Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Nghiên cứu phản ứng của tếch (Tectona grandis Linn. F) đối với khí hậu ở huyện Định Quán tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 74 trang )

MỞ ĐẦU
Tếch (Tectona grandis Linn. F) là loài cây tự nhiên của khu hệ thực vật
Ấn Độ – Miến Điện và phân bố tự nhiên ở Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan và
Lào. Do tếch cho gỗ có chất lượng tốt và giá trị thương phẩm cao, nhu cầu thị
trường lớn, đồng thời nó là loài cây dễ trồng và thích nghi với nhiều lập địa
khác nhau, nên hiện nay tếch đã được trồng rộng rãi không chỉ trong khu vực
phân bố tự nhiên, mà còn cả những khu vực nằm ngoài khu phân bố tự nhiên.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về những vấn
đề có liên quan đến chọn giống tếch, chọn lập địa trồng rừng tếch, kỹ thuật
gieo ươm và trồng rừng tếch, kỹ thuật nuôi rừng tếch, sinh trưởng và năng
suất rừng tếch, chu kỳ kinh doanh và hiệu quả kinh doanh rừng tếch…Tuy
vậy, theo Kaosa – ard (1995), hiện nay vẫn còn thiếu những kiến thức về sản
lượng và năng suất rừng tếch trồng ở những khu vực khác nhau trên thế giới.
Tại Việt Nam, tếch cũng đã được đưa vào trồng rừng từ thập niên 60
của thế kỷ XX trên đất bazan nâu đỏ ở Đắc Lắc, Đồng Nai, Bình Phước, Bà
Rịa-Vũng Tàu và Bình Dương. Mục tiêu chính của trồng rừng tếch là sản xuất
gỗ với năng suất cao và chất lượng tốt để đáp ứng nhu cầu về gỗ đồ mộc cao
cấp (trang trí nội thất nhà cửa và tàu thuyền) và mộc gia dụng (bàn, ghế,
giường, tủ…). Để đạt được mục tiêu đề ra, nhận thấy khoa học và thực tiễn
cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu về đặc tính sinh thái học của loài
cây này.
Trước đây đã có một số công trình nghiên cứu về rừng tếch ở Đồng
Nai; trong đó phần lớn chỉ tập trung nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và sinh
trưởng của quần thụ tếch trên những lập địa khác nhau… Chính vì thế, cho
đến nay khoa học và thực tiễn vẫn còn thiếu những kiến thức về vai trò của
những nhân tố sinh thái, đặc biệt là các yếu tố khí hậu, đối với sinh trưởng và
phát triển của tếch.
1
Xuất phát từ đó, đề tài “Nghiên cứu phản ứng của tếch (Tectona
grandis Linn. F) đối với khí hậu ở huyện Định Quán tỉnh Đồng Nai” đã
được đặt ra.


Sau khi hoàn thành đề tài này, tác giả mong muốn góp thêm: Về lý
luận, những kết quả của đề tài góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu để làm rõ mối
liên hệ giữa sinh trưởng của Tếch với khí hậu. Về thực tiễn, những kết quả
của đề tài là một trong những căn cứ khoa học quan trọng để dự đoán ảnh
hưởng của khí hậu đến sinh trưởng của tếch.
2
Chương 1 - TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU KHÍ HẬU THỰC VẬT
1.1.1. Khái quát về khí hậu – thực vật
Khoa học về niên đại thực vật (Dendrochronology) là thuật ngữ được
kết hợp bởi Dendro và Chronology; trong đó Dendro xuất phát từ tiếng
Hylạp, có nghĩa là cây gỗ (Tree), còn Chronology là tên ngành khoa học
nghiên cứu về thời gian và xác định niên đại cho các sự khác biệt. Cho nên,
Dendrochronology được hiểu là ngành khoa học nghiên cứu niên đại vòng
năm thân cây [28], [29], [30].
Theo Bitvinskas (1974)[28] và Fritts (1971)[33-34], những kiến thức
của khoa học về niện đại thực vật có thể cung cấp những thông tin có giá trị
về khí hậu quá khứ (Paleoclimate). Nguyên nhân là vì, bề rộng vòng năm
được đo dễ dàng cho nhiều năm liên tục và chúng có thể được dùng để kiểm
tra tài liệu khí hậu. Các vòng năm ghi lại chính xác các hiện tượng thời tiết
của những năm mà chúng hình thành. Số liệu vòng năm cũng có thể được sử
dụng để truy tìm những biến động của khí hậu xuất hiện định kỳ (hay theo
chu kỳ) theo một số năm nhất định. Ngoài ra, nó còn giúp chúng ta dự đoán
những biến đổi của khí hậu trong tương lai.
Theo Bitvinksas (1974)[28], Fritts (1971)[33] và Kozlowski (1971)
[36], hiện nay những nghiên cứu về khí hậu ngày càng được đẩy mạnh hơn.
Mục đích của những nghiên cứu này là nhằm xây dựng những dãy số biểu
hiện sự biến động của vòng năm trong thời gian dài, xây dựng những thang
chuẩn của biến động vòng năm đối với từng vùng địa lý riêng biệt. Kết quả
của những nghiên cứu đó sẽ làm sáng tỏ những ảnh hưởng định lượng của các

nhân tố sinh thái, đặc biệt là hoạt động của mặt trời, đến sinh trưởng và năng
suất của rừng.
3
1.1.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng của khí hậu đến sinh trưởng thực vật
1.1.2.1. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của khí hậu đến sinh trưởng
thực vật trên thế giới
Theo Eklund (1957) chỉ số tăng trưởng của loài Picea excelsa ở phía
bắc Thủy Điển từ năm 1900 – 1944 có quan hệ chặt chẽ với một số yếu tố khí
hậu theo dạng:
Y = 99,41 + 0,9188x
1
– 3,129x
2
– 2,405x
3
– 0,4282x
4
Trong đó, x
1
là số ngày mưa từ tháng 16 tháng 5 đến 31 tháng 7 cho
những năm t có nhiệt độ trung bình cao nhất là 16
0
C, x
2
là sản lượng hạt giống
của năm t, x
3
sản lượng hạt giống của năm t – 1 và x
4
là nhiệt độ hàng ngày

cao nhất của năm t -1.
Bằng phương pháp hồi quy tuyến tính, Schulman và Bryson (1965) đã
dự đoán được vòng năm của loài Quercus rubra đạt tối đa khi thỏa mãn các
điều kiện sau: (1) sự suy giảm lượng nước bốc hơi trong tháng 6, (2) sự nâng
cao tổng lượng mưa trong tháng 5 và tháng 7, (3) sự giảm thấp nhiệt độ trung
bình tháng 5 của năm trước và sự nâng cao lượng nước bốc hơi của tháng 4
năm trước.
Kohler (1964) và Kozlowski (1966) cho rằng, các phương pháp khí hậu
thực vật (Dendroclimatology – phương pháp dựa trên mối liên hệ giữa vòng
năm với các yếu tố khí hậu) có thể được sử dụng rộng rãi để xác lập mối liên
hệ giữa các hiện tượng xảy ra trên trái đất với hoạt động của mặt trời, khôi
phục và dự báo biến động của các quá trình tự nhiên.
Khi nghiên cứu loài Pinus halepensis ở miền nam nước Pháp, Serre
(1966) nhận thấy chỉ số vòng năm (Y) có quan hệ chặt chẽ với số năm liên tục
từ năm 1 đến năm 21 (x
1
), số ngày sau ngày 1 tháng giêng khi mùa hè khô bắt
đầu (x
2
), số ngày có tuyết rơi từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau (x
3
),
tổng lượng mưa trong mùa khô (x
4
), tổng lượng mưa trong mùa mưa (x
5
) và
4
độ dốc của các lâm phần nghiên cứu (x
6

). Bằng phương trình hồi qui tuyến
tính, Schulman và Bryson (1965) đã dự đoán được vòng năm của loài
Quercus rubra đạt tối đa khi thỏa mãn các điều kiện sau: lượng nước bốc hơi
trong tháng 6 thấp, tổng lượng mưa trong tháng 5 và tháng 7 cao, nhiệt độ
bình quân tháng 5 của năm trước thấp và lượng nước bốc hơi tháng 4 năm
trước cao.
Theo Bitvinskas (1974), khi xác định được tuổi vòng năm cây gỗ và
tăng trưởng hàng năm của vòng năm trong mối liên hệ với các biến động khí
hậu thì chúng ta có thể khôi phục và dự báo được các hiện tượng và quá trình
tự nhiên khác.
Nhiều nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng, sinh trưởng của các loài
cây gỗ có mối liên hệ chặt chẽ với các nhân tố khí hậu. Khi nghiên cứu hai
loài Abies lasiocarpa và Pseudotsuga menziesli, Fritt (1980)[Dẫn theo 25] đã
nhận thấy rằng sinh trưởng của chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhiệt độ và
lượng mưa. Chỉ số tăng trưởng đường kính của loài Pseudotsuga menziesli có
mối quan hệ tuyến tính dương với lượng mưa từ tháng 7 năm trước đến tháng
1, 2, 6 và tháng 7 năm sau. Ngược lại, chỉ số tăng trưởng đường kính của loài
Abies lasiocarpa có quan hệ tuyến tính dương với lượng mưa của các tháng
11 và 12 năm trước và tháng 2, 3 và 6 năm sau. Lượng mưa lớn giúp cho loài
Abies lasiocarpa tăng trưởng trong một thời gian dài từ tháng 11 đến tháng 2.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của khí hậu đến sinh trưởng
thực vật ở Việt Nam
Theo Nguyễn Ngọc Lung (1978), các điều kiện ngoại cảnh ở Đà Lạt và
Bảo Lộc có ảnh hưởng giống nhau tới sinh trưởng của thông ba lá, nhưng sự
khác nhau về tăng trưởng đường kính thân cây theo từng tháng trong năm là
rất lớn. Từ tháng 5 đến tháng 9, lượng tăng trưởng hàng tháng gấp 2 đến 5 lần
các tháng còn lại trong năm. Do đó mùa sinh trưởng của thông ba lá kéo dài
5
từ tháng 5 đến tháng 10; trong đó hơn 70% lượng tăng trưởng của thông ba lá
hình thành trong mùa sinh trưởng.

Những nghiên cứu về sinh khí hậu còn được áp dụng để phân tích ảnh
hưởng của các nhân tố khí hậu đến sinh trưởng của các loài cây gỗ. Khi sử
dụng phương pháp sinh khí hậu để phân tích biến động của tăng trưởng và
phân hóa cây rừng của các lâm phần thông Pinus sylvestris ở Varônhezơ
(Russia), Vương Văn Quỳnh (1990) (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 2010[25])
đã nhận thấy rằng, những cây thuộc cấp sinh trưởng khác nhau có phản ứng
không giống nhau với các điều kiện khí hậu. Ở những lâm phần non, tăng
trưởng cây rừng phụ thuộc chặt chẽ vào khí hậu. Hoạt động của mặt trời ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tăng trưởng cây rừng. Sinh trưởng của những
cây thuộc cấp sinh trưởng kém phụ thuộc rất ít vào hoạt động của mặt trời.
Theo Nguyễn Văn Thêm (1992)[20], thời tiết trong 5 tháng (tháng 11,
12 năm trước đến tháng 1, 2 và 3 năm sau) có ảnh hưởng đến sản lượng Vải
(Nephelium litchi) tại trạm Phú Hộ (Phú Thọ).
Trần Thị Tuyết Hằng (1998), khi nghiên cứu nhịp điệu sinh trưởng
đường kính thông đuôi ngựa dưới ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu tại Lâm
trường Tam Đảo – Vĩnh Phúc đã phát hiện nhịp điệu sinh trưởng và phân hóa
của cây rừng trong các lâm phần thông đuôi ngựa, xác định mối quan hệ định
lượng của chúng với biến động khí hậu và cường độ mặt trời.
Những nghiên cứu của Phạm Trọng Nhân (2003) và Nguyễn Văn Thêm
(2003)[23] cho thấy thông ba lá ở Lâm Đồng có quan hệ tuyến tính âm khá
chặt chẽ với nhiệt độ không khí trung bình tháng 2, tháng 3, tháng 4, tháng 9,
tháng 10 và tập hợp 3 tháng 2 – 4. Sự gia tăng số giờ nắng của các tháng đầu
mùa khô (2-3) và giữa mùa mưa (7-10) đều có khuynh hướng làm giảm khá
rõ rệt chỉ số tăng trưởng đường kính của thông ba lá. Biến động của chỉ số độ
ẩm không khí hàng tháng cũng như cả năm có ảnh hưởng không rõ rệt đến
6
biến động chỉ số tăng trưởng đường kính của thông ba lá. Sự gia tăng chỉ số
thuỷ nhiệt trong các tháng 1 và 2, 6 và 10 – 12 sẽ kéo theo sự suy giảm chỉ số
tăng trưởng đường kính của thông ba lá. Ngược lại, sự gia tăng chỉ số thuỷ
nhiệt của tháng 3 – 5 và tháng 9 lại có khuynh hướng kéo theo sự nâng cao

chỉ số tăng trưởng đường kính của thông ba lá. Biến động chỉ số tăng trưởng
đường kính thông ba lá phụ thuộc rất chặt chẽ vào biến động của tổ hợp chỉ số
nhiệt độ tháng 2, chỉ số lượng mưa tháng 2 và chỉ số giờ nắng tháng 2. Biến
động chỉ số tăng trưởng đường kính thông ba lá cũng có mối quan hệ rất chặt
chẽ với biến động của tổ hợp chỉ số nhiệt độ tháng 9, chỉ số lượng mưa tháng
9 và chỉ số giờ năng tháng 9. Giữa biến động chỉ số tăng trưởng đường kính
thông ba lá và tổ hợp chỉ số nhiệt độ, chỉ số lượng mưa và chỉ số giờ nắng của
các tháng 2,3 và 9 cũng tồn tại mối quan hệ rất chặt chẽ.
1.2. ĐẶC ĐIỂM PHÂN LOẠI VÀ PHÂN BỐ TỰ NHIÊN CỦA TẾCH
1.2.1. Đặc điểm phân loại
Trên thế giới có 3 loài tếch – đó là Tectona grandis Linn. F, Tectona
philippinensis Beth & Hokkf và Tectona hamiltonia Wallich. Loài tếch được
trồng thành rừng ở tỉnh Kampong Cham (Campuchia) có tên khoa học là
Tectona grandis Linn. F, thuộc họ tếch (Verbenaceae), bộ quản hoa
(Tubiflorales).
Tếch là loài cây đại mộc, cành non vuông cạnh phủ nhiều lông màu gỉ
sắt, khi dập có mủ đỏ. Lá đơn, mọc đối hình trứng ngược, chiều dài có thể đạt
đến 40 cm hoặc hơn, rộng khoảng 15 cm, phiến xoan bầu dục, có màu lục
tươi; mặt dưới lá có lông hình sao vàng; lá rụng từ tháng 2 – 3 dương lịch.
Hoa tự có dạng chùm tụ tán, mọc ở ngọn nhánh, kích thước có thể đạt đường
kính gần 40 cm; hoa gần đều, nhỏ và nhiều, có màu trắng, đài hoa có 5 – 6
răng, vành có 5 – 6 tai, tiểu nhụy nhỏ. Quả hạch cứng và tròn, đường kính
khoảng 2 cm, phủ đầy lông. Gỗ màu vàng nâu hay nâu đậm có sọc, có chứa
7
dầu, nặng vừa (d = 0.7), bền, ít co giãn, có thớ mịn, rất ít bị mối mọt vì trong
vỏ có chứa nhiều Oleoresin [1].
Theo Kadambi (1979)[36], tếch là loài cây của rừng nửa rụng lá nhiệt
đới gió mùa. Ở rừng tự nhiên, tếch trưởng thành có thể đạt chiều cao 40 m,
đường kính 1 – 2 m. Tếch có thân thẳng, nhiều hoa nhưng hơn 90% không
hình thành quả. Tếch sinh sản sớm, thông thường ở tuổi 8 – 10 năm. Thời kỳ

ra hoa là giữa tháng 7 đến đầu tháng 9 hàng năm; quả chín và rụng từ tháng
12 năm trước đến tháng 2 năm sau. Quả chín có vỏ màu nâu vàng. Tếch tái
sinh chồi tốt ở tuổi non, do đó nó có thể được trồng bằng stump (thân cụt).
1.2.2. Phân bố tự nhiên của tếch
Tếch chỉ phân bố tự nhiên ở Myanmar, Ấn Độ, Thái Lan và Lào. Vùng
phân bố tự nhiên của tếch nằm trong khoảng giữa vĩ độ 9
0
00’ - 25
0
30’ Bắc và
kinh độ 73
0
-103
0
Đông. Tếch cũng thấy xuất hiện khoảng 1 triệu ha ở quần
đảo Java (Indonesia). Vì tếch sinh trưởng khá tốt ở Indonesia, nên hiện nay
người ta đã coi giới hạn phân bố của tếch ở phía nam là giữa vĩ độ 5
0
– 9
0
Nam [36].
Tếch phân bố tự nhiên trong khu vực nhiệt đới gió mùa (mùa khô và
mùa ẩm phân biệt rõ), khí hậu nóng và ẩm, mùa đông không quá lạnh, không
có bão lớn. Biên độ nhiệt độ trung bình từ 20-27
0
C, tổng nhiệt độ lớn hơn
10
0
C là 8.000
0

C, nhiệt độ tối cao trung bình 40
0
C, nhiệt độ tối thấp trung bình
12,5
0
C. Lượng mưa rơi từ 1.300 – 2.990 mm/năm [36].
Tếch phân bố tự nhiên từ độ cao gần mặt biển đến độ cao khoảng
1000m so với mặt biển. Tếch sinh trưởng không tốt trên những đất hình thành
từ cuội kết, sa thạch hoặc đá ong. Tếch ưa thích đất phát triển từ đá granit,
bazan và phiến sét. Tếch đòi hỏi đất thoát nước và không chịu được đất úng
nước, ưa thích môi trường đất có pH = 6,5 – 8,0, đủ canxi (Ca), photpho (P)
và magiê (Mg) [14], [17].
8
1.3. PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ RỪNG TẾCH TRỒNG
1.3.1. Những nghiên cứu về lập địa trồng rừng tếch
Tính đến năm 1990, tổng diện tích rừng tếch trồng trên thế giới là 1,6
triệu ha, chiếm 75% diện tích rừng trồng cây gỗ cứng chất lượng cao của
nhiệt đới [36]. Mục tiêu chủ yếu của rừng tếch trồng là sản xuất những cây gỗ
chất lượng cao với sinh trưởng tốt [36].
Hiện nay tếch đã được trồng thành rừng cả ở trong và ở ngoài phạm vi
phân bố tự nhiên của nó ở nhiệt đới. Khu vực này bao phủ một vùng khí hậu
rộng lớn, từ kiểu khí hậu xích đạo đến kiểu khí hậu á nhiệt đới với lượng mưa
từ 500 – 3.500 mm và biên độ nhiệt độ từ 2
0
– 48
0
C. Điều kiện đất trồng rừng
tếch cũng rất khác nhau, từ đất chua nghèo đến đất bồi tụ màu mỡ (36).
Theo Kaosa-ard (1981)[37-40], tếch sinh trưởng trong một biên độ rất
rộng của lượng mưa, từ điều kiện rất khô (500 mm/năm) đến điều kiện rất ẩm

(> 5.000 mm/năm). Nói chung, tếch sinh trưởng tốt trong những điều kiện có
khí hậu nóng ẩm với 3-5 tháng khô; đất ẩm, thoát nước tốt, tầng đất sâu, đất
phù sa giàu canxi và NPK, pH = 6,5-7,5. Ngoài ra, màu sắc và cấu trúc của gỗ
tếch cũng chịu ảnh hưởng của lập địa.
Nhiều nghiên cứu cũng đã hướng vào việc tìm hiểu khả năng thích
nghi, sinh trưởng và năng suất của rừng tếch được trồng trên những lập địa
khác nhau. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tếch sinh trưởng tốt nhất trên
đất bồi tụ (phù sa) sâu và thoát nước tốt được hình thành trên nền các loại đá
vôi, phiến thạch, gơnai, phiến sét và một số đá do núi lửa hình thành như đá
bazan. Ngược lại, khi mọc ở điều kiện đất cát khô, đất có tầng mỏng, đất chua
(pH < 6,0) có nguồn gốc từ feralít, đất than bùn, đất cứng chắc hoặc bị úng
nước, thì tếch sinh trưởng rất kém, hình thái thấp và xấu [37]. Sau khi nghiên
cứu đặc tính của đất dưới rừng tếch, nhiều tác giả đã đi đến nhận định rằng,
9
tếch đòi hỏi đất có độ phì cao, giàu Ca, P, K, N, mùn, pH = 6,5-7,5 (Dẫn theo
17).
Sau khi tổng quan nhiều tài liệu, Evans (1976)[Dẫn theo 36] đã đi đến
nhận định rằng khai thác trắng rừng tự nhiên để trồng rừng tếch qua nhiều chu
kỳ có thể làm thoái hoá đất. Tuy vậy, khi kinh doanh rừng tếch với chu kỳ
dài, đặc tính của đất thay đổi không lớn và lập địa có thể không thay đổi.
Theo Nguyễn Xuân Quát (1993; 1995)[14], đất có vai trò quyết định
đối với sự thành công của trồng rừng tếch ở khu vực Tây Nguyên (Việt Nam).
Trên đất đỏ nâu, sinh trưởng của rừng tếch giảm rõ rệt theo mức thoái hoá của
thảm thực vật. Ngược lại, trên đất đỏ vàng sinh trưởng của tếch dưới rừng thứ
sinh kiệt không có khác biệt rõ rệt so với đất dưới trảng cỏ. Những đất không
thích hợp cho sinh trưởng của tếch trồng ở Việt Nam là đất đỏ nâu phát triển
trên đá bazan dưới rừng le và trảng cỏ.
Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình (1995)[16] cho rằng, đất thích hợp
với sinh trưởng của tếch trồng ở các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ (Việt
Nam) là đất nâu xám trên đá bột bazan, đất hình thành trên đá vôi, đất đen

trên tro núi lửa (Tuf), đất nâu xẫm trên bazan, đất xám trên phù sa cổ và
granit, đất phù sa sông suối và thoát nước tốt. Theo Viện nghiên cứu rừng
nhiệt đới Trung Quốc (1993)[Dẫn theo 17], kiểu đất không thích hợp với tếch
là laterit đỏ trên núi, đất đỏ vàng hay nâu vàng, laterit vàng hay nâu xám trên
núi.
1.3.2. Những nghiên cứu về các yếu tố sinh thái khác
Ngoài những yếu tố khí hậu (lượng mưa, độ ẩm, ánh sáng) và loại đất,
những yếu tố khác như độ cao và nhiệt độ cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc giới hạn phân bố, sinh trưởng và phát triển của rừng tếch (Dẫn theo
[17]).
10
Theo nghiên cứu của Gyi (1972), Kanchanaburangura (1976) và Kaosa-
ard (1977)(Dẫn theo 17), nhiệt độ tối ưu cho sinh trưởng và phát triển của
tếch là 27
0
C – 36
0
C. Tếch chịu đựng rất kém với nhiệt độ thấp và sương giá
của mùa đông. Cây con và cả cây trưởng thành có thể bị chết khi gặp lạnh và
sương giá. Đó cũng là nguyên nhân giải thích vì sao tếch không thể sinh
trưởng bình thường ở độ cao từ 700 m trở lên so với mặt biển (Dẫn theo [17]).
Nói chung, những yếu tố giới hạn sinh trưởng và năng suất của tếch là
bão lớn, nhiệt độ thấp, đất có tầng mỏng và chua, đất ngập úng, đất kết von đá
ong, đất có nhiều đá lộ đầu…(Dẫn theo [36-40]).
1.3.3. Những nghiên cứu về sinh trưởng và năng suất rừng trồng tếch
Theo Nguyễn Ngọc Lung (1995)[12], sinh trưởng và năng suất của
rừng tếch ở Việt nam thay đổi tùy theo tuổi rừng, loại đất và địa phương.
Những kết quả nghiên cứu của Phân Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Nam Bộ
(1995)[Dẫn theo 17] cho thấy, sinh trưởng đường kính, chiều cao và năng
suất của rừng tếch 20 tuổi trên một số loại đất ở các địa phương của Việt Nam

thay đổi tùy theo loại đất và mật độ trồng. Năng suất trung bình của rừng tếch
20 tuổi đạt cao nhất trên đất bazan (11,5 m
3
/ha/năm), kế đến là đất phù sa cổ
(8,5 m
3
/ha/năm), thấp nhất là đất feralit đỏ vàng (4,0 m
3
/ha/năm). Những
nghiên cứu của Trần Duy Diễn (1995)[3] và Đinh Đức Điểm (1995)[5] đã chỉ
ra rằng, rừng tếch ở La Ngà (Đồng Nai, Việt Nam) sinh trưởng tốt trên đất
feralit nâu đỏ phát triển từ đá bazan (lập địa tốt) với pH > 6,6, sinh trưởng
kém trên đất feralit đỏ vàng phát triển từ đá phiến thạch sét (lập địa trung
bình) với pH < 5,0. Trên lập địa tốt, đường kính và chiều cao của rừng tếch ở
tuổi 12 năm đạt tương ứng 15,0 cm và 19,0 cm, trữ lượng 200 m
3
/ha. Khi
nghiên cứu về rừng tếch ở khu vực miền Đông Nam Bộ (Việt Nam), Nguyễn
Văn Thêm và Mạc Văn Chăm (2005)[2] đã chỉ ra rằng, tếch sinh trưởng rất
nhanh trong 6 năm đầu, nhưng từ tuổi 8 trở đi lượng tăng trưởng bình quân về
11
đường kính và chiều cao đều giảm nhanh. Suất tăng trưởng đường kính đạt
khá cao ở tuổi 2 (50,0%), giảm còn 7,0 % ở tuổi 10 năm và 2,8% ở tuổi 20
năm. Năng suất rừng tếch từ tuổi 9 – 14 năm ở miền Đông Nam Bộ dao động
từ 13 – 15 m
3
/ha/năm, còn ở tuổi 20 – 22 năm là 10 m
3
/ha/năm.
1.4. THẢO LUẬN CHUNG

Từ những thông tin tóm lược về khí hậu thực vật và đặc tính sinh thái
của Tếch, nhận thấy cần thảo luận thêm những vấn đề sau đây:
(1) Phương pháp niên đại thực vật và khí hậu thực vật cho phép xác
định ảnh hưởng của khí hậu đến tăng trưởng của cây gỗ. Nội dung cơ bản của
hai phương pháp này là phân tích mối liên hệ giữa biến động của chỉ số vòng
năm trên thân cây gỗ với biến động của chỉ số khí hậu. Kết quả nhận được
cho phép suy đoán không chỉ ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu đến tăng
trưởng của cây gỗ, mà còn dự đoán khuynh hướng tăng trưởng của cây gỗ và
biến động của các yếu tố khí hậu. Vì thế, để đạt được mục tiêu nghiên cứu của
đề tài, tác giả cũng sẽ ứng dụng phương pháp niên đại thực vật và khí hậu
thực vật để làm rõ mối quan hệ của Tếch với khí hậu.
(2) Cho đến nay, ngoài những thông tin về khu vực phân bố và phân
loại Tếch, vẫn còn thiếu những nghiên cứu về ảnh hưởng khí hậu đến sinh
trưởng của Tếch. Vì thế, cho đến nay khoa học và thực tiễn vẫn chưa thể hiểu
rõ vai trò của các yếu tố khí hậu đối với sinh trưởng và phát triển của Tếch
một cách toàn diện và sâu sắc. Vì lý do đó, đề tài này dự kiến tiếp tục nghiên
cứu làm rõ ảnh hưởng của khí hậu đến sinh trưởng Tếch ở Định Quán tỉnh
Đồng Nai. Từ kết quả nghiên cứu, đề xuất những mô hình phân cấp điều kiện
khí hậu thuận lợi và không thuận lợi đối với sinh trưởng của Tếch.
Những kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của khí hậu đến sinh trưởng
của Tếch là những thông tin rất quan trọng để xác định đặc tính sinh thái và
12
áp dụng những biện pháp bảo tồn và phát triển quần thể Tếch ở Định Quán
tỉnh Đồng Nai
Chương 2 - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Định Quán là một huyện bán sơn địa, nằm về phía Đông Bắc của tỉnh
Đồng Nai, cách thành phố Biên Hòa 85km với tổng diện tích tự nhiên:
966,5km
2

, chiếm 16,40% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Huyện có 14 đơn vị hành chính gồm: 1 thị trấn Định Quán và 13 xã:
Thanh Sơn, Phú Tân, Phú Vinh, Phú Lợi, Phú Hòa, Ngọc Định, Gia Canh,
Phú Ngọc, La Ngà, Túc Trưng, Phú Túc, Phú Cường, Suối Nho.
+ Tọa độ địa lý :
11
0
00

30’’ – 11
0
25

30’’ vĩ độ Bắc.
107
0
07

30

’ – 107
0
30

00
’’
kinh độ Đông.
+ Tiếp giáp :
Phía Bắc và Đông giáp huyện Tân Phú.
Phía Đông Nam giáp tỉnh Bình Thuận.

Phía Nam giáp huyện Thống Nhất, Xuân Lộc, thị xã Long Khánh.
Phía Tây giáp huyện Vĩnh Cửu.
+ Địa hình : là vùng đồi gò lượn sóng, dốc thoải, có độ nghiêng trung
bình 2,5
0
/km về phía Đông Bắc – Tây Nam, địa hình không bằng phẳng có độ
cao trung bình so với mặt nước biển là 180m. Hướng Đông nam Định Quán
có hai sông lớn chảy qua: sông Đồng Nai dài 32km, sông La Ngà dài 46,6 km
thuận lợi phát triển giao thông đường đường thủy - bộ và giao lưu kinh tế với
các vùng.
2.2. KHÍ HẬU VÀ THỦY VĂN
13
+ Khí hậu: Định Quán mang đặc tính khí hậu miền Đông Nam bộ, khí
hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhiệt độ ổn định quanh năm và hầu như
không có mùa đông. Phân chia thành hai mùa rõ rệt trong năm.
Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4: có gió mùa Đông Bắc mang đặc tính
chủ yếu của vành đai tín phong, không khí nhiệt đới nóng ít hơi ẩm và hầu
như không có mưa.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10: có gió mùa Tây Nam mang nhiều
hơi ẩm từ biển vào, không khí xích đạo và nhiệt đới có đặc tính nóng, ẩm và
có mưa mùa.
Lượng mưa: tương đối lớn và phân hóa theo mùa, theo vùng từ 2.500-
2.800 mm/năm và có số ngày mưa 150 – 160 ngày/năm.
+ Đặc điểm thủy văn
Hệ thống sông suối trên địa bàn huyện nhỏ hẹp, tốc độ dòng chảy lớn
dẫn đến khả năng bồi lắng phù sa và cung cấp nước cho sản xuất nông - lâm
nghiệp kém. Mặt khác, do ảnh hưởng mưa theo mùa nên thường gặp lũ trong
mùa mưa (vào các tháng 7, 8, 9, 10) và thiếu nước trong mùa khô.
Mùa khô lưu lượng nước các sông thấp, chiếm khoảng 20% tổng lượng
nước trong năm (Trị An 19%; Tà Lài 19%; Lá Buông 20%; sông Ray 21%)

nên khả năng cung cấp nước tưới cho sản xuất và sinh hoạt của người dân bị
hạn chế. Ngược lại vào mùa mưa, mực nước các sông dâng cao chiếm khoảng
80% lượng dòng chảy cả năm (Trị An 81%; Lá Buông 80%), các đợt mưa lớn
kéo dài gây tình trạng ngập úng ở một số khu vực ven sông.
Chế độ thủy triều của huyện là chế độ bán nhật triều và phụ thuộc vào sự
điều tiết nước của hồ Trị An.
2.3. ĐỊA CHẤT THỔ NHƯỠNG
14
Theo phương pháp đánh giá tài nguyên đất của FAO/UNESCO, trên
địa bàn huyện gồm các nhóm đất chính: Nhóm đất xám, nhóm đất đen, nhóm
đất đỏ. Nhìn chung, các nhóm đất trên địa bàn huyện có chất lượng tốt, thích
hợp với nhiều loại hình sử dụng đất. Tiềm năng cho phát triển nông nghiệp
lớn, các loại hình sử dụng đất đa dạng, cho phép phát triển nông nghiệp theo
hướng đa dạng sinh học, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa có khả năng bảo
vệ môi trường. Trong đó thế mạnh trong nông nghiệp của huyện là phát triển
các loại cây dài ngày: cao su, cà phê, cây ăn trái và các loại cây công nghiệp
ngắn ngày như thuốc lá, đậu nành, bông vải,
2.4. DÂN SINH – KINH TẾ – XÃ HỘI:
- Hiện nay, theo thống kê hiện nay huyện Định Quán có dân số 201.589
người, với trên 47.480 hộ, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,166%, tăng cơ học
khoảng 0,147%.
- Lực lượng lao động trong toàn huyện khoảng 113.400 người, sống
chủ yếu dựa vào nông nghiệp trong đó; số người sản xuất nông nghiệp chiếm
66,95%, số người sản xuất phi nông - lâm - thủy sản 33,05 %, số hộ làm nông
nghiệp chiếm 63,09 %.
- Dân cư trên địa bàn huyện chủ yếu sống tập trung tại các khu vực
trung tâm, dọc theo quốc lộ 20 ( tuyến TP Hồ Chí Minh - Đà Lạt ), tại trung
tâm thị trấn Định Quán và các xã Phú Cường, Phú Túc, Túc Trưng, La Nga ,
Phú Ngọc, Ngọc Định, Phú Lợi, Phú Tân. Ngoài ra, tại trung tâm của các xã
và ấp cũng là nơi dân cư ở sống trên nương rẫy do vậy cơ sở hạ tầng như:

đường giao thông, điện, nước còn gặp nhiều khó khăn do dân cư sống phân
tán, không tập trung.
- Trên địa bàn huyện có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, có khoảng
31 dân tộc khác nhau, trong đó chiếm đa số là người Kinh 75,48 % , kế đến là
người Hán 16,58 % và các dân tộc khác như: Châuro 1,74 % , Giao 1,59 % ,
15
Mạ 0,57 %, Nùng 0,59 %, Khơme 0,32 %, Tày 1,69 %, ngoài ra, dân tộc Sán
Dìu 1,3%, Thái và một số dân tộc khác chiếm tỷ lệ thiểu số sống trong cộng
đồng dân cư cư ngụ trên địa bàn huyện.
Định Quán là nằm trên quốc lộ 20 giữa tuyến du lịch TP.HCM - Đà Lạt
nên thị trấn Định Quán đã định hình qua nhiều thập niên là điểm dừng của
khách du lịch với các điểm tham quan có thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng:
Sông La Ngà, đá Ba Chồng, thác Ba Giọt, thác Mai
+ Trung tâm thị trấn là khu vực có hoạt động dịch vụ - thương mại khá
phát triển, các cơ sở sản xuất, hộ kinh doanh cá thể đã tạo điều kiện lao động
có việc làm trong lực lượng lao động phi nông nghiệp.
+ Tài nguyên khoáng sản của huyện gồm: vàng, đá quý và nhất là đá
xây dựng có hầu hết trên diện tích của huyện với trữ lượng lớn có thể khai
thác công nghiệp.
+ Các loại cây trồng: cây thuốc lá, cà phê, mía, điều, các loại đỗ, cây
hoa màu và rừng trồng là thế mạnh chủ yếu của Huyện.
16
Chương 3 - MỤC TIÊU, GIỚI HẠN, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
3.1.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát là xác định những mối liên hệ chặt chẽ giữa sinh
trưởng của rừng Tếch với những yếu tố khí hậu để làm cơ sở khoa học cho
việc trồng và nuôi dưỡng rừng Tếch.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể

Từ mục tiêu tổng quát, đề tài đặt ra 3 mục tiêu cụ thể sau đây:
(1) Định lượng biến động bề rộng vòng năm và chỉ số bề rộng vòng
năm của Tếch ở khu vực Định Quán tỉnh Đồng Nai.
(2) Xác định những tháng mà điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rõ rệt đến
tăng trưởng vòng năm của Tếch.
(3) Phát triển những mô hình biểu thị mối liên hệ giữa sinh trưởng của
Tếch với những yếu tố khí hậu.
3.2. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là quần thể Tếch được trồng trên đất
bazan nâu đỏ tại khu vực Định Quán tỉnh Đồng Nai.
Nội dung nghiên cứu tập trung làm rõ những đặc điểm khí hậu của khu
vực nghiên cứu; đặc điểm vòng năm và chỉ số vòng vòng năm của Tếch; phản
ứng của Tếch đối với nhiệt độ không khí, lượng mưa, độ ẩm không khí và số
giờ nắng. Từ những kết quả nghiên cứu, đề xuất những mô hình dự đoán điều
17
kiện khí hậu thuận lợi và khó khăn đối với sinh trưởng của Tếch ở khu vực
Định Quán tỉnh Đồng Nai.
3.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là quần thể rừng trồng tếch thuần loài 46 tuổi.
Thực bì dưới tán rừng là các loại cỏ hôi, cỏ đuôi chồn. Vị trí nghiên cứu tại
khu vực Định Quán tỉnh Đồng Nai. Địa hình gợn sóng, độ cao 180 m so với
mặt biển; độ dốc trên 7
0
; đất feralit nâu đỏ phát triển từ đá bazan. Đặc trưng
lâm phần nghiên cứu dẫn ra ở bảng 3.1
Bảng 3.1. Các đặc trưng của lâm phần tếch
Đặc trưng Kết quả
Mật độ lâm phần bình quân N (cây/ha) 380
Đường kính thân cây ở vị trí 1,3 m bình quân
D

1.3
(cm)
66,5
Chiều cao vút ngọn bình quân H
vn
(m) 28,4
Độ tàn che tán rừng bình quân 0,65
Tiết diện ngang bình quân lâm phần G (m
2
/ha) 144,06
Trữ lượng bình quân lâm phần M (m
3
/ha) 1687
Đối với cây mẫu đề tài thu thập và xử lý các chỉ tiêu lượng tăng trưởng
thường xuyên hàng năm về đường kính thân cây (ZD,cm/năm), lượng tăng
trưởng bình quân năm về đường kính thân cây (ΔD, cm/năm), suất tăng
trưởng đường kính thân cây (Pd,%), kết quả xử lý được thể hiện tại bảng 3.2:
Bảng 3.2. Các đặc trưng của cây mẫu
Đặc trưng Kết quả
Lượng tăng trưởng thường xuyên hàng năm về
đường kính thân cây (ZD,cm/năm)
0,42
Lượng tăng trưởng bình quân năm về đường kính
thân cây (ΔD, cm/năm)
0,91
Suất tăng trưởng đường kính thân cây (Pd,%) 1,7
18
3.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Đề tài dự kiến những nội dung nghiên cứu như sau:
1) Đặc điểm khí hậu của khu vực nghiên cứu

2) Đặc điểm vòng năm và chỉ số vòng năm của Tếch
3) Ảnh hưởng của khí hậu đến sinh trưởng của Tếch
3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ không khí đến sinh trưởng của Tếch
3.2. Ảnh hưởng của lượng mưa đến sinh trưởng của Tếch
3.3. Ảnh hưởng của độ ẩm không khí đến sinh trưởng của Tếch
3.4. Ảnh hưởng của số giờ nắng đến sinh trưởng của Tếch
3.5. Ảnh hưởng của hệ số thủy nhiệt đến sinh trưởng của Tếch
3.6. Phản ứng của Tếch đối với tập hợp nhiều yếu tố khí hậu
4) Phân cấp mức độ thuận lợi của khí hậu đối với sinh trưởng của Tếch
5) Một số đề xuất
3.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.5.1. Cơ sở khoa học
Phương pháp nghiên cứu dựa trên ba bước xử lý ảnh hưởng của khí hậu
đến tăng trưởng của Tếch.
Một là, sử dụng phương pháp phân tích tương quan giữa chỉ số tăng
trưởng Tếch với nhiệt độ, lượng mưa, ẩm độ, số giờ nắng và hệ số thủy nhiệt
hàng tháng và mùa. Các biến khí hậu của những tháng thuộc năm trước cũng
được sử dụng để xác định ảnh hưởng của chúng đến tăng trưởng vòng năm
của năm hiện tại. Điều đó là hợp lý, bởi vì sinh trưởng của năm hiện tại cũng
phụ thuộc vào khả năng hấp thu cácbon dioxít và sản phẩm quang hợp của
mùa trước (Fritts, 1976; Waring, 1983)[43; 44].
Hai là, sử dụng phân tích hàm phản hồi để làm giảm thiểu ảnh hưởng
cộng tuyến tính trong các biến đưa vào nghiên cứu. Khi các hệ số của hàm
19
phản hồi tồn tại thực sự (khác zero) thì biến số khí hậu của tháng đó có ảnh
hưởng rõ rệt đến tăng trưởng của Tếch.
Ba là, mô hình hóa quan hệ giữa niên đại chỉ số tăng trưởng của Tếch
với các biến khí hậu bằng hồi quy đa biến. Những biến có ý nghĩa thống kê (P
< 0,05 hoặc 0,01) trong mô hình được xác định bằng phân tích hồi quy từng
bước. Sự phù hợp của mô hình với các số liệu thực tế được kiểm định bằng

thống kê Chi - square. Hồi quy được kiểm định ở bước cuối cùng bao gồm:
(1) kiểm tra bằng đồ thị các sai lệch đối với tự tương quan và những trị ngoại
lai, (2) kiểm định sai lệch chuẩn cho mỗi mẫu để đánh giá các số ngoại lai, (3)
kiểm định giá trị D của Cook để phát hiện những quan sát có ảnh hưởng rõ rệt
đến hồi quy, (4) kiểm định thống kê Durbin - Watson đối với tự tương quan
thứ nhất trong các chuỗi sai lệch hồi quy.
Bốn là, sử dụng kỹ thuật phân tích thành phần biến động để định lượng
mức độ ảnh hưởng của khí hậu và những yếu tố môi trường khác đến tăng
trưởng của Tếch. Nghiên cứu này là cần thiết, bởi vì tăng trưởng hàng năm
của cây gỗ chịu ảnh hưởng không chỉ của khí hậu, mà còn những nhân tố
khác.
Sử dụng bốn bước phân tích như trên là rất cần thiết đối với các nghiên
cứu khí hậu thực vật. Theo Gholz (1982)[Dẫn theo 25], trước hết phân tích
tương quan là bước đầu tiên để khám phá mối quan hệ giữa các chỉ số tăng
trưởng với các biến khí hậu. Nhưng ở bước này chưa có mô hình nào được
thiết lập. Phân tích hàm phản hồi là bước thứ hai. Thủ tục này cho phép loại
trừ bất kỳ hiện tượng cộng tuyến tính nào trong các biến. Do đó, kết qủa nhận
được phản ánh chính xác hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng với các biến khí
hậu. Ngoài ra, kết qủa từ phân tích phản hồi có thể được sử dụng để chứng
minh kết qủa từ phân tích tương quan. Hồi quy đa biến là bước cuối cùng để
mô hình hóa tăng trưởng của Tếch như là một hàm số của khí hậu. Sau đó hồi
20
quy đa biến sẽ được sử dụng để dự đoán điều kiện khí hậu thuận lợi và không
thuận lợi cho sinh trưởng của Tếch.
3.5.2. Thu thập số liệu vòng năm và khí hậu
3.5.2.1. Những chỉ tiêu nghiên cứu
+ Đối với rừng Tếch, đề tài nghiên cứu 6 chỉ tiêu sau đây: (1) mật độ
lâm phần (N, cây/ha), (2) đường kính thân cây ngang ngực (D, cm), (3) chiều
cao toàn thân (H, m), (4) độ tàn che tán rừng, (5) tiết diện ngang lâm phần (G,
m

2
/ha), (6) trữ lượng gỗ của lâm phần (M, m
3
/ha).
+ Đối với cây mẫu, đề tài nghiên cứu 4 chỉ tiêu sau đây: (1) lượng tăng
trưởng thường xuyên hàng năm về đường kính thân cây (ZD, cm/năm), (2)
lượng tăng trưởng bình quân năm về đường kính thân cây (ΔD, cm/năm), (3)
suất tăng trưởng đường kính thân cây (Pd,%).
+ Đối với các yếu tố khí hậu – thủy văn, đề tài nghiên cứu 5 chỉ tiêu
sau đây: (1) nhiệt độ không khí trung bình của các tháng trong năm, (2) lượng
mưa trung bình của các tháng trong năm, (3) độ ẩm không khí trung bình của
các tháng trong năm, (4) số giờ nắng trung bình của các tháng trong năm, (5)
chỉ số thủy nhiệt của các tháng trong năm.
+ Đối với địa hình và đất, đề tài chỉ xem xét dạng địa hình và loại đất.
3.5.2.2. Thu thập những đặc trưng của quần thụ Tếch
Đặc trưng của rừng Tếch ở mỗi khu vực được mô tả tổng quát thông
qua 3 ô tiêu chuẩn điển hình với kích thước 1000m
2
. Nội dung thống kê trong
mỗi ô tiêu chuẩn bao gồm mật độ lâm phần (N, cây/ha), đường kính thân cây
ngang ngực (D, cm), chiều cao toàn thân (H, m), độ tàn che tán rừng, tiết diện
ngang lâm phần (G, m
2
/ha), trữ lượng gỗ của lâm phần (M, m
3
/ha). Đường
kính thân cây ở vị trí ngang ngực được đo đạc bằng thước kẹp kính với độ
chính xác 0,5 cm. Chiều cao thân cây được đo đạc bằng thước Blume-Leiss
với độ chính xác 0,5 m. Độ tàn che tán rừng được mục trắc bằng mắt. Địa
21

hình và đất được xác định dựa theo bản đồ địa hình và bản đồ đất với tỷ lệ
1/25.000.
3.5.2.3. Thu thập mẫu vòng năm của Tếch
+ Chọn cây mẫu. Để xác định mối liên hệ giữa tăng trưởng Tếch với
những yếu tố khí hậu, trước hết cần phải loại trừ những ảnh hưởng của các
yếu tố môi trường khác như địa hình, đất và tuổi cây Địa hình và đất được
loại trừ bằng cách thu thập vòng năm của Tếch trên cùng một dạng địa hình
và loại đất.
Sau khi xác định được đối tượng nghiên cứu, tiến hành mô tả đặc trưng
của rừng, đồng thời chọn những cây mẫu để thu thập mẫu vòng năm. Những
cây mẫu được chọn theo phương pháp điển hình. Tùy theo tình hình thực tế
của đối tượng nghiên cứu, số lượng cây mẫu để nghiên cứu tăng trưởng vòng
năm là 17 cây. Những cây mẫu phải đảm bảo một số tiêu chuẩn như tuổi càng
cao càng tốt, thấp nhất cũng trên 20 năm; sinh trưởng bình thường đến tốt;
thân thẳng và tròn đều; không bị cụt ngọn hay hai thân; tán lá tròn đều; không
bị sâu hại hay cháy
+ Thu thập vòng năm trên thân cây mẫu. Đối với mỗi cây mẫu, vòng
năm được thu thập theo 2 hướng vuông góc với nhau tại vị trí 1,3 m trên thân
cây bằng khoan tăng trưởng. Từ vòng năm của hai hướng khoan khác nhau,
xác định vòng năm trung bình của cây mẫu. Để chống co rút và cong vênh,
các mẫu gỗ được bảo quản trong ống plastic.
3.5.2.4. Thu thập tài liệu khí hậu
Chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm nhiệt độ không khí, lượng mưa, độ ẩm
không khí và số giờ nắng của 12 tháng trong năm. Chuỗi khí hậu được thu
thập ít nhất là 25 năm tại trạm khí tượng - thủy văn Định Quán.
22
3.5.3. Phương pháp xử lý số liệu
3.5.3.1. Tính toán và tổng hợp đặc trưng của rừng Tếch
Trước hết, tập hợp những số liệu điều tra trên những ô tiêu chuẩn đại
diện cho nơi thu mẫu vòng năm. Kế đến, tính những đặc trưng lâm phần như

mật độ, tiết diện ngang thân cây, trữ lượng gỗ…
3.5.3.2. Tính những đặc trưng khí hậu
Trước hết, tập hợp chuỗi số liệu khí hậu theo năm lịch. Kế đến tính
những đặc trưng thống kê mô tả như trung bình, lớn nhất, nhỏ nhất, phương
sai, sai tiêu chuẩn, hệ số biến động…Tiếp theo xây dựng biểu đồ Gaussen –
Walter để mô tả tổng quát khí hậu ở khu vực nghiên cứu. Cuối cùng tổng
hợp, thuyết minh và so sánh những đặc trưng khí hậu của ba khu vực nghiên
cứu. Đây là cơ sở để giải thích mối liên hệ giữa sinh trưởng của Tếch với
những biến động của khí hậu.
3.5.3.3. Xác định những đặc trưng của bề rộng vòng năm và chỉ số vòng
năm
Trình tự xử lý số liệu như sau:
+ Bước 1: Xử lý mẫu gỗ để đo đạc vòng năm. Trước khi đo đạc bề
rộng các vòng năm, các mẫu gỗ được xử lý bằng giấy nhám mịn. Sau đó thực
hiện đối chiếu thời gian để xác định các vòng năm tương ứng với các năm
lịch, bắt đầu từ vòng năm ngoài cùng gần nhất với năm nghiên cứu (2011-
2012). Bề rộng vòng năm được đo lặp lại 3 lần bằng kính lúp với độ chính xác
đến 0,10mm. Kết quả cuối cùng được lấy trung bình từ ba lần đo.
+ Bước 2: Biến đổi số liệu vòng năm. Để nhận được kết quả nghiên
cứu đáng tin cậy, trước hết loại bỏ một số vòng năm ở trung tâm lõi gỗ và
vòng năm ở ngoài cùng (tương ứng với năm lịch 2011-2012). Sở dĩ phải loại
bỏ những vòng năm này là vì, những vòng năm gần ruột gỗ rất nhỏ, còn một
số vòng năm ngoài cùng phát triển chưa hoàn chỉnh hoặc bị biến dạng do ảnh
23
hưởng của khoan tăng trưởng.
+ Bước 3: Tính những đặc trưng bề rộng vòng năm của những cây
mẫu. Những đặc trưng thống kê cơ bản của chuỗi bề rộng vòng năm được mô
tả bằng những tham số thống kê như giá trị trung bình (
X
), giá trị lớn nhất

(Max), giá trị nhỏ nhất (Min), phương sai (S
2
), sai tiêu chuẩn (S), sai số chuẩn
của số trung bình (S
e
), hệ số biến động (V%).
Ngoài ra, đặc trưng thống kê vòng năm còn bao gồm:
+ Hệ số tự tương quan thứ nhất. Đó là tương quan giữa bề rộng vòng
năm của năm hiện tại t và bề rộng vòng năm của năm trước (năm t – 1). Chỉ
tiêu này dùng để thuyết minh ảnh hưởng của tuổi đến tăng trưởng các vòng
năm.
+ Tính nhạy cảm trung bình (ms
x
). Chỉ tiêu này đo đạc sự khác biệt
tương đối trong bề rộng vòng năm từ năm này đến năm khác. Tính nhạy cảm
trung bình được tính theo công thức:
ms
x
=

(3.1)
trong đó X
t
là bề rộng vòng năm của năm t, X
t+1
là bề rộng vòng năm của năm
t+1, n là số vòng năm nghiên cứu, dấu gạch đứng biểu thị giá trị tuyệt đối. Giá
trị của tính nhạy cảm trung bình thay đổi từ 0 đến 2.
Để làm rõ quy luật biến đổi bề rộng vòng năm theo tuổi cây, dự kiến
mô tả biến động bề rộng vòng năm theo năm lịch bằng hàm số mũ có dạng

Y
t
= a*exp(-b*t) + k (3.2)
trong đó a, b và k là các hệ số, e là cơ số logarít tự nhiên, Y
t
là lượng
tăng trưởng vòng năm kỳ vọng ở năm t. Các hệ số a, b và k thay đổi tùy thuộc
vào đặc điểm của từng chuỗi vòng năm. Giá trị t thay đổi từ 1 đến n năm.
Sau đó, bằng cách so sánh bề rộng vòng năm thực tế với bề rộng vòng
năm lý thuyết được tính theo hàm 3.1, có thể xác định được biến động vòng
năm do ảnh hưởng của những yếu tố khác không thuộc tuổi cây.
24
+ Bước 4. Tính những đặc trưng chỉ số bề rộng vòng năm. Bề rộng của
lớp vòng năm biến động tùy thuộc vào tuổi cây, hướng khoan trên thân cây, vị
trí cây trong quần xã, lập địa, tình trạng tăng trưởng của rừng và những tác
động khác (lửa, sâu bệnh, biện pháp lâm sinh…). Vì thế, để loại trừ ảnh
hưởng của tuổi cây và các yếu tố khác, đã biến đổi bề rộng vòng năm thành
chỉ số tăng trưởng bề rộng vòng năm. Tùy theo đặc tính vòng năm ở những
hướng khoan và cây mẫu khác nhau, chỉ số vòng năm được tính theo hai
phương pháp sau đây:
+ Phương pháp thứ nhất. Trước hết, mô tả khuynh hướng biến đổi bề
rộng vòng năm theo tuổi bằng hàm số mũ có dạng như hàm 3.2.
Kế đến, tính chỉ số vòng năm bằng cách chia bề rộng vòng năm thực tế
(Id
tn
, mm) cho bề rộng vòng năm lý thuyết (Y
t
, mm), nghĩa là
Id
lt

= (3.3)
+ Phương pháp thứ hai. Chỉ số vòng năm được tính theo phương pháp
bình quân trượt k năm, với k = 3, 5, 7, 13 năm. Khi tính bình quân trượt 3
năm, tất cả các số liệu về dãy vòng năm được tính theo công thức:
H
3I
= (3.4)
trong đó, H
3i
là dãy biến động vòng năm được tính bình quân trượt 3 năm với
bước nhảy 1 năm; Xi

- bề rộng vòng năm ở năm thứ i.
+ Bước 5: Xây dựng chuỗi niên đại chỉ số bề rộng vòng năm của Tếch.
Trình tự xây dựng chuỗi niên đại chỉ số bề rộng vòng năm của loài Tếch như
sau:
Trước hết, tập hợp và xây dựng chuỗi niên đại chỉ số bề rộng vòng năm
trung bình cho cây mẫu. Để đạt mục đích này, đầu tiên kiểm định tính tương
đồng giữa chỉ số bề rộng vòng năm trên những hướng khoan khác nhau của
một cây mẫu bằng hệ số tương quan hạng của Spearman. Nếu chỉ số bề rộng
vòng năm trên những hướng khoan khác nhau không có sự tương đồng với
25

×