầm luân, bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ
biệt ly ( Yêu thương mà phải chia lìa), Oán tăng hội ( Oán ghét nhau mà phải sống
với nhau), sở cầu bất đắc ( Cầu mong mà không được), ngũ thụ uẩn ( năm yếu tố
vô thường nung nấu làm nên sự đau khổ).
+ Nhân đế (hay Tập đế): Giải thích những nguyên nhân gây nên đau khổ cho
chúng sinh. Đó là 12 nguyên nhân ( Thập nhị nhân duyên): 1. Vô minh; 2. Hành;
3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh
và 12. Lão, tử. Trong 12 nhân duyên ấy thì Vô minh tức là ngu tối, không sáng
suốt là nguyên nhân đầu tiên.
+ Diệt đế: Là lần theo Thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của nỗi khổ, tiêu diệt
nó và đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, đạt tới cảnh trí Niết bàn.

+ Đạo đế: Chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường "tu đạo",
hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc ( bát chính đạo):
1. Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn
3. Chính ngữ: Giữ lời nói phải
4. Chính nghiệp: Giữ đúng trung nghiệp
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng
6. Chính tinh tiến: Rèn luyện không mệt mỏi
7. Chính niệm: Có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát
8. Chính định: An định, không bị ngoại cảnh chi phối.
Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào 3 điều phải học tập, rèn luyện là: Giới -
Định - Tuệ ( tức là: giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thông trí tuệ bát
nhã).
Kết luận: Trong giai đoạn đầu, thế giới quan nhân duyên của Phật giáo đã có
những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát. Về lĩnh vực chính trị - xã hội, đạo
Phật là tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất
công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu lên ước nguyện giải thoát con
người khỏi nỗi bi kịch cuộc đời, khuyên người ta sống đạo đức, từ bi bác ái. Đó là
những ưu điểm của triết lý Phật giáo. Tuy nhiên trong luận thuyết về nhân sinh và
con đường giải thoát, tư tưởng Phật giáo vẫn còn hạn chế, mang nặng tính bi quan,
yếm thế về cuộc sống, chủ trương "xuất thế", "siêu thoát" có tính duy tâm, không
tưởng về những vấn đề xã hội.
2.2.2.3. Trường phái triết học Jaina
Jaina là một tôn giáo xuất hiện gần đồng thời với Phật giáo. Người sáng lập ra
trường phái này là là Maharvira, có hiệu là Jaina ( nghĩa là Chiến thắng).
Triết học cơ bản của Jaina là học thuyết và "cái tương đối". Theo thuyết nay, tồn
tại đầu tiên là bất biến, vô thủy, vô chung, sự biến đổi của vạn vật là không cùng;
thế giới vạn vật là sự thống nhất của cái biến đổi và cái bất biến. Cái vĩnh hằng là
vật chất; cái không vĩnh hằng là các dạng của vật chất ( Thí dụ: Đất sét thì không
thay đổi, nhưng cái bình bằng đất sét thì có thể thay đổi). Điều đó được thể hiện

qua các khái niệm: 1. Tồn tại; 2. Không tồn tại; 3. Vừa tồn tại vừa không tồn tại; 4.
Không thể miêu tả; 5. Tồn tại và không thể miêu tả; 6. Không tồn tại và không thể
miêu tả; 7. Tồn tại và không tồn tại và không miêu tả được.
3. Một số nhận định về triết học ấn Độ cổ, trung đại
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn đề của
triết học. Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc về bản thể luận, nhận thức luận
và nhân sinh quan, triết học ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và tầm khái quát
khá sâu sắc, dã đưa lại nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng di sản của triết học
nhân loại.
Một xu hướng cơ bản trong triết học ấn Độ cổ, trung đại là quan tâm giải quyết
những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tâm linh tôn giáo với xu hướng "hướng nội",
đi tìm cái "Đại ngã" trong cái "Tiểu ngã" của một thực thể cá nhân. Có thể nói, sự
phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn
Độ cổ, trung đại ( trừ phái Lokayata), và hầu hết các học thuyết đều biến đổi theo
xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Có thể điều đó là sự phản ánh trạng thái trì trệ của "phương thức sản xuất châu á"
ở ấn Độ vào tư duy triết học; đến lượt mình, triết học lại trở thành một trong
những nguyên nhân của tình trạng trì trệ đó.
2. Chương 3: Triết học Trung Hoa cổ, trung đại
3. 1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại.
1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên
kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất
Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử
Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN trở về trước và
thời kỳ từ thế kỷ VIII tr. CN đến cuối thế kỷ III tr. CN.
1.1.1. Thời kỳ thứ nhất: Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây Chu.
Theo các văn bản cổ, nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI tr. CN, đánh dấu sự
mở dầu cho chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII tr.
CN, người đứng đầu bộ tộc Thương là Thành Thang đã lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà

Thương, đóng đô ở đất Bạc( Hà Nam hiện nay). Đến thế kỷ XVI tr. CN, Bàn Canh
rời đô về đất Ân nên nhà Thương còn gọi là nhà Ân. Vào khoảng thế kỷ XI tr. CN,
Chu Vũ Vương đã giết vua Trụ nhà Ân lập ra nhà Chu ( giai đoạn đầu là Tây
Chu), đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao. Nhà Chu đã thực hiện quốc hữu
hóa về tư liệu sản xuất (gồm ruộng đất và sức lao động) rất nghiêm ngặt, tất cả đều
thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu . Đồng thời, thành lập những đô thị lớn tạo
nên sự đối lập rất lớn giữa thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm
thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã xuất hiện,
nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần quyền với thế quyền,
lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị - xã hội với lĩnh vực đạo đức
luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm có tính chất duy vật mộc
mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận hành
của mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy luật sinh trưởng
của cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
1.1.2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến
quốc), thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Sự phát
triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu
giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đất đai thuộc sở hữu của nhà vua thì nay
thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành.Từ
đó, sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc,
rối ren và chiến tranh xảy ra liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế
độ nô lệ thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế
độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở
đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm,
những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra
những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách
gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng).

Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn và hình thành nên
các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là lấy
con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải
quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời
Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ này có chín trường phái triết học chính (gọi là Cửu
lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp
gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau
này, các trường phái triết học được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và
hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
1.2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Hoa cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn,
chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn triết học tự nhiên có
phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Hoa cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo
đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một
đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận
thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa.
Thứ ba, triết học Trung Hoa cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa
giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự "thái quá" hay"bất cập".
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung Hoa
cổ, trung đại là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm", coi đó là
gốc rễ của nhận thức.
2. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
2.1. Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành
ở Trung Hoa, những quan niệm triết lý về "âm - dương", "ngũ hành" đã được lưu
truyền từ rất sớm. Tới thời Xuân thu - Chiến quốc, những tư tưởng về Âm dương - Ngũ
hành đã đạt tới mức là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của
thế giới.
a. Tư tưởng triết học về Âm- Dương
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu

tiên và phổ biến của vạn vật; đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau là Âm
và Dương.
"Âm" là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính phổ
biến của vạn vật như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn (2,4,6 ).
"Dương" là phạm trù đối lập với "Âm", phản ánh khái quát những tính chất phổ
biến của vạn vật như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía trái, số lẻ (1,3,5 ).
Nhưng hai thế lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau,
chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi là nguyên lý
của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính
toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư
tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả
năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm - Dương khái quát
bằng vòng tròn khép kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia thành hai
nửa (đen trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong phần đen
có nhân tố của phần trắng và ngược lại), biểu hiện cho nguyên lý trong Dương có
Âm và trong Âm có Dương.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý:
Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại; đồng thời "Âm thịnh thì
Dương khởi", "Dương cực thì Âm sinh".
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong
phú của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra lôgíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng
nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu
Dương - Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái ( Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn -
Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh
trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động
thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn, Bĩ, Thái, Truân ;

Sự chú giải Kinh Dịch là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại khác nhau với
những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một "tập đại thành" của sự chú giải,
bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
b. Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của
vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
những tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim -
Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, phía Tây,
v.v.; Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v.; Mộc tượng trưng
cho tính chất xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng,
phía Nam,.v.v.; Thổ tượng trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh
hưởng sinh - khắc với nhau theo hai nguyên tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy
sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa
khắc Kim; Kim khắc Mộc và Mộc khắc Thổ.v.v.
Sự hợp nhất giữa tư tưởng triết học Âm - Dương và Ngũ hành đã làm cho
mỗi thuyết có sự bổ túc, hoàn thiện hơn, thể hiện điển hình ở chỗ: các quẻ đơn
(Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài) đều được quy về Ngũ hành
để biện giải và ngược lại, Ngũ hành cũng mang tính cách Âm - Dương. Chẳng
hạn: Kiền - Đoài thuộc hành Kim; chấn - Tốn thuộc hành Mộc v.v. và Kim cũng
có Kim Âm và Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm và Mộc Dương.
2.2. Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được
Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy
vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu
dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung

Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh sách
này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho
thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là những tư tưởng cốt
lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu
sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ
nền tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng
- vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao
nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng
làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho
gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến,
một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia
là xây dựng một "xã hội đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự trên - dưới, có vua
sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm trên cơ sở địa vị và thân
phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Có thể nói đó là lý
tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý
tưởng "đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền
giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong
bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là "Nhân". Những chuẩn mực
khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ thể của
Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết
những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác
của Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính con người. Trong
học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề này, nhưng nổi
bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính con người vốn là thiện" (Nhân
chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ
khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.

Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi
chúng là tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng Khổng -
Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con người trở về đường thiện với những
chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con
người vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo hóa trở
thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ). Xuất phát từ quan niệm đó về tính người,
Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN)
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những mâu
thuẫn. Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa
nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến hóa không phụ
thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật
sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “ cũng như dòng nước chảy,
mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16).
Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của ông. Mặt khác,
ông lại cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên
mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách qua trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo
của ta thi hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời”
(Luận ngữ, Hiến vấn, 38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh
Trời là một điều kiện tất yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử.
Cũng như thế, một mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt
khác ông lại nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời
sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển,
không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do
đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng trí” (không học cũng biết) và
“hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri thức tiên thiên, có
trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí”
và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không học thì rơi

xuống hạ ngu. Ưu điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không
phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra một số phương pháp học tập có ý nghĩa như:
học phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để biết
mới; học phải nắm được cái cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan
niệm học theo lối “hoài cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn đề
cốt lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong
học thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng cùng với một hệ thống
quan niệm về chính trị - xã hội như “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”, “quân
tử”, “tiểu nhân”
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học
của mình. Nhân có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người,
có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về
nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”, “ Điều gì mình không
muốn, đừng đem nó làm cho người khác là nhân”, “yêu thương người là
nhân” Tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu thương con người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử là
những phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế
pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình pháp Lễ
được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu ,
nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ
thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ cương.
Để làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi
việc cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên,1); “Chính danh thì người nào có địa
vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh,
vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận ngữ, Bát Dật, 19) Theo
Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì “danh
không chính thì lời nói không thuận; lời nói không thuận thì sự việc không thành
công; sự việc không thành công thì lễ nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng

thịnh thì hình phạt không đúng; hình phạt không đúng thì dân không biết theo ai?”
(Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Quốc thời
Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học
thuyết này mang tính bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua
theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng
cấp xuất thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền
đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ, Tử Lộ, 2). Việc ông
mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những người có tài, đức
tham gia vào công cuộc cai trị.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh của Khổng Tử là nhằm phục
vụ mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì
làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. Theo ông, làm chính trị mà
dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các sao khác
đều chầu đến.
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và
mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của
giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Để trở
thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều
giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn
cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh
Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình
Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại
được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học
của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị
của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị
nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia
trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong
các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.

Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở
bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những
quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia v.v. Vì vậy,
có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa. Nho
gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp
các tư tưởng triết học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã
có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp
đạt tới mức nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
2.3. Đạo gia (hay học thuyết về Đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học
thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát
triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia
được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng
biện chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của
Đạo gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- "Đạo" là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về với
cội nguồn của Đạo.
- "Đạo" là cái vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu không
thể tách rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo.
Bởi vậy, có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại.
- "Đạo" là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là "đạo
pháp tự nhiên".
Chính trong quan niệm về "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát
cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể
thống nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan
niệm về "Đạo", trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau:
Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản phục"

(cân bằng và quay trở lại cái ban đầu).
- Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn
tại của nhau, trong cái này đã có cái kia.
Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch nên
Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải
quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa
mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia không bao hàm
tư tưởng về sự phát triển.
Học thuyết chính trị - xã hội với cốt lõi là luận điểm "Vô vi". Vô vi không
phải là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là hành động
theo bản tính tự nhiên của "Đạo".
2.4. Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN) sáng
lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây
là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi
thiên mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do
định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền
của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm
Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết về
nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm,
coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
Thuyết "Kiêm ái" là một chủ thuyết chính trị - xã hội mang đậm tư tưởng
tiểu nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc,
thân sơ trong học thuyết "Nhân". Ông chủ trương mọi người yêu thương nhau,
không phân biệt thân sơ, đẳng cấp
Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên
phương diện nhận thức luận.
2.5. Pháp gia

Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng
những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức
của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc.
Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống
lại tàn dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín
tôn giáo đương thời.
Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN). Tư tưởng
Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau:
Về tự nhiên:
Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật khách
quan mà ông gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn
tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có "Lý" của nó. "Lý" là sự biểu hiện
khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn biến hóa và phát
triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động của con người không chỉ dựa trên quy
luật khách quan, mà còn phải thay đổi theo sự biến hóa của "Lý", chống thái độ cố
chấp và bảo thủ.
Về lịch sử:
Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không thể
có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho
mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội làm 3 giai đoạn chính, mỗi
giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng với trình độ nhất
định của sản xuất và văn minh. Đó là:
+ Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa để
nấu chín thức ăn.
+ Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai.
+ Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt
lẫn nhau.
Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của
dân số và của cải xã hội.
Về thuyết "Tính người":

ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác, đưa ra học thuyết
luân lý cá nhân vị lợi, luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi Kẻ
thống trị phải nương theo tâm lý vị lợi của con người để đặt ra pháp luật, trọng
thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.
Tư tưởng về pháp trị.
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học
thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông
cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép "vô vi trị" của Đạo gia.
Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật,
trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để
thực hiện chính sách đó.
+ "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa hẹp,
là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân
thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì
vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, giúp
cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình.
+ "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
+ "Thuật" cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của nhà
vua nhằm lấy danh mà tránh thực.
3. Một số nhận định về triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng
đầu của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực
tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để
giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư
tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô
hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn
mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung
Hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về

sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương - Ngũ hành tuy còn có
những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy
vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, có ảnh hưởng lớn đến thế giới
quan triết học sau này ở Trung Hoa và một số nước khác trong khu vực.
Chương 4: Triết học Hy Lạp cổ đại
1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Hy Lạp cổ đại
1.1. Trong những nền văn minh cổ đại rực rỡ mà ngày nay người ta biết được thì nền văn minh Hy Lạp
- La Mã xuất hiện muộn hơn cả, nhưng nó lại rất phong phú, đặc biệt là về triết học. Điều đó có thể giải
thích bằng tính chất điển hình của chế độ chiếm hữu nô lệ ở đây. Hy Lạp và La Mã đã có một chế độ
chiếm hữu nô lệ phát triển tới hình thức cao, mang tính chất điển hình, biểu hiện ở các điểm sau đây:
- Sự phân hoá giai cấp trong xã hội hết sức rõ rệt thành hai giai cấp chủ yếu là giai cấp chủ nô và giai
cấp nô lệ. Nô lệ có số lượng đông đảo trong xã hội và sống tập trung (có tài liệu cho biết: vào thế kỷ IV.

×