Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Quản lý trường tiểu học huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình đáp ứng mục tiêu xây dựng trường học thân thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 134 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC









NGUYỄN NGỌC DƢ




QUẢN LÝ TRƢỜNG TIỂU HỌC HUYỆN HƢNG HÀ
TỈNH THÁI BÌNH ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU XÂY DỰNG
TRƢỜNG HỌC THÂN THIỆN


LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC










HÀ NỘI - 2009





MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
1
2. Mục đích nghiên cứu:
3
3. Phạm vi nghiên cứu:
3
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu, mẫu khảo sát:
3
5. Câu hỏi nghiên cứu:
3
6. Giả thuyết nghiên cứu:
4
7. Phương pháp nghiên cứu:
4
8. Cấu trúc của luận văn
4

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan nghiên cứu về vấn đề xây dựng trường học thân thiện
5
1.2. Một số khái niệm, quan điểm liên quan đến đề tài
6
1.2.1. Quản lý (khái niệm, bản chất, chức năng)
6
1.2.2. Quản lý giáo dục
12
1.2.3. Quản lý nhà trường
14
1.2.4. Quan điểm về trường học mới của Hồ Chủ tịch
18
1.2.5. Quan điểm về nhà trường tương lai của nhà tương lai học
người Mỹ, Alvin Toffler

20
1.2.6. Một số quan điểm tích cực khác về nhà trường
21
1.3. Đặc trưng của trường học thân thiện
23
1.3.1. Theo quan điểm của UNICEF
23
1.3.2. Đặc trưng trường học thân thiện ở Việt Nam
27
1.4. Quản lý trường Tiểu học đáp ứng mục tiêu xây dựng trường
học thân thiện (Mục tiêu, yêu cầu, nội dung)
33
1.5. Tiểu kết chương 1

33


Chƣơng 2 : THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÁC TRƢỜNG TIỂU HỌC
HUYỆN HƢNG HÀ ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU XÂY DỰNG TRƢỜNG
HỌC THÂN THIỆN

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên - tình hình kinh tế – xã hội của
huyện Hưng Hà

35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
35
2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội huyện Hưng Hà
35
2.2. Khái quát về giáo dục Tiểu học huyện Hưng Hà
38
2.2.1. Quy mô trường lớp
38
2.2.2. Cơ sở vật chất:
38
2.2.3. Đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên
41
2.2.4. Nội dung, chương trình dạy học
43
2.2.5. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ giáo dục năm học 2008-2009
43
2.2.6. Đánh giá chung
44
2.3. Những yêu cầu mới để quản lý nhà trường đáp ứng mục tiêu

xây dựng trường học thân thiện

48
2.3.1. Sự chỉ đạo của ngành Giáo dục – Đào tạo
48
2.3.2. Sự đòi hỏi của thực tiễn
49
2.4. Đánh giá hiệu quả quản lý các trường tiểu học đáp ứng mục
tiêu xây dựng trường học thân thiện

49
2.4.1. Những công việc đã triển khai
49
2.4.2. Những kết quả đạt được
52
2.5. Đánh giá chung
58
2.5.1. Những mặt mạnh
58
2.5.2. Những mặt hạn chế
59
2.5.3. Nguyên nhân của hạn chế
66
2.6. Tiểu kết chương 2
69






Chƣơng 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÁC TRƢỜNG TIỂU HỌC
HUYỆN HƢNG HÀ ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU XÂY DỰNG
TRƢỜNG HỌC THÂN THIỆN

3.1. Một số nguyên tắc đề xuất các giải pháp
70
3.1.1. Đảm bảo theo đúng mục tiêu, yêu cầu và nội dung của phong
trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
70
3.1.2. Đảm bảo tính khoa học
70
3.1.3. Đảm bảo tính thực tiễn và có tính khả thi cao
70
3.1.4. Bám sát và hướng đến việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu
giáo dục

71
3.1.5. Đảm bảo tính đồng bộ
72
3.2. Những biện pháp quản lý các trường Tiểu học huyện Hưng Hà
đáp ứng mục tiêu xây dựng trường học thân thiện

72
3.2.1. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về trường
học thân thiện cho mọi lực lượng trong và ngoài ngành Giáo dục


72
3.2.2. Lập kế hoạch hành động quản lý nhà trường đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu, nội dung của trường học thân thiện


75
3.2.3. Phối hợp thường xuyên giữa ngành GD-ĐT, Văn hoá - Thể
thao và Đoàn thanh niên từ cấp huyện đến cấp xã

80
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ các
hoạt động dạy học

85
3.2.5. Đổi mới công tác quản lý và hình thức tổ chức các hoạt động
giáo dục trong nhà trường

90
3.2.6. Đổi mới quá trình dạy học
98
3.2.7. Mối quan hệ giữa các biện pháp
118
3.3. Khảo nghiệm tầm quan trọng, tính cấp thiết, tính khả thi
của các giải pháp đề xuất trong đề tài

119


3.3.1. Khảo sát tầm quan trọng của các biện pháp
119
3.3.2. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp
120
3.3.3. Đánh giá chung
122

3.4. Tiểu kết chương 3
123
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận:
124
2. Khuyến nghị:
124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
126


































MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của toàn xã hội, trong những năm
qua giáo dục Việt Nam đã thu được những thành quả đáng khích lệ trên nhiều
phương diện như: Quy mô trường lớp được mở rộng, phổ cập giáo dục Tiểu
học, phổ cập giáo dục THCS tiếp tục được thực hiện có hiệu quả, cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học được cải thiện đáng kể, đội tuyển học sinh giỏi
tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế luôn được xếp ở tốp các quốc gia mạnh,
đổi mới giáo dục được thực hiện từ mầm non đến đại học Tuy nhiên, thẳng
thắn nhìn nhận, đánh giá giáo dục nước nhà mỗi chúng ta đều thấy, giáo dục
nước ta vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục kịp thời như:
“khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được bồi dưỡng, năng
lực thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu. Chương trình, phương pháp dạy
học còn lạc hậu, nặng nề, chưa thật phù hợp xã hội hoá giáo dục được thực
hiện chậm, thiếu đồng bộ Công tác quản lý giáo dục, đào tạo chậm đổi mới;
những hiện tượng tiêu cực như bệnh thành tích, thiếu trung thực trong đánh
giá kết quả giáo dục, trong học tập tuyển sinh, thi cử, cấp bằng và tình trạng

học thêm, dạy thêm tràn lan kéo dài, chậm được khắc phục”[22, tr. 170-171]
Trước tình hình đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không
ngừng quan tâm, đầu tư cho giáo dục, giáo dục luôn được coi là “quốc sách
hàng đầu”, “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”. Bên cạnh việc tiếp
tục đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa phổ thông theo Nghị quyết
40/NQ-QH10 của Quốc Hội khóa X, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước, ngành giáo dục liên tục phát động, tổ chức cho cán bộ, giáo viên và học
sinh hưởng ứng những cuộc vận động, những phong trào thi đua như: Cuộc
vận động “Hai không”, Cuộc vận động “Mỗi thày giáo, cô giáo là một tấm


gương đạo đức, tự học và sáng tạo” và đặc biệt gần đây nhất vào đầu năm học
2008-2009 là phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013– một phong trào
được đánh giá là toàn diện hơn so với những phong trào, cuộc phát động trước
nó, với mục tiêu huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và
ngoài nhà trường để xây dựng cho học sinh phổ thông một môi trường giáo
dục an toàn, thân thiện, hiệu quả; phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo
của học sinh trong học tập, lao động, trong tu dưỡng hoàn thiện nhân cách,
từng bước làm thay đổi diện mạo cho những trường phổ thông trên toàn quốc,
tạo ra sức hấp dẫn để thu hút trẻ em, thanh thiếu niên đến trường.
Sau hơn 1 năm thực hiện phong trào thi đua này, tính thân thiện tại các
trường Tiểu học trên toàn quốc nói chung trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình nói riêng bước đầu đã có sự cải thiện. Tuy nhiên, đến nay một số
cán bộ quản lý và giáo viên Tiểu học trong huyện vẫn còn lúng túng trong việc
xác định mục tiêu, nội dung hoạt động, chưa tự mình xây dựng được kế hoạch
hành động, xác định được các biện pháp để thực hiện hiệu quả phong trào này
dẫn tới hiệu quả thực hiện phong trào còn hạn chế.
Với thời gian làm công tác quản lý giáo dục tiểu học cấp Phòng nhiều
năm, đồng thời được giao nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp kết quả thực hiện các

phong trào thi đua, các cuộc vận động tại các trường, tác giả nhận thấy đây là
một phong trào thi đua toàn diện, phù hợp với yêu cầu bức thiết của giáo dục
Tiểu học hiện nay. Do đó, cần phải tổ chức nghiên cứu, đề xuất biện pháp chỉ
đạo các trường tổ chức thực hiện có hiệu quả. Với những lý do nêu trên tác giả
chọn đề tài “Quản lý trường Tiểu học huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình đáp ứng
mục tiêu xây dựng trường học thân thiện” làm lụân văn tốt nghiệp Cao học
Quản lý Giáo dục tại Trường đại học Giáo dục, Đại học quốc gia Hà Nội.



2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường; phân tích thực trạng quản lý nhà trường từ đó đề xuất các biện pháp để
quản lý các trường tiểu học huyện Hưng Hà đáp ứng mục tiêu xây dựng
trường học thân thiện.
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc triển khai xây dựng trường học thân
thiện.
- Nghiên cứu quá trình quản lý các trường tiểu học trên địa bàn huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đáp ứng mục tiêu xây dựng trường học thân thiện từ
đầu năm học 2008-2009 đến đầu năm học 2009-2010.
- Nghiên cứu những biện pháp để quản lý các trường tiểu học trên địa
bàn huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đáp ứng mục tiêu xây dựng trường học
thân thiện.
4. Khách thể, đối tƣợng nghiên cứu, mẫu khảo sát:
4.1. Khách thể nghiên cứu:
Hoạt động dạy học, giáo dục trong các trường Tiểu học trên địa bàn huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đáp ứng mục tiêu xây dựng trường học thân thiện.
4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Những biện pháp quản lý các trường tiểu học huyện Hưng Hà đáp ứng

mục tiêu xây dựng “trường học thân thiện”.
- Mẫu khảo sát: Các trường tiểu học trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình.
5. Câu hỏi nghiên cứu:
- Thế nào là trường học thân thiện? Những đặc trưng cơ bản của trường
học thân thiện trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam là gì?
- Có thể xây dựng các trường tiểu học ở Hưng Hà đáp ứng mục tiêu
trường học thân thiện không?


- Làm thế nào để quản lý các trường tiểu học ở huyện Hưng Hà đáp ứng
mục tiêu xây dựng trường học thân thiện?
6. Giả thuyết nghiên cứu:
- Trường học thân thiện là nhà trường với một số đặc trưng cơ bản là: an
toàn, sạch đẹp; có nội dung, phương pháp dạy học tích cực, khuyến khích sự
sáng tạo của học sinh; nhu cầu của học sinh về cả thể chất và tinh thần được
coi trọng, học sinh được rèn luyện những kĩ năng sống để đối mặt với những
thách thức trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
- Nếu nghiên cứu, đề xuất và thực thi các biện pháp quản lý một cách
đồng bộ, sẽ xây dựng được các trường Tiểu học trên địa bàn huyện Hưng Hà
thành “Trường học thân thiện”
7. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận;
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn;
- Phỏng vấn chuyên gia,
- Phương pháp bổ trợ (thống kê toán học để xử lý các số liệu khảo sát)
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.

- Chương 2: Thực trạng quản lý các trường học Tiểu học huyện Hưng
Hà đáp ứng mục tiêu xây dựng trường học thân thiện.
- Chương 3: Biện pháp quản lý các trường Tiểu học huyện Hưng Hà đáp
ứng mục tiêu xây dựng trường học thân thiện.







Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu về vấn đề xây dựng trƣờng học thân thiện
Với quan điểm quản lý giáo dục trên cơ sở quản lý nhà trường, gần đây
đã xuất hiện khá nhiều đề tài, công trình nghiên cứu đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng của nhà trường, xây dựng và phát triển nhà trường theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng
nguồn nhân lực của xã hội. Điểm qua các đề tài tốt nghiệp Cao học quản lý
giáo dục tại Khoa sư phạm, Đại học Quốc gia Hà Nội đã có: “Các biện pháp
quản lý hoạt động dạy học của Phòng Giáo dục nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục ở trường Tiểu học huyện Lục Nam, Bắc Giang” của học viên Đào
Văn Sinh- Cao học Quản lý Giáo dục khoá 4; “Biện pháp xây dựng các trường
Tiểu học đạt chuẩn quốc gia tại thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục phổ thông ”của học viên Tống Thị Thanh Mai - Cao học
Quản lý Giáo dục khoá 6
Ngoài ra, trong khoảng thời gian hơn một năm gần đây, kể từ khi Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” trên một số báo, tạp chí, đã xuất hiện
một số bài viết về chủ đề này như: “Thế nào là trường học thân thiện” đăng
trên trang Web Giaovien.net ngày 29/7/2008; “Xây dựng trường học thân

thiện, học sinh tích cực” của PGS –TS Nguyễn Xuân Tế – Hiệu trưởng trường
Cán bộ quản lý giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh đăng trên Vietnam net ngày
15/7/2008; “Biện pháp chỉ đạo phong trào "Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Yến, “Thực trạng lưu ban, bỏ
học, trừng phạt học sinh và các biện pháp xây dựng trường học thân thiện” của
Thạc sĩ Trần Công Khanh, Trường CBQL Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh
đăng trên trang web


Mặc dù vậy, đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào tập
trung phân tích thực giáo dục Tiểu học ở một khu vực, đề xuất một hệ thống biện
pháp đồng bộ để xây dựng trường Tiểu học thành trường học thân thiện. Đây
cũng chính là một lý do khiến người viết chọn đề tài này để nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm, quan điểm liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lý (khái niệm, bản chất, chức năng)
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Con người, từ khi xuất hiện trên trái đất đã biết quy tụ thành bầy,
thành nhóm để tồn tại và phát triển. Từ lao động giản đơn đến những lao
động phức tạp, con người đã biết phân công, hợp tác với nhau nhằm đạt
được hiệu quả, năng xuất lao động cao hơn. Sự phân công, hợp tác đó
ban đầu là tự phát nên hiệu quả chưa cao, sau đó nó đòi hỏi phải có sự chỉ
huy
,
phối hợp, điều hành Quản lý ra đời từ đây, do yêu cầu của quá
trình lao động, sản xuất.
Mặc dù hoạt động quản lý được hình thành lâu đời như vậy, nhưng
chỉ đến khi loài người bước vào một Xã hội Công nghiệp thì các học thuyết
quản lý cổ điển mới ra đời. Từ đó đến nay đã hơn một thế kỷ nhưng ý nghĩa
cũng như giá trị thực tiễn của chúng vẫn còn đáng để chúng ta quan tâm,
tham khảo. Dưới đây là một số định nghĩa quản lý đáng quan tâm, nghiên

cứu:
Theo Henry Fayol (1841-1925) thì "Quản lý là quá trình đạt đến mục
tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch
hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra".
Theo H. Koontz (người Mỹ): "Quản lý là hoạt động đảm bảo phối
hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức trong một
môi trường và đối với những điều kiện nguồn lực cụ thể"


Theo Nguyễn Minh Đạo: “Quản lí là sự tác động liên tục, có tổ chức, có
định hướng của chủ thể về các mặt: chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hôị, giáo dục
bằng một hệ thống các luật định, chính sách, nguyên tắc, phương pháp, biện
pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện phát triển của đối tượng”.
Theo Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc
thì định nghĩa kinh
điển nhất về quản lý là: “Tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý (người quản lý) đến khách thể (người bị quản lý) - trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. [12, tr. 1]
Theo quan điểm của PGS.TS Đặng Quốc Bảo: Quản lý được định
nghĩa, được hiểu một cách đơn giản trên cơ sở chiết tự các thành tố cấu thành
khái niệm này. Cụ thể:
Quản lý = Quản + Lý
Quản có nghĩa là giữ gìn, duy trì.
Lý có nghĩ là đổi mới, chỉnh sửa.
Quản lý có nghĩ là duy trì và đổi mới.
Đặc biệt, luôn có sự thống nhất biện chứng giữa quản và lý: Trong quản
(giữ) có lý (chỉnh sửa), trong lý (chỉnh sửa) có quản (giữ) [
2, tr. 3]
Từ các định nghĩa trên về quản lý, ta thấy khái niệm quản lý bao gồm
hai yếu tố: chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động. Chủ thể có thể là

một cá nhân hoặc một tổ chức do con người cụ thể lập nên. Còn người chịu sự
quản lý là khách thể quản lý (hay gọi là đối tượng quản lý). Điều đặc biệt là
giữa đối tượng và chủ thể quản lý luôn có chung một mục tiêu và quy trình,
dựa vào đó làm căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động quản lý.
Để phát huy hiệu quả quản lý, giữa chủ thể quản lý và đối tương quản lý
phải có mối quan hệ, tác động qua lại tương hỗ nhau. Chủ thể quản lý làm nảy
sinh các tác động quản lý, còn đối tượng quản lý thì sản sinh ra các giá trị vật
chất và tinh thần có giá trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng nhu cầu của con người,
thoả mãn mục đích của quản lý.


Mặc dù, mỗi định nghĩa có những điểm khác biệt nhất định, song hầu
hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ
thuật. Quản lý được xem là một nghề nhằm dẫn dắt, trong một hoàn cảnh nhất
định, một nhóm người để đạt được các mục tiêu phù hợp với mục đích của tổ
chức.
Từ những quan điểm về khái niệm quản lý nêu trên, có thể đi đến một
định nghĩa khá đầy đủ về quản lý là:
Quản lý là thuật ngữ chỉ hoạt động có ý thức của con người nhằm sắp
xếp tổ chức, chỉ huy, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra các quá trình xã hội và
hoạt động của con người để hướng chúng phát triển phù hợp với quy luật xã hội,
đạt được mục tiêu xác định theo ý chí của nhà quản lý với chi phí thấp nhất.
[21,
tr.136].

1.2.1.2. Bản chất của hoạt động quản lý
Từ định nghĩa về quản lý nêu trên có thể thấy rằng bản chất của
hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người quản lý đến đối
tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Bản chất của hoạt động
quản lý có thể mô hình hoá qua sơ đồ sau:


Sơ đồ 1.1: Mô hình quản lý






















Công cụ
quản lý
Mục
tiêu
Chủ thể
quản lý

Khách thể
quản lý
Phương pháp
quản lý


1.2.1.3. Chức năng của quản lý
Để quản lý có hiệu quả người quản lý phải làm gì, làm công việc đó như
thế nào? Tìm hiểu điều này chính là tìm hiểu các chức năng quản lý.
Trong lịch sử phát triển của khoa học quản lý, có nhiều cách phân chia
về các chức năng quản lý. Theo quan điểm của thuyết gia người Pháp Henry
Fayol (1841-1925) thì có 5 chức năng quản lý cơ bản là: Lập kế hoạch, tổ
chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra. Đến năm 1937, L.Gulick và L.Uwick
phát triển thành 7 chức năng viết tắt là: POSDCORB: P: Planning (lập kế
hoạch), O: Organizing (tổ chức), S: Staffing (quản lý nhân sự), D: Directing
(chỉ đạo, lãnh đạo), CO: Coordinating (phối hợp), R: Reviewing (báo cáo), B:
Budgeting (tài chính). Đến đầu những năm 1990, James Stoner, Stephen
Roobbins quy các chức năng quản lý về 4 chức năng là: Lập kế hoạch, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm tra. [21, tr. 47].
Đến nay, quan điểm này vẫn được chấp nhận và sử dụng rộng rãi.
Các chức năng quản lý theo quan điểm của James Stoner, Stephen
Roobbins được hiểu như sau:
- Lập kế hoạch (kế hoạch hoá):
Lập kế hoạch là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai
của tổ chức; xác định con đường, cách thức, biện pháp để đạt được mục tiêu
đó với chi phí thấp nhất.
Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá là: xác định, hình
thành mục tiêu đối với tổ chức; xác định và đảm bảo tính chắc chắn về các
nguồn lực để tổ chức đạt được các mục tiêu đề ra; quyết định xem những hoạt
động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu đó. [12, tr. 3]

- Tổ chức:
Khi đã xây dựng xong kế hoạch, người quản lý phải chuyển hoá những
ý tưởng, những dự định của họ thành sự thật. Đây chính là khâu tổ chức thực
hiện kế hoạch. Trong khâu này, nhà quản lý phải huy động các nguồn lực để


thực hiện kế hoạch, đồng thời tổ chức các lực lượng trong đơn vị để thực hiện
kế hoạch này. Chính trong quá trình này, nhà quản lý xây dựng được các mối
quan hệ công tác trong tổ chức, tạo nên sức mạnh tập thể của đơn vị. Nhà quản
lý khoa học là người biết sắp xếp, bố trí công việc cho thuộc cấp, tạo được sự
hợp tác có hiệu quả giữa các thành viên, các bộ phận trong cơ quan.
- Lãnh đạo:
Lãnh đạo là xây dựng một hệ thống điều hành nhằm đảm bảo cho các
bộ phận trong tổ chức vận hành một cách nhịp nhàng, thông suốt. Do đó, khi
đã xây dựng được kế hoạch, tổ chức nhân lực, tài lực để thực hiện cần phải có
người đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, sứ mệnh của
mình. Trong quá trình chỉ đạo, hướng dẫn thuộc cấp thực hiện các nhiệm vụ,
người lãnh đạo không chỉ ra quyết định, ra lệnh mà còn phải biết tập hợp, liên
kết, động viên thuộc cấp của mình để họ tự giác hoàn thành nhiệm vụ được
phân công. Thực ra, lãnh đạo không chỉ thể hiện ở khâu thứ ba này mà nó đã
được thể hiện ngay từ khâu lập kế hoạch và tổ chức thực hiện.
- Kiểm tra:
Kiểm tra là hoạt động mà thông qua nó, nhà quản lý có thể theo dõi,
giám sát những hoạt động của tổ chức, của thuộc cấp. Trên cơ sở thông tin thu
được từ hoạt động này nhà quản lý sẽ đưa ra những quyết định để điều chỉnh,
uốn nắn hoặc thúc đấy hiệu quả của cấp dưới. Quy trình của hoạt động kiểm
tra thường diễn ra theo các bước sau:
- Nhà quản lý đặt ra các mục tiêu, các chuẩn mực hiệu quả của hoạt
động;
- Nhà quản lý tiến hành việc đo lường, đối chiếu kết quả hoạt động với

các chuẩn mực đặt ra ban đầu;
- Nhà quản lý tiến hành việc điều chỉnh những sai lệch;
- Nhà quản lý điều chỉnh, sửa lại chuẩn mực nếu thấy cần thiết. [12, tr. 4]


Có quan điểm cho rằng quản lý mà không kiểm tra thì coi như không
quản lý. Do đó, chức năng kiểm tra hết sức được coi trọng, đặc biệt ở những tổ
chức tính tự giác, tinh thần tập thể chưa cao.
Các chức năng chính của hoạt động quản lý luôn được thực hiện liên tiếp,
đan xen vào nhau, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành chu trình quản lý.
Trong chu trình này, yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn, nó
vừa là điều kiện, vừa là phương tiện không thể thiếu được khi thực hiện chức
năng quản lý và ra quyết định quản lý. Mối liên hệ này thể hiện qua sơ đồ sau:






Bốn chức năng quản lý nêu trên được thực hiện bởi hầu hết mọi chủ thể
quản lý, không phân biệt cấp bậc, ngành nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức.
Mỗi chức năng đều có vai trò quan trọng nhất định, thiếu sót ở bất cứ chức
năng nào cũng có thể gây ảnh hưởng mạnh đến hiệu quả hoạt động của tổ
chức. Mặc dù vậy, ở mỗi cấp độ quản lý, ở những tổ chức khác nhau, vai trò,
tầm quan trọng, cách thức thể hiện mỗi chức năng lại có nét khác nhau. Cái tài
của nhà quản lý là biết phối hợp tốt các chức năng này, biến mình không chỉ là
“thủ trưởng” mà còn là “thủ lĩnh” của tổ chức.
Kế hoạch
Chỉ đạo
Sơ đồ 1.2: Quan hệ giữa các chức năng quản



Tổ chức
Kiểm tra,
đánh giá
Thông
tin


1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt hình thành và phát triển
cùng với xã hội loài người, bản chất của nó là quá trình truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm lịch sử xã hội của thế hệ trước và thế hệ sau. Giáo dục có vị trí
đặc biệt quan trọng, không chỉ là sản phẩm xã hội, mục tiêu xã hội mà còn là
nhân tố tích cực, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Mặc dù, giáo
dục có lịch sử lâu đời như vậy, nhưng khoa học về quản lý giáo dục có tuổi
đời rất non trẻ. Tài liệu hoàn chỉnh đầu tiên về quản lý giáo dục – cuốn “Quản
lý trường học” của A.pôpốp (người Liên Xô cũ) mới ra đời năm 1956.
Từ đó đến nay trên thế giới, đã xuất hiện nhiều công trình khoa học về
quản lý giáo dục như: “Những vấn đề cơ bản của quản lý trường học” của Côn
đa cốp (1983), “Những cơ sở của quản lý nội bộ trường học” của Viện Hàn
lâm Sư phạm Liên xô (1987) và gần đây nhất là “Quản lý giáo dục – Lý
thuyết, nghiên cứu và thực tiễn của Wayne K.Hoy và Cecil G.Miskel (1996)
Ở Việt Nam, cũng đã xuất hiện khá nhiều những công trình nghiên cứu,
những tập giáo trình giảng dạy đại học, cao học về quản lý giáo dục. Trong số
những công trình nghiên cứu đó phải kể đến: “Lý luận quản lý Giáo dục” của
PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc Trường Đại học Giáo dục, “Những khái niệm cơ
bản về Lý luận Quản lý Giáo dục” của Nguyễn Ngọc Quang; “Quản lý nhà
nước về giáo dục” – Lý luận và thực tiễn của Đặng Bá Lãm
Nghiên cứu các công trình, tài liệu trên cho thấy, một trong những cống

hiến đáng kể của các nhà nghiên cứu giáo dục là họ đã chỉ ra sự khác biệt cơ
bản của quản lý giáo dục với quản lý kinh tế - xã hội nói chung [13, tr. 5].
Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu thì để thực hiện tốt công tác quản lý
giáo dục, mỗi nhà quản lý trước hết cần phải hiểu được những sự khác biệt này.
- Khó xác định được các mục đích, mục tiêu rành mạch;
- Khó đo lường, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu, mục đích đề ra;


- Người học là “khách hàng” đặc biệt, trực tiếp tham gia vào quá trình
“sản xuất kinh doanh”, là những cá nhân đang trong quá trình phát triển nhân
cách.
- Có xuất hiện mối quan hệ „khách hàng” giữa giáo viên và học sinh
nhưng lại không có hàng hoá và hoạt động mua bán.
- Quá trình ra quyết định của các cơ sở giáo dục thường gặp nhiều khó
khăn do nhà trường chịu tác động của nhiều thế lực bên ngoài từ trung ương
đến địa phương.
- Các nhà quản lý có rất ít thời gian dành cho hoạt động quản lý.
Để khái quát nên những đặc trưng đặc thù nhất của quản lý giáo dục,
nhiều nhà nghiên cứu giáo dục cũng đã đưa ra một số định nghĩa về “quản lý
giáo dục”. Dưới đây là một số định nghĩa đáng quan tâm:
Theo Phạm Khắc Chương: “Quản lý giáo dục theo nghĩa rộng nhất là
quản lí quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người trong các chế độ
chính trị, xã hội khác nhau mà trách nhiệm là của nhà nước và hệ thống đa cấp
của ngành giáo dục từ trung ương cho đến địa phương là Bộ Giáo dục, Sở giáo
dục, Phòng giáo dục, ở các quận, huyện và các đơn vị cơ sở là nhà trường”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được các tính chất của nhà trường Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu
điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu

dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.
Như vậy, quản lý giáo dục chính là một quá trình tác động có định
hướng của nhà quản lý giáo dục (chủ thể) trong việc vận hành những nguyên
lý, phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục
nhằm đạt những mục tiêu giáo dục đề ra. Những tác động đó thực chất là


những tác động khoa học đến nhà trường, làm cho nhà trường tổ chức một
cách khoa học, có kế hoạch quá trình dạy học, giáo dục theo mục tiêu đào tạo.
Chủ thể quản lý là trung tâm thực hiện các tác động có mục đích của
giáo dục, trung tâm ra quyết định điều hành và kiểm tra các hoạt động của hệ
thống giáo dục theo mục tiêu đề ra.
Đối tượng quản lý giáo dục bao gồm nguồn nhân lực của giáo dục, cơ
sở vật chất kĩ thuật của giáo dục và các hoạt động có liên quan đến việc thực
hiện chức năng của giáo dục, đó chính là những đối tượng chịu sự tác động
của cán bộ quản lý (chủ thể) để thực hiện và biến đổi phù hợp với ý chí của
chủ thể quản lý đã đề ra.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản của quản lý giáo dục,
trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý quan trọng nhất,
nhưng đồng thời cũng là chủ thể trực tiếp quản lý quá trình giáo dục.
1.2.3. Quản lý nhà trường
1.2.3.1. Khái niệm nhà trường
Nhà trường đầu tiên xuất hiện là vào khoảng 500 năm trước Công
nguyên do Khổng Tử - Người thầy, nhà triết học cổ đại nổi tiếng người Trung
Quốc sáng lập. Ngôi trường này có tên là “Hạnh Đàn”. Từ ngôi trường này
khoảng 3000 học trò đã được Khổng Tử đào tạo thành trí nhân, quân tử. Đến
thế kỷ thứ 17, một loại hình trường mới do Comenxky, nhà giáo dục nổi tiếng
người Tiệp Khắc đề xuất với các lớp học, chương trình học cụ thể cho từng
nhóm học sinh theo lứa tuổi ra đời. Từ đó đến nay, mô hình trường lớp kiểu
này tiếp tục phát triển ở các cấp học, bậc học, được quản lý bởi các nhà sư

phạm, nhà quản lý giáo dục chuyên nghiệp.
Vậy nhà trường là gì? Mới nghe ai cũng tưởng đây là một câu hỏi dễ trả
lời. Tuy nhiên, để trả lời chính xác và đầy đủ, trước hết chúng ta cần phải thấy


được "các dấu hiệu để phân biệt nhà trường với một thiết chế xã hội" [13, tr.
110].
Thứ nhất, nhà trường là một thiết chế xã hội có tính mục đích tập trung
cao. Tất cả các hoạt động thực hiện trong nhà trường từ hoạt động giảng dạy,
hoạt động ngoài giờ lên lớp hay hoạt động lập kế hoạch đào tạo đều hướng
tới thực hiện một mục đích giáo dục mà nhà trường, cấp học được xã hội giao
phó.
Thứ hai, nhà trường là thiết chế có tính tổ chức cao độ trong việc thực
hiện sứ mệnh của mình.
Thứ ba, nhà trường là nơi thực hiện việc giáo dục, đào tạo và hình thành
con người cho xã hội với tính hiệu quả và với chất lượng cao hơn hẳn các thiết
chế khác.
Thứ tư, hoạt động của nhà trường có tính độc lập tương đối theo nghĩa
tại đó các giá trị xã hội được nâng lên tầm lý tưởng hoá.
Thứ năm, nhà trường là nơi duy nhất thực hiện việc giáo dục con người
theo cách phân hoá đối đối tượng theo từng nhóm cụ thể, thậm chí người học
còn được cá biệt hoá, được chăm sóc, giáo dục phù hợp với sự phát triển của thể
chất và tinh thần.
Do đó, theo quan điểm của người nghiên cứu đề tài, định nghĩa đầy đủ
nhất về Nhà trường là: Nhà trường là một thiết chế xã hội đặc biệt có sứ mệnh
hình thành và phát triển nhân cách cho người học đáp ứng nhu cầu của xã hội
về con người, về văn hoá, kinh tế, chính trị nhằm tạo nên sự thống nhất quốc
gia và sự thuần nhất trong xã hội.
Đặc điểm khác biệt lớn nhất của một nhà trường với một tổ chức thông
thường là ở chỗ phần lớn những viên chức trong nhà trường, kể cả các viên

chức lãnh đạo cũng làm nhiệm vụ chuyên môn.
1.2.3.2. Các thành tố của nhà trường


Với tư cách là một thiết chế xã hội, nhà trường cũng bao gồm 4 thành
tố:
- Thành tố vật chất: Gồm tất cả cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng phục vụ
cho các hoạt động dạy học, giáo dục các hoạt động khác của nhà trường.
- Thành tố con người: Bao gồm hai nhân tố cơ bản của quá trình dạy học:
người dạy, người học và những người lao động khác như kế toán, văn phòng,
thủ thư
- Thành tố tinh thần: Là toàn bộ những tri thức, kĩ năng, thái độ mà xã
hội đã tích luỹ, được chọn lọc, tái tạo và phát triển trong nhà trường thông qua
các hoạt động giảng dạy và giáo dục.
- Thành tố quá trình: Quá trình cơ bản có tính đặc trưng trong một nhà
trường không gì khác chính là quá trình sư phạm. Tuy nhiên, bên cạnh quá
trình sư phạm, trong nhà trường còn diễn ra các quá trình khác, là tiền đề nâng
cao hiệu quả của quá trình sư phạm là: quá trình xây dựng, phát triển cơ sở vật
chất, quá trình xây dựng, phát triển nhân sự.
Các thành tố của nhà trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thành
tố vật chất là tiền đề để các thành tố khác tồn tại và thể hiện mình vì không có
trường, có lớp sao có thể có chỗ cho quá trình sư phạm diễn ra, sao có chỗ cho
con người thể hiện. Tuy nhiên, có trường có lớp, có phương tiện mà không có
người dạy, người học thì trường lớp chẳng để làm gì. Hoặc nữa, có trường có
lớp, có người muốn học, người muốn dạy mà chương trình, nội dung dạy học
không có hoặc nghèo nàn, lạc hậu thì quá trình sư phạm cũng diễn ra không
hiệu quả và cả hệ thống sẽ không thể tồn tại “mạnh khoẻ”, sớm muộn cũng
dẫn tới nguy cơ diệt vong.
1.2.3.3. Quản lý nhà trường
Như đã trình bày ở trên, nhà trường bao gồm 4 thành tố chính là: vật

chất, tinh thần, con người và quá trình sư phạm. Do đó, để nhà trường phát


triển cần phải tác động lên cả 4 thành tố này làm chúng phát triển. Vậy quản lý
nhà trường cụ thể là gì, được định nghĩa như thế nào?
Theo Nguyễn Ngọc Quang: Quản lý nhà trường là: “Tập hợp những tác
động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp ) của
chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ khác, nhằm tận
dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do
lao động xây dựng vốn tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà
trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng
mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới.”
Như vậy, quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục trong một phạm
vi xác định đó là đơn vị giáo dục nhà trường. Do đó, quản lý nhà trường là vận
dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt
động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.
Theo giáo sư Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường
lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”
Bản chất quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học, làm sao
đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác tốt hơn để dần dần đạt
được mục tiêu giáo dục đề ra.
Quản lý nhà trường là một hoạt động thực hiện trên cơ sở những quy
luật chung của quản lý, đồng thời có những nét riêng mang tính đặc thù của
giáo dục.
Quản lý nhà trường khác với quản lý xã hội khác, nó được quy định với
bản chất lao động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy
học và quá trình giáo dục, trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là chủ
thể sáng tạo chủ động vừa là đối tượng quản lý. Sản phẩm của các hoạt động



trong nhà trường là nhân cách học sinh được hình thành trong quá trình học
tập, tu dưỡng và rèn luyện, phát triển theo yêu cầu của xã hội.
Quản lý nhà trường với mục đích cuối cùng là để hình thành, phát triển
nhân cách cho học sinh.
Do đó, thực chất quản lý giáo dục, suy cho cùng là tạo điều kiện thuận
lợi cho các hoạt động trong nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu. Trường
học là một thành tố của hệ thống giáo dục nên quản lý trường học cũng được
hiểu như một bộ phận của quản lý giáo dục.
Để nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu, phải tác động để phát triển
đồng thời cả 4 thành tố của nhà trường, làm cho nhà trường có đầy đủ cơ sở
vật chất đảm bảo an toàn, sạch đẹp; làm cho nội dung dạy học đảm bảo tính
vừa sức, thiết thực, giúp người học có khả đối mặt với sự thay đổi nhanh
chóng như vũ bão của cuộc sống đương đại; làm cho quá trình dạy học, quá
trình giáo dục diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả để người dạy và người
học ngày càng tích luỹ được nhiều tri thức, kinh nghiệm xã hội. Đây chính là
nhiệm vụ đặt ra cho mỗi nhà quản lý giáo dục từ cấp trường đến cấp cao nhất
trong mọi giai đoạn phát triển của giáo dục.
Chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu thế nào là nhà trường, nhà trường gồm
những thành tố nào và để quản lý nhà trường có hiệu quả thì phải làm gì? Mục
tiêu của xây dựng trường học thân thiện cũng không nằm ngoài việc phát triển
nhà trường, làm cho quá trình sư phạm trở nên dễ dàng, nhẹ nhàng và hiệu
quả. Tuy nhiên, do trường học thân thiện có những đặc trưng nhất định khác
biệt với trường học thông thường nên để phát triển nhà trường theo hướng này
cần phải tìm hiểu những quan điểm tiến bộ về nhà trường, những đặc trưng cơ
bản của Trường học thân thiện.
1.2.4. Quan điểm về trường học mới của Hồ Chủ tịch
Hồ Chủ tịch là một nhà chính trị, một danh nhân văn hoá lỗi lạc của
Việt Nam và của nhân dân toàn thế giới. Bên cạnh sự nghiệp chính trị, sự



nghiệp văn hoá vĩ đại, Người còn để lại cho chúng ta rất nhiều quan điểm tích
cực về giáo dục nói chung về nhà trường nói riêng. Dưới đây là một số quan
điểm của người về giáo dục và nhà trường trích trong „„Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục‟‟ của PGS.TS Đặng Quốc Bảo, Nxb Giáo dục, 2008.
- Trước nhất là quan điểm về mục tiêu dạy học, huấn luyện:
Theo Người: Huấn luyện là làm ra hàng. Làm ra hàng phải đúng với
nhu cầu của người tiêu thụ. Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra nhiều
bình tích thì hàng ế.
- Thứ hai là quan điểm về chương trình giáo dục:
Theo Người, cần phải sửa đổi chương trình giáo dục cho phù hợp với sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
- Thứ ba là nội dung dạy học. Theo Người:
+ Tiểu học cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: Yêu tổ quốc, yêu nhân
dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công.
+ Trung học cần đảm bảo cho trò những tri thức phổ thông chắc chắn,
thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ nước nhà, bỏ những phần nào
không cần thiết cho đời sống thực tế.
- Thứ tư là phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, ghi điểm.
Theo Người :
+ Cách dạy phải nhẹ nhàng, vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ
của người lớn.
+ Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà
không học thì không trôi chảy.
+ Khi kiểm tra học viên về khả năng thuộc thơ, ai nhớ tốt, đọc lưu loát
thì Người cho điểm “đi máy bay”, đạt mức trung bình thì “đi ô tô”, ngắc ngứ
nhiều thì “đi xe bò” và Người nhắc hôm sau phải cố gắng hơn. Cách đánh giá,
cho điểm như thế này không làm ai xấu hổ mà vẫn khích lệ được người học.



- Thứ năm là mối quan hệ trong nhà trường. Theo Người:
+Xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy,
giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp Dân chủ nhưng
trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải “Cá đối bằng đầu”. Đồng
thời thầy và trò cần giúp đỡ anh chị em phục vụ.
- Thứ sáu là mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình và xã hội:
+ Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia
đình và ngoài xã hội thì cũng không hoàn toàn.
Những quan điểm về giáo dục và nhà trường nêu trên của Hồ Chủ tịch
ra đời cách đây đến nửa thế kỉ nhưng nó đã hàm chứa những tư tưởng hết sức
tiến bộ về một nhà trường kiểu mới – nhà trường với nội dung dạy học thiết
thực, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá thể hiện sự dân chủ, nâng niu
trân trọng người học, với sự chan hoà, đồng thuận trong tập thể sư phạm nhà
trường. Giáo dục nhà trường luôn nhận được sự đồng hành của giáo dục gia
đình và xã hội.
1.2.5. Quan điểm về nhà trường tương lai của nhà tương lai học người
Mỹ, Alvin Toffler
Alvin Toffler là nhà tương lai học nổi tiếng người Mỹ được độc giả trên
thế giới biết đến với hai tác phẩm rất nổi tiếng là “Cú sốc tương lai” và “Đợt sóng
thứ ba”.
Trong hai tác phẩm này của mình, Alvin Tofler chia lịch sử phát triển
của xã hội loài người thành 3 giai đoạn – 3 “đợt sóng”. Đợt sóng thứ nhất với
sự ra đời của Nền văn minh Nông nghiệp, Đợt sóng thứ hai với sự ra đời của
Nền văn minh Công nghiệp, Đợt sóng thứ ba với sự ra đời của Nền văn minh
Hậu công nghiệp hay còn gọi là Văn minh Tin học – nền văn minh ra đời ở
một số nước phát triển như Mỹ vào những năm 60 của thế kỷ trước. Đặc biệt,

×