Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Học thuyết kinh tế của John Maynard Keynes và ứng dụng học thuyết kinh tế Keynes vào thực tiễn Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.98 KB, 16 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU:
Trong bối cảnh khủng hoảng và suy giảm kinh tế toàn cầu , hầu hết các nước phát triển
trên thế giới trong đó có Việt Nam luôn đi tìm một lý thuyết kinh tế để giải quyết và đưa
ra những giải pháp hợp lý nhất để vượt qua khủng hoảng. Một trong các học thuyết nổi
tiếng ấy, có thể kể đến học thuyết kinh tế nổi tiếng của John Maynard Keynes, hơn lúc
nào hết học thuyết Keynes lại càng được đề cập và ứng dụng nhiều nhất. Trong bài tiểu
luận này chúng ta sẽ đề cập và tìm hiểu: “ Học thuyết kinh tế của John Maynard
Keynes và ứng dụng học thuyết kinh tế Keynes vào thực tiễn Việt Nam hiện nay như
thế nào”
II. HỌC THUYẾT KEYNES:
1) Hoàn cảnh ra đời của học thuyết Keynes, thân thế và sự nghiệp của J.M.
Keynes:
1.1 Thân thế và sự nghiệp của J.M.Keynes:
John Maynard Keynes (1883-1946) là một nhà kinh tế học người Anh; ông học kinh tế tại
Đại học Cambridge. Keynes đã từng vô cùng say mê toán học và lịch sử, nhưng cuối
cùng ông đã chuyển sự yêu thích sang Kinh tế học do sự thuyết phục của một trong
những giáo sư giảng dạy ông, nhà kinh tế học nổi tiếng Alfred Marshall (1842-1924). Sau
khi tốt nghiệp Cambridge, ông đã làm việc tại rất nhiều vị trí trong Chính phủ, tập trung
vào việc áp dụng kinh tế học để giải quyết các vấn đề của thế giới thực. Ông rất được coi
trọng trong Chiến tranh Thế giới I và đã được giao chức vụ là nhà cố vấn trong các cuộc
hội thảo chuẩn bị cho Hiệp ước Versailles. .
Năm 1944 ông đã dẫn đầu đoàn đại biểu Anh đến Mỹ tham dự hội nghị tài chính tiền tệ
quốc tế tổ chức tại thành phố Forest, trong hội nghị này ông đã có tác dụng rất quan
trọng, ông đã tích cực vạch kế hoạch thành lập hai tổ chức là tổ chức quỹ tiền tệ quốc tế
và Ngân hàng thế giới về tái thiết và phát triển do ông làm thống đốc.
Tuy nhiên, chính cuốn sách được xuất bản vào năm 1936 “Lý thuyết về thất nghiệp, lãi
suất và tiền tệ” đã đặt nền móng cho di sản Thế giới của ông: Kinh tế học Keynes.
1.2 Hoàn cảnh ra đời của học thuyết Keynes:
Thời gian: Xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX và thống trị đến những năm 70 của
thế kỉ XX.
Về kinh tế - xã hội ở các nước tư bản: Ở các nước phương Tây khủng hoảng kinh tế, thất


nghiệp thường xuyên, nghiêm trọng (điển hình là cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933)
đã chứng tỏ các lý thuyết ủng hộ tự do kinh doanh (tự điều tiết, “bàn tay vô hình”, lý
thuyết “cân bằng tổng quát”) của trường phái cổ điển và phát triển lành mạnh. Chủ nghĩa
tư bản phát triển với lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi sự can thiệp của cổ điển
mới không còn sức thuyết phục, tỏ ra kém hiệu nghiệm, không đảm bảo cho nền kinh tế
Nhà nước vào kinh tế (chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước). Sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội (phát triển hưng thịnh đến những năm 70 của thế kỉ XX): Lúc đầu sự thành
công của nền kinh tế kế hoạch hóa thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế tư sản
Tóm lại: tình hình kinh tế xã hội ở các nước tư bản và trên thế giới yêu cầu một lý thuyết
kinh tế mới có khả năng thích ứng với tình hình mới bảo vệ, duy trì và phát triển chủ
nghĩa tư bản và học thuyết của Keynes đáp ứng được, đó là lý thuyết kinh tế về chủ nghĩa
tư bản có điều tiết.
2) Các học thuyết kinh tế của Keynes:
2.1 Lý thuyết chung về việc làm
Theo Keynes: Việc làm không chỉ xác định tình hình thị trường lao động, sự vận động
của thất nghiệp mà còn bao gồm cả tình trạng sản xuất, khối lượng sản phẩm, quy mô thu
nhập. Việc làm cụ thể hóa tình trạng nền kinh tế, cơ sở cho việc điều tiết nền kinh tế.
Khái quát lý thuyết việc làm: Việc làm tăng thì thu nhập thực tế tăng, do đó tiêu dùng
tăng (tâm lý chung) nhưng tốc độ tăng tiêu dùng chậm vì khuynh hướng tiết kiệm một
phần thu nhập tăng thêm. Do đó cầu giảm tương đối (so với sản xuất), cản trở việc mở
rộng đầu tư của nhà tư bản. Nhà kinh doanh sẽ thua lỗ nếu sử dụng toàn bộ lao động tăng
thêm để thỏa mãn số cầu tiêu dùng tăng (“Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn”).
Để khắc phục: phải có một khối lượng đầu tư nhằm kích thích quần chúng tiêu dùng phần
tiết kiệm của họ. Việc mở rộng đầu tư của các nhà tư bản còn phụ thuộc vào “hiệu quả
giới hạn của tư bản”
2.2 Các phạm trù cơ bản trong lý thuyết việc làm
2.2.1 Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn:
Là khuynh hướng cá nhân phân chia phần thu nhập tăng thêm cho tiêu dùng theo tỷ lệ
ngày càng giảm dần. Đây là quy luật tâm lý của mọi cộng đồng tiêu tiền, nó là nguyên
nhân của sự giảm sút tương đối cầu tiêu dùng dẫn đến sản xuất trì trệ, khủng hoảng kinh

tế và thất nghiệp.
Theo Keynes: khuynh hướng tiêu dùng giới hạn là một tương quan hàm số giữa thu nhập
và chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập đó (C): C = X (R)
Có 3 nhân tố ảnh hưởng đến khuynh hướng này là:
Thứ nhất, thu nhập (R): thu nhập tăng thì tiêu dùng tăng và ngược lại.
Thứ hai, các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến thu nhập (thay đổi tiền công danh nghĩa,
cho một lao động, lãi suất, thuế khóa, ).
Thứ ba, những nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu dùng. Có thể chia
làm 2 nhóm như sau:
• Nhóm làm tăng tiết kiệm (lập khoản dự phòng rủi ro, đẻ dành cho tuổi già, cho
việc học tập của con cái và bản thân, xây dựng tài sản, thậm chí thỏa mãn tính
hà tiện đơn thuần) có thể khái quát thành sự thận trọng, nhìn xa, tính toán, tham
vọng, tự lập, kinh doanh, kiêu hãnh và hà tiện, điều này làm giảm tiêu dùng.
• Nhóm thứ hai làm giảm tiết kiệm tăng tiêu dùng (thích hưởng thụ, thiển cận, hào
phóng, phô trương, xa hoa, ).
Bốn loại động lực là: tiết kiệm kinh doanh (bảo đảm nguồn tài chính để thực hiện cuộc
đầu tư mới mà không mắc nợ) - Tiền mặt (bảo đảm nguồn tiền mặt để đối phó với những
bất trắc xảy ra - Cải tiến (bảo đảm tăng thu nhập nhờ hiệu suất) và động lực thận trọng về
tài chính (bảo đảm quỹ dự trữ tài chính).
Biểu thị khuynh hướng tiêu dùng giới hạn (KHTDGH) (toán học): Kí hiệu: KHTDGH =
dC / dR . Trong đó: C là chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập, dC là gia tăng tiêu
dùng, R là Thu nhập, dR là gia tăng thu nhập.
2.2.2 Hiệu quả giới hạn của tư bản
Theo Keynes, mục đích của các doanh nhân khi đầu tư là bán có “thu hoạch tương lai”.
Đó là chênh lệch giữa số tiền bán hàng với phí tổn cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.
Tương quan giữa “thu hoạch tương lai” và phí tổn cần thiết để sản xuất hàng hóa đó gọi
là hiệu quả của tư bản. Cùng với sự tăng lên của vốn đầu tư thì hiệu quả của tư bản giảm
dần và Keynes gọi đó là hiệu quả giới hạn của tư bản
Có hai nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là:
Thứ nhất là, đầu tư tăng làm cho khối lượng hàng hóa tăng dẫn đến giá cả hàng hóa sản

xuất thêm giảm.
Thứ hai là, cung về hàng hóa tăng (sản xuất tăng) làm cho giá cung tổng số tư bản tăng.
Từ đó làm cho phí tổn sản xuất tăng và “thu hoạch tương lai” giảm vì thế hiệu quả tư bản
giảm. Như vậy tăng đầu tư sẽ dẫn đến làm giảm hiệu quả giới hạn của tư bản.
Đường biểu diễn mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư và hiệu quả giới hạn tư bản gọi là
“đường cong đầu tư” hay “đường cong hiệu quả giới hạn của tư bản” (xem đồ thị).
2.2.3 Lãi suất:
Là phần trả công cho sự chia ly của cải tiền tệ (Số tiền trả cho việc không sử dụng tiền
mặt trong một khoảng thời gian nhất định). Không phải cho tiết kiệm hay nhịn ăn tiêu (vì
khi tích trữ tiền mặt dù rất nhiều cũng không nhận được khoản trả công nào cả).
Lãi suất chịu ảnh hưởng của hai nhân tố là: khối lượng tiền trong tiêu dùng (tỉ lệ nghịch)
và sự ưa chuộng tiền mặt (tỉ lệ thuận). Đây là điểm quan trọng để Keynes đưa ra chính
sách điều chỉnh kinh tế của Nhà nước (tăng hiệu quả giới hạn tư bản và giảm lãi suất). Sự
ưa chuộng tiền mặt là khuynh hướng có tính chất hàm số, biều diễn dưới dạng hàm số:
M = M1 + M2 = L1(R) + L2(r) (Hàm số của lãi suất)
M: Sự ưa chuộng TM
M1: Số TM dùng cho động lực giao dịch và dự phòng
M2: Số TM dùng cho động lực đầu cơ
L1: Hàm số TM xác định M1 tương ứng với thu nhập R
L2: Hàm số TM xác định M2 tương ứng với lãi suất r
Thu nhập (R) cũng phụ thuộc 1 phần vào r ⇒ M1 cũng phụ thuộc r. Vì vậy sự ưa chuộng
tiền mặt là HS của lãi suất (r).
2.2.4 Số nhân đầu tư:
Là mối quan hệ giữa gia tăng thu nhập (dR) với gia tăng đầu tư (dI). Nó xác định sự gia
tăng đầu tư sẽ làm gia tăng thu nhập lên bao nhiêu lần (là hệ số bằng số nói lên mức độ
tăng của sản lượng do kết quả của mỗi đơn vị đầu tư).
Cụ thể ta có:
C là chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập và dC là gia tăng tiêu dùng
R là Thu nhập và dR là gia tăng thu nhập
I là đầu tư và dI là gia tăng đầu tư

S là tiết kiệm và dS là gia tăng tiết kiệm.
Khi đó ta sẽ có công thức sau:
Từ đó công thức tính sự gia tăng sản lượng do đầu tư thêm là:
Q = R = C + I
d Q = d R = K. (dC + dI)
(Q là sản lượng và dQ là sự gia tăng sản lượng)
K là số nhân
Theo Keynes: Mỗi sự gia tăng đầu tư kéo theo sự gia tăng cầu về tư liệu sản xuất và sức
lao động, kích thích sản xuất phát triển, tăng thu nhập (tăng sản lượng) và đến lượt nó thu
nhập tăng lại làm tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới. Vì thế số nhân làm cho thu nhập
phóng đại lên nhiều lần.
II.3 Lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế:
(Tư tưởng trung tâm là đưa ra những giải pháp kích thích tiêu dùng và đầu tư). Nội dung
chủ yếu của lý thuyết là:
Nhà nước phải duy trì cầu đầu tư để kích thích cả đầu tư Nhà nước và tư nhân bằng các
chương trình đầu tư lớn (sự tham gia của nhà nước vào kinh tế là cần thiết, không thể dựa
vào cơ chế thị trường tự điều tiết).
Sử dụng hệ thống tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ làm công cụ làm công cụ chủ
yếu để điều tiết kinh tế thông qua hai hướng: vừa củng cố lòng tin và sự lạc quan của
doanh nhân, vừa bảo đảm bù đắp thâm hụt ngân sách.
Thực hiện “lạm phát kiểm soát” để tăng giá cả hàng hóa, tăng mức lưu thông tiền tệ để
giảm lãi suất cho vay, in tiền giấy trợ cấp thâm hụt ngân sách Nhà nước, sử dụng công cụ
thuế điều tiết kinh tế.
Khuyến khích mọi hình thức đầu tư (để tạo việc làm và tăng thu nhập).Thậm chí kể cả
đầu tư cho chiến tranh. Khuyến khích tiêu dùng của mọi loại người (tăng tổng cầu). Đặc
biệt khuyến khích tiêu dùng xa hoa của các tầng lớp giàu có.
Học thuyết Keynes được vận dụng rộng rãi trong thời gian dài ở các nước tư bản và có
những biến thể khác nhau – Là cơ sở cho chính sách kinh tế của nhiều nước tư bản.
Kết luận:
Nội dung cơ bản của lí thuyết chung về việc làm của Keynes là:

Với sự tăng thêm của việc làm sẽ tăng thu nhập, do đó tăng tiêu dùng.
Song do khuynh hướng tiêu dùng giới hạn nên tiêu dùng tăng chậm hơn tăng thu
nhập,còn tiết kiệm tăng nhanh. Điều đó làm giảm tương đối dần đến giảm cầu có hiệu
quả và ảnh hưởng đến sản xuất và việc làm.
Để tăng cầu có hiệu quả phải tăng chi phí đầu tư, tăng tiêu dùng sản xuất. Song do hiệu
quả giới hạn của tư bản giảm sút (với lãi suất tương đối ổn định) nên giới hạn đầu tư chật
hẹp không kích thích được doanh nhân đầu tư.
Để khắc phục: nhà nước phải có một chương trình đầu tư quy mô lớn để thu hút số tư
bản nhàn rỗi và lao động thất nghiệp. Số người này khi có thu nhập sẽ tham gia vào thị
trường sản phẩm làm cầu hàng hóa tăng do đó hiệu quả giới hạn của tư bản tăng. Khi đó
doanh nhân sẽ tăng đầu tư và sản xuất tăng (theo mô hình số nhân). Khủng hoảng và thất
nghiệp sẽ được ngăn chặn.
2.4 Đánh giá chung
2.4.1 Thành tựu
Học thuyết kinh tế của Keynes đã có tác dụng tích cực nhất định đối với sự phát triển
kinh tế trong các nước tư bản. Góp phần thúc đấy kinh tế của các nước tư bản phát triển,
hạn chế được khủng hạn và thất nghiệp, nhất là trong những năm 50-60 của thế kỷ XX,
tốc độ phát triển kinh tế của nhiều nước rất cao (tạo nên những thần kì: Nhật, Tây Đức,
Thụy Sĩ, Pháp…). Vì vậy học thuyết này giữ vị trí thống trị trong hệ thống tư tưởng kinh
tế tư sản trong một thời gian dài
2.4.2 Hạn chế
Mặc dù vậy, học thuyết kinh tế trường phái Keynes còn nhiều hạn chế, đó là:
Mục đích chống khủng hoảng và thất nghiệp chưa làm được (chỉ tác dụng tạm thời) biểu
hiện:
+ Thất nghiệp vẫn duy trì ở mức cao
+ Khủng hoảng không trầm trọng như trước nhưng vẫn xảy ra thường xuyên, thời
gian giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế ngắn hơn.
Ý đồ dùng lãi suất để điều chỉnh chu kì kinh tế tư bản chủ nghĩa không có hiệu quả, biểu
hiện: Chính sách lạm phát có kiểm soát làm cho lạm phát càng trầm trọng, tác hại lớn hơn
cái lợi nó mang lại.

Quá coi nhẹ cơ chế thị trường
Phương pháp luận thiếu khoa học, đã xuất phát từ tâm lý con người để giải thích nguyên
nhân kinh tế. Chỉ tập trung vào các vấn đề mang tính chất ngắn hạn, ít chú trọng tới tầm
quan trọng của khuyến khích đối với tăng trưởng kinh tế dài hạn.
III. ÁP DỤNG HỌC THUYẾT KEYNES VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY:
Trước hết, cần khẳng định quan điểm về mô hình phát triển kinh tế ở nước ta đã được xác
định qua các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là “phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước
ta là hết sức quan trọng, qua đó để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường và để đảm bảo
tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở vận dụng học thuyết Keynes và những lý luận kinh tế mới nhất về kinh tế thị
trường hiện đại ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nhà nước cần thiết phải tích
cực và chủ động tác động vào nền kinh tế, qua đó để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh
tế tăng trưởng và phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế
tài chính thế giới đang tác động tiêu cực tới nước ta thì vai trò đó càng trở nên cấp thiết.
Các công cụ và chính sách kinh tế chủ yếu mà Nhà nước hoàn toàn có thể sử dụng và tác
động vào nền kinh tế là:
1) Kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong một số ngành kinh tế nhất định:
Xây dựng bộ phận kinh tế Nhà nước vững mạnh và hoạt động có hiệu quả. Kinh tế Nhà
nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu Nhà nước về vốn, các nguồn lực tài nguyên
thiên nhiên và về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước; các
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển và các tài nguyên khác;
các nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước khác như: ngân sách, các quỹ dự trữ, hệ thống
ngân hàng Nhà nước, hệ thống bảo hiểm, các công trình thuộc về kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội và phần vốn góp của Nhà nước vào các loại hình kinh doanh khác nhau.
Như vậy, kinh tế Nhà nước bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, trong đó doanh nghiệp
Nhà nước là một trong những bộ phận nòng cốt, vì đây là bộ phận chiếm giữ một phần
lớn tài sản của nền kinh tế và tạo ra khoảng trên 1/3 tổng sản phẩm xã hội (GDP) và là

một lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước tác động tới nền kinh tế quốc dân. Trong
quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa thì kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường phải được thể hiện trên hai mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, kinh tế Nhà nước phải nắm giữ và chi phối được các vị trí, các lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế quốc dân - đó là hệ thống tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, các cơ
sở sản xuất và kinh doanh dịch vụ quan trọng trong các ngành của nền kinh tế quốc dân,
những vị trí và lĩnh vực trọng yếu thuộc về kết cấu hạ tầng Kinh tế - Xã hội… Qua đó, để
có thể đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, tác động tới tổng cung và tổng cầu, đảm
bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, bộ phận kinh tế Nhà nước phải chuyển mạnh sang cơ chế kinh tế thị trường, đảm
bảo thực hiện kinh doanh với mục tiêu năng suất, chất lượng và hiệu quả. Có như vậy
mới lôi cuốn và chi phối được các thành phần kinh tế khác, thúc đẩy quá trình tăng
trưởng nhanh và bền vững.
Để phát huy được vai trò chủ đạo trên, các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay ở nước ta
đang trong quá trình đổi mới và sắp xếp lại, thông qua một loạt các biện pháp như: giải
thể, sát nhập các xí nghiệp làm ăn thua lỗ và kém hiệu quả; tiến hành cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước; sắp xếp lại các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con,
tiến tới hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh. Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp
Nhà nước, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản
xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích… Thúc đẩy
việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần
của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư…,
trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối
2) Sử dụng công cụ tài chính và chính sách tài khóa
Chính sách tài khoá là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu công cộng để điều
tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế và do đó tác động đến tổng cung và tổng cầu của
nền kinh tế. Học thuyết Keynes cũng đã chỉ ra tầm quan trọng của công cụ tài chính và
các nước có nền kinh tế thị trường đều vận dụng công cụ đó ở những mức độ khác nhau.

Tất nhiên, ở nước ta cũng không là ngoại lệ, nền tài chính ở nước ta là nền tài chính phục
vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chính sách
tài chính là chính sách huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính để phục vụ cho các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu chung của chính sách tài khoá hiện nay ở
nước ta là:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Vì vậy, chính sách tài khoá phải
hướng tới việc thúc đẩy tiết kiệm và tăng đầu tư trong cả hai khu vực tư nhân và
Nhà nước. Trong học thuyết Keynes, đầu tư (I) và tiết kiệm (S) là hai đại lượng
kinh tế vĩ mô quan trọng và trong trạng thái cân bằng vĩ mô khi I = S. Vì vậy, theo
Keynes, cần phải khuyến khích các dòng tiết kiệm đầu tư vào sản xuất kinh doanh
để kích thích kinh tế.
- Đảm bảo việc làm trong xã hội và giảm thất nghiệp. Hiện nay sức ép về việc làm
ngày càng gia tăng, vì vậy giải quyết việc làm là một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan
trọng của chính sách tài khoá.
- Ổn định giá cả và tiền tệ, chống nguy cơ lạm phát.
- Thực hiện công bằng xã hội, thông qua việc điều tiết thu nhập và đây là mục tiêu
quan trọng nhằm hướng tới mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
3) Sử dụng công cụ tiền tệ và chính sách tiền tệ của Chính phủ :
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường làm cho vai trò của hệ thống
ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng, điều đó buộc các Chính phủ phải nắm lấy các
công cụ tiền tệ, hệ thống ngân hàng thực thi chính sách tiền tệ nhằm tác động tới nền kinh
tế. Các công cụ của chính sách tiền tệ mà ngân hàng Trung ương sử dụng là:
- Hoạt động của thị trường mở. Thị trường mở là thị trường tiền tệ của ngân hàng
Trung ương, được sử dụng để mua hoặc bán trái phiếu Chính phủ - thông qua đó
ngân hàng có thể điều tiết mức cung ứng tiền tệ, tác động tới tổng cung và tổng
cầu của nền kinh tế.
- Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại. Thông qua đó
để đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, cũng qua đó để điều
tiết mức cung tiền tệ.
- Công cụ lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của ngân hàng

Trung ương khi họ cho các ngân hàng thương mại vay tiền, qua đó để tác động tới
mức cung ứng tiền tệ.
Đối với nước ta hiện nay, chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết vĩ mô hết sức quan trọng,
vai trò của nó ngày càng tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và
tổng quy mô tín dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là một công cụ quan trọng, là
phương tiện để điều tiết mức cung, cầu về tiền tệ; thắt chặt hay nới lỏng lượng cung ứng
tiền tệ và do đó kiềm chế lạm phát. Thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng nó sẽ
có tác động trực tiếp đến nền kinh tế, mục tiêu của chính sách tiền tệ là: ổn định tiền tệ,
kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn của hệ
thống ngân hàng và tổ chức tín dụng.
4)Tình hình thực tế tại Việt Nam từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008
và giải pháp đã sử dụng:
Như chúng ta đều biết, từ tháng 9/2008 cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ đã
nhanh chóng lan sang hầu hết các nước và mang tính chất toàn cầu, nước ta cũng đang
chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính mang tính chất toàn thế giới đó.
Đối với nước ta, năm 2006 tăng trưởng kinh tế đạt 8.2%, năm 2007 đạt 8.5% năm 2008
giảm xuống còn 6.23%, dự kiến năm 2009 chỉ đạt 5%. Như vậy là, cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đã và đang tác động mạnh tới nền kinh tế nước ta, hầu hết các ngành sản
xuất và dịch vụ trong nước đều bị giảm sút, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp. Xuất khẩu
giảm liên tục trong 4 tháng cuối năm 2008: từ 6.55 tỷ USD (tháng 7) xuống còn 4.8 tỷ
USD (tháng 11) và 4.9 tỷ USD (tháng 12/2008); giá nhiều mặt hàng xuất khẩu giảm
mạnh từ 20 - 40% so với tháng 9.
Trước thực trạng kinh tế khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, thị trường xuất
khẩu thu hẹp, nhiều doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, công nhân mất việc làm. Ngay từ
những ngày đầu năm 2009, Chính phủ đã cho tiến hành triển khai một số chính sách và
giải pháp quan trọng nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo
an sinh xã hội. Trong đó, có những giải pháp quan trọng là: huy động mọi nguồn lực
trong xã hội để kích cầu đầu tư và tiêu dùng; thực hiện các chính sách tiền tệ và tài chính
tích cực, hiệu quả để tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và xuất khẩu; hỗ

trợ doanh nghiệp và người lao động để đảm bảo sản xuất, giải quyết việc làm. Trong bối
cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng và các doanh
nghiệp, thất nghiệp tăng mạnh…
Nhiều nước trên thế giới đã đưa ra các gói kích cầu hàng trăm tỷ USD. Đối với nước ta,
từ đầu năm đến nay Chính phủ cũng đưa ra hai gói cứu trợ kinh tế để kích cầu đầu tư và
cầu tiêu dùng. Theo đó hỗ trợ 4% lãi suất cho vay ngắn hạn (không quá 12 tháng) với gói
kích cầu 17000 tỷ đồng (khoảng 1 tỷ USD) cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để vay vốn
lưu động nhằm đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và duy trì việc làm. Đồng thời, cũng bắt
đầu từ quý 2 (năm 2009), Chính phủ cũng đưa ra gói kích cầu thứ 2 về hỗ trợ lãi suất 4%
cho vay trung và dài hạn (không quá 24 tháng).
Trong điều kiện kinh tế thế giới khủng hoảng và suy thoái, thị trường bên ngoài bị thu
hẹp, các nước thường đưa ra hai biện pháp đối phó là: kích cầu sản xuất, cầu tiêu dùng và
bảo hộ sản xuất trong nước. Đối với nước ta, để kích cầu và ngăn chặn suy giảm kinh tế
cần hướng vào các giải pháp sau:
+ Thứ nhất, để kích cầu tiêu dùng thì cần thiết phải thực hiện đồng bộ các giải
pháp như: giảm mạnh giá hàng tiêu dùng, điều chỉnh tăng lương, giảm thuế thu
nhập cá nhân và doanh nghiệp, tăng cho vay tiêu dùng. Đồng thời, thực hiện giãn,
khoanh nợ, và tăng các khoản hỗ trợ an sinh xã hội, nhất là trợ cấp cho người
nghèo, tiến tới thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ học phí, viện phí… với
phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Khuyến khích các hoạt động
chuyển đổi nghề nghiệp và triển khai các chương trình đào tạo nghề và tạo việc
làm mới…
+Thứ hai, kích cầu đầu tư: tăng đầu tư không chỉ làm tăng GDP mà còn tạo thêm
nhiều việc làm và tăng thu nhập. Đầu tư bao gồm cả đầu tư tư nhân và đầu tư Nhà nước.
Ở nước ta hiện nay, đầu tư tư nhân chiếm khoảng 33% tổng vốn đầu tư xã hội và đang có
xu hướng tăng lên; trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay thì đầu tư Nhà nước có vai trò
quan trọng để dẫn dắt, kích thích, tạo tiền đề và hiệu ứng lan toả cho đầu tư của các thành
phần kinh tế khác. Vì vậy, vốn đầu tư từ ngân sách, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA
sẽ chủ yếu để đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng tạo thuận lợi cho sản xuất và lưu
thông hàng hoá; còn đối với đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, các tập đoàn và tổng

công ty phải hướng vào các dự án công nghệ hiện đại, phát triển công nghiệp phụ trợ, tạo
ra các sản phẩm có sức cạnh tranh cao và có giá trị gia tăng lớn, các dự án thu hút nhiều
việc làm để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để hỗ trợ cho đầu tư sản xuất kinh doanh và kích cầu đầu tư, Chính phủ đã thực hiện
nhiều giải pháp quan trọng trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nhằm giúp doanh nghiệp nâng
cao hiệu quả sản xuất, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh hàng hoá và dịch vụ, ví dụ như:
giảm và hoãn thời hạn nộp thuế, hỗ trợ lãi suất và thực hiện bảo lãnh tín dụng, điều chỉnh
tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu thị trường tạo thuận lợi cho xuất khẩu…
Như vậy, ở đây các chính sách về tài chính và tiền tệ có vai trò hết sức quan trọng trong
việc kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng, qua đó để nâng cao tổng cầu, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và tăng thu nhập.
IV. KẾT LUẬN:
Qua phân tích, chúng ta thấy được những điểm tiến bộ mà học thuyết Keynes đã mang lại
những điểm nổi bật trong kinh tế học:
Thứ nhất, tiến hành một cuộc “ cách mạng về nhận thức đối với chủ nghĩa tư bản”. Ông
thừa nhận các khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản như thất nghiệp không tự nguyện, khủng
hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, về mặt lý luận, Keynes đã điều chỉnh kinh tế học truyền thống, xây dựng hệ
thống lý luận mới; dùng thuyết nhà nước can thiệp vào kinh tế thay cho thuyết tự do kinh
doanh
Thứ ba, về mặt chính sách, Keynes phủ định chính sách kinh tế tự do thả nổi của chủ
nghĩa tư bản, không cần có sự can thiệp của Nhà nước.
Thứ tư, về phương pháp tích, Keynes đã mở ra phương pháp phân tích vĩ mô hiện đại,
ông lại xuất phát từ toàn bộ hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu các
tổng lượng kinh tế như tổng cầu, tổng cung, tổng đầu tư, tổng việc làm, tổng thu nhập và
tìm ra mối liên hệ giữa các tổng lượng kinh tế.
Cuộc cách mạng của Keynes đáp ứng yêu cầu thực tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền,
thoát ra khỏi lý luận truyền thống lấy tự do thả nổi làm nội dung phân tích sự cân bằng,
xây dụng học thuyết kinh tế mới mà tư tưởng trung tâm của nó là sự can thiệp của chính
phủ vào kinh tế mới và tìm mọi biện pháp nâng cao tổng cầu để giải quyết việc làm nhằm

giúp chủ nghĩa tư bản thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tránh khỏi sự sụp đổ hoàn toàn.
Tuy nhiên, việc can thiệp của chính phủ vào kinh tế nên tránh lạm dụng những can thiệp
lớn, việc sử dụng quá nhiều và thường xuyên chính sách vĩ mô có thể trở thành một thói
quen khó bỏ, hoặc tạo một ý thức rằng can thiệp là chuyện tất yếu. Cần phải lưu ý rằng
việc sử dụng một công cụ vĩ mô luôn đòi hỏi sự huy động nguồn lực lớn thông qua nhà
nước (chẳng hạn chính sách mở rộng chi tiêu của chính phủ) hoặc sự bóp méo một số tín
hiệu quan trọng nhất của thị trường (ví dụ tăng hay giảm lãi suất). Điều này thường giúp
đạt được một số mục tiêu ngắn hạn, nhưng lại có thể gây ra những ảnh hưởng không có
trong dự tính, hoặc không tính toán được.
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Lịch Sử Các Học Thuyết Kinh Tế do Trường Đại Học Kinh Tế Quốc
Dân xuất bản năm 2013 do PGS.TS Trần Bình Trọng làm chủ biên
-

×