Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 84 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM



LÊ THỊ THANH THUÝ




BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KỸ THUẬT THÁI BÌNH




LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Chuyên ngành : QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05




Cán bộ hướng dẫn: PGS-TS Bùi Văn Quân

HÀ NỘI – 2008




1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục ở bất cứ thời đại và quốc gia nào cũng có vị trí quan trọng trong
sự phát triển của xã hội.Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã quyết định đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Để đáp ứng nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho sự nghiệp Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi chúng ta phải phát triển giáo dục, thực sự coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu.Nâng cao chất lượng giáo dục nhằm thực hiện
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên, là mối quan tâm hàng đầu của các nhà trường.Chất lượng giáo dục
phụ thuộc vào hoạt động Dạy của thầy và hoạt động Học của trò.
Có nhiều con đường để một người nói chung và sinh viên nói riêng chiếm
lĩnh được tri thức và kỹ năng.Trong đó tự học là một phương pháp vừa cổ điển
nhất, vừa hiện đại nhất và cũng là hiệu quả mạnh mẽ nhất.Tự học- tự đào tạo là
con đường phát triển suốt đời của mỗi người, đó cũng là truyền thống quý báu
của dân tộc Việt nam như lời Bác Hồ đã căn dặn: “về cách học, phải lấy tự học
làm cốt”.
Tự học là một vấn đề đang được nhiều người quan tâm và đã được nêu ra
trong các văn kiện, văn bản của Đảng, nhà nước cũng như của ngành giáo dục và
đào tạo nhằm phát huy nội lực của con người trong chiến lược phát triển con
người. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và nghị quyết TW 2 khoá VIII đã
chỉ rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học
sáng tạo của học sinh” “ …Phát triển mạnh mẽ phong trào tự học- tự đào tạo
thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân , nhất là thanh niên”
Điều 5 Luật Giáo dục 2005 cũng đã qui định rõ “ Phương pháp giáo dục
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi

dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập


2
và ý chí vươn lên” Như vậy có thể nói “ coi trọng tự học” là một vấn đề chiến
lược trong giáo dục- đào tạo ở nước ta hiện nay.
Theo xu hướng phát triển chung, Việt nam đang trong quá trình xây dựng
một xã hội học tập; tạo môi trường và động lực để mỗi thành viên trong xã hội có
thể học tập suốt đời.Do đó tự học trở thành điều kiện thiết yếu để mỗi cá nhân
phát triển hài hoà trong xã hội hiện đại.
“Tự học” được hiểu theo nhiều cách khác nhau song ở đây chúng ta chưa
dám bàn tới vấn đề “ tự động học tập” “ biến quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo” mà chỉ đi sâu vào vấn đề “ Tự học theo kế hoạch giảng dạy và học tập
của nhà trường” .Tự học gắn với qui trình học giảng dạy, có kiểm tra đánh giá
theo từng giai đoạn học tập và đánh giá chung cho toàn bộ quá trình học tập.
Lâu nay ở nhà trường, chúng ta đã quan tâm hướng dẫn các em tự học, học
tập một cách chủ động. Song sự chuyển biến trong cách học của các em tuy có
tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Các em vẫn chưa quan tâm đúng mức
đến việc rèn luyện kỹ năng tự học, tự củng cố, tự trau dồi kiến thức mặc dù đã có
nhiều sách tham khảo về vấn đề này.Tình trạng trên phản ánh công tác quản lý
dạy- học ở các trường học nói chung và trường Cao đẳng nói riêng chưa được tốt.
Là một trường trực thuộc tỉnh Thái bình, Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ
thuật trong những năm qua đã cố nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng
đào tạo.Nhà trường đã có nhiều đổi mới trong hoạt động Dạy và Học nhưng chất
lượng học tập của sinh viên còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của thị trường lao động. Sinh viên chưa có phương pháp và kỹ năng học
tập ở bậc Cao đẳng đại học nên khả năng tư duy, tự nghiên cứu tìm tòi kiến thức
còn yếu, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
sánh tạo, nâng cao năng lực tự học cho sinh viên chưa được thực hiện đồng bộ,
chưa thường xuyên; công tác quản lý, tổ chức của trường đối với hoạt động tự

học của sinh viên chưa được quan tâm đúng mức; số lượng giáo viên cơ hữu của
trường còn ít … Công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong thời gian
qua còn nhiều hạn chế như việc hướng dẫn các em học tổ nhóm, seminar chưa
thực sự hiệu quả và thường xuyên, sinh viên vẫn còn thờ ơ với việc trang bị tri


3
thức, lười đến thư viện, lười đọc sách, việc học tập còn mang tính chiếu lệ.Cơ sở
vật chất, thư viện còn nghèo nàn chưa đáp ứng được yêu cầu học tập của các em.
Chính vì vậy , việc tìm ra những biện pháp có hiệu quả để quản lý hoạt
động tự học của sinh viên Trường Cao Đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái bình là một
nhiệm vụ cấp thiết đối với nhà trường hiện nay.Với những lý do trên, chúng tôi
chọn đề tài: “ Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Cao
đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái bình”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động
tự học của sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái bình nhằm nâng cao
kết quả của hoạt động tự học và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của nhà
trường.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường
Cao Đẳng , Đại học.
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái Bình.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động tự học nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo bậc Cao đẳng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tự học và các biện pháp quản lý
hoạt động tự học của sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái bình.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên nhằm

nâng cao kết quả của hoạt động tự học và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo
tại Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái bình.
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay hoạt động tự học của sinh viên Trường cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật
Thái bình còn nhiều hạn chế. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan. Nguyên nhân chủ quan là do sinh viên thiếu ý chí và nỗ lực; nguyên
nhân khách quan là do công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên còn chưa


4
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng tự học của sinh viên . Nếu đề xuất và áp
dụng các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh bao quát từ việc kế
hoạch đến tổ chức , kiểm tra( bao quát được động cơ nội lực của sinh viên, môi
trường và có sự định hướng quản lí) thì chất lượng hoạt động học tập của sinh
viên sẽ được nâng cao và mục tiêu của nhà trường sẽ được thực hiện tốt hơn.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận : Nghiên cứu, phân tích tổng hợp
những tư liệu như tư liệu về giáo dục học- tâm lý học, lý luận về quản lý giáo
dục, các văn bản về sinh viên.Tham khảo Luật giáo dục, các văn kiện của Đảng
và nhà nước, tạp chí khoa học và giáo dục có liên quan đến luận văn.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, điều
tra, tổng kết kinh nghiệm, lấy ý kiến chuyên gia. Phân tích tổng hợp, đánh giá
bằng phương pháp toán học thống kê.
7. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt
động tự học của sinh viên.
- Phạm vi khảo sát: 3 lớp Cao đẳng khoá 6 đang theo học ngành Kế toán
của Trường. ( 200 sinh viên đang học năm thứ 2).
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài làm sáng tỏ vai trò của công tác quản lý hoạt động tự học của sinh

viên- một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý tốt hơn việc học tập của sinh viên,
trong đó chú trọng khâu tự học tại Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái bình
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn dự kiến trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về tự học và quản lý hoạt động tự học
- Chương 2: Thực trạng tự học và quản lý hoạt động tự học của sinh
viên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái bình.


5
- Chương 3: Những biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Trƣờng Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái bình.



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ HỌC VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN CAO ĐẲNG
1.1.Lịch sử về vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Trên thế giới
Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện mục đích
của quá trình giáo dục tổng thể trong đó tự học là phương thức cơ bản để người
học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực.Trong lịch sử giáo
dục, tự học là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm.
Song trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, nó được đề cập dưới các góc độ và
hình thức khác nhau. Các tác giả đã làm rõ vai trò của hoạt động tự học (HĐTH),
tự nghiên cứu tìm tòi, khám phá của bản thân người học, nó là cơ sở cho mọi sự
thành công trong học tập.

Khổng Tử (551-479 trước công nguyên) rất quan tâm đến việc kính thích
sự suy nghĩ, sáng tạo của học trò. Cách dạy của ông là gợi mở để học trò tìm ra
chân lý. Theo ông, thày giáo chỉ tìm ra cho học trò cái mấu chốt nhất, còn mọi
vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra, người thầy giáo không được làm thay
hết cho học trò. Ông đã từng nói với học trò của mình rằng: “ Bất phẫn, bất phải,
bất phi, bất phát.Cứ bất ngung, bất dĩ tam ngung phản, tác bất phục dã” (Không
giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ được thì không
bầy vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc, mà không suy ra ba góc kia thì
không dạy nữa”.( luận ngữ) [13, tr.55].
Mạnh Tử đòi hỏi người học phải tự suy nghĩ, không nên nhắm mắt theo
sách. “Tận tín thư bất như vô thư” (Tin cả ở sách thì chi bằng không có sách).
Người học phải cố gắng tìm hiểu. [13, tr.55]


6
Socrate (469-390 trước công nguyên) đã từng nêu khẩu hiệu “Anh hãy tự
biết lấy anh” qua đó ông muốn học trò phát hiện ra „chân lý‟ bằng cách đặt câu
hỏi để dần dần tìm ra kết luận [13, tr.55].
J.A. Comenxki (1592 - 1670), ông tổ của nền giáo dục cận đại, người đặt
nền móng cho sự ra đời của nhà trường hiện nay, nhà giáo dục lỗi lạc của
Slovakia và nhân loại cũng đã nêu ra các nguyên tắc, phương pháp giảng dạy
trong tác phẩm “Phép giảng dạy vĩ đại” nhằm phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh và ông cương quyết phản đối lối dạy học áp đặt giáo điều làm cho
học sinh có thói quen không tự giác trong học tập .Theo ông , dạy học phải làm
thế nào để người học thích thú học tập và có những cố gắng bản thân để nắm lấy
tri thức.Ông nói: “Tôi thường bồi dưỡng cho học sinh của tôi tinh thần độc lập
trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc ứng dụng tri thức vào thực
tiễn”.[13,tr.56]
Thế kỷ XVIII-XIX, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng như J.J. Rousseau (1712-
1778); Pestalogie (1746-1827); Distecvec (1790-1866); Usinxki (1824-1873)

đều có chung quan điểm cần hướng cho học sinh tự nắm bắt kiến thức bằng cách
tự tìm tòi và sáng tạo.
Những năm gần đây, trên cơ sở kế thừa có phê phán các tư tưởng của các
tác giả đi trước, các nước phương Tây nổi lên cuộc cách mạng để tìm phương
pháp giáo dục mới dựa trên tiếp cận “lấy người học làm trung tâm” để phát huy
năng lực nội sinh của con người. Đại diện cho tư tưởng này John Dewey (1859-
1952), nhà sư phạm nổi tiếng người Mỹ, ông phát biểu “Học sinh là mặt trời,
xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục”. Một loạt các phương pháp dạy
học theo tư tưởng quan điểm này đã được đưa vào thực nghiệm: “Phương pháp
tích cực”, “phương pháp hợp tác”, “phương pháp cá thể hoá”. Nói chung đây là
các phương pháp mà người học không chỉ lĩnh hội kiến thức bằng nghe thầy
giảng, học thuộc mà còn từ HĐTH, tự tìm tòi lĩnh hội tri thức. Giáo viên là người
trọng tài, đạo diễn thiết kế tổ chức giúp cho học sinh biết cách làm, cách học.


7
Ông còn cho rằng: việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú, phải để
trẻ em độc lập tìm tòi, thầy giáo là người thiết kế, cố vấn [13, tr.59].Cả hai đối
tượng này đều là những cá thể tích cực học hỏi bằng cách đương đầu với những
tình huống rắc rối nảy sinh trong những hoạt động của mình.Tư duy là một
phương tiện nhằm giải quyết những vấn đề trong thực nghiệm và tri thức được
tích luỹ thông qua chính quá trình giải quyết những vấn đề đó.


T. Makiguchi, nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật bản, trong những năm 30
của thế kỷ XX đã cho rằng “Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình học
tập và đặt trách nhiệm học tập vào trong tay mỗi học sinh. Giáo dục xét như là
quá trình hướng dẫn học sinh tự học” [26].
Raja Roy Singh, nhà giáo dục Ấn độ trong tác phẩm “Giáo dục cho thế kỷ
XXI, những triển vọng của Châu á Thái Bình Dương” đã đưa ra quan điểm về

quá trình “Nhận biết dạy - học” và ông chủ trương rằng người học phải là người
tham gia tích cực vào quá trình “Nhận biết dạy - học”. Ông cho rằng: “Sự học tập
do người học chủ đạo” [23, tr.110]. Trong hệ thống dạy học, người học vừa là
chủ thể vừa là mục đích của quá trình học tập. “Vị trí của người học ở trung tâm
hay ngoại biên là nét đặc trưng phân biệt hệ thống giáo dục này với giáo dục
khác”. [23, tr.111].
Trong dự thảo báo cáo về con người của thế kỷ 21, các Nhà giáo dục và nhân
văn Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Á đều có quan điểm thống nhất: xem thái độ
học tập và kỹ năng ứng dụng của giới trẻ đang diễn biến ra sao. Tuỳ theo đồ thị
tăng trưởng ấy như thế nào, sẽ biết được diện mạo của lớp trẻ trong tương lai và
cả gương mặt của xã hội ngày mai. Trong đó các tác giả đã đưa ra bốn thái độ
học tập và mười kỹ năng ứng dụng học vấn vào đời sống xã hội, một trong mười
kỹ năng đó là: Kỹ năng Tự học, tự nâng cao trình độ cá nhân trong mọi tình
huống. [13, tr.4]


8
Như vậy vấn đề tự học của học sinh - sinh viên đã được nghiên cứu từ rất sớm
trong lịch sử giáo dục và nó vẫn còn là vấn đề nóng bỏng cho các nhà nghiên cứu
giáo dục hiện tại và tương lai bởi vì tự học có vai trò rất quan trọng, quyết định
mọi sự thành công trong học tập, là điều kiện đảm bảo cho hiệu quả, chất lượng
của mọi quá trình giáo dục đào tạo.

1.1.2.Ở Việt Nam
Ở Việt nam, trong công cuộc đổi mới nền kinh tế – xã hội của đất nước, đã
đặt ra những yêu cầu mới cho Giáo dục, đòi hỏi phải đổi mới Giáo dục. Một
trong những phương hướng đổi mới đó là đổi mới phương pháp dạy học. Trong
những năm gần đây chúng ta nói nhiều đến phương pháp dạy học tích cực, lấy
người học làm trung tâm với ý tưởng cốt lõi là người học phải tích cực, độc lập,
tự chủ, sáng tạo trong quá trình học tập. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với

tinh thần Nghị quyết TW2 (khóa 8) về Giáo dục : “Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp Giáo dục & Đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nề
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến
và và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian
tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh
phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn nhân dân,
nhất là trong thanh niên”.
Tinh thần của Nghị quyết đã được cụ thể hoá trong Luật giáo dục, Mục 2,
Điều 4 “ Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục” đã nêu rõ: “Phương
pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”;
Khoản b, Mục 1, Điều 36: “Yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục đại học
và sau đại học” cũng nêu: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi
dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư
duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, ứng dụng ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Cách học tập: Lấy tự học làm cốt ”
[17, tr.18]. Người còn nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”


9
[17, tr.79] Người khuyên: “Không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa.
Phải biết tự động học tập”. [17, tr.79]
Nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam Đỗ Mười đã
nhấn mạnh: “Tự học, tự đào tạo là một con đường phát triển suốt đời của mỗi con
người trong điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau; đó cũng là
truyền thống quý báu của người Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam. Chất lượng và
hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực tự học, sáng tạo của
người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục”.
Lãnh đạo Bộ Giáo dục & Đào tạo khi đến thăm trường Đại học đã nhấn
mạnh: “ Phải xác định mục tiêu quan trọng nhất của việc giảng dạy ở trường đại

học là dạy cách học cho học viên, trang bị cho họ những phương pháp và kỹ năng
tự học, thói quen học suốt đời, làm cho họ trở thành những thành viên nòng cốt
của “Xã hội học tập” ”
Trong khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu rất công phu về vấn đề
tự học, như: “Quá trình dạy – tự học” của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn,Vũ Văn Tảo
[25]; “Luận bàn về kinh nghiệm tự học” của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn [24] và
nhiều công trình nghiên cứu về tự học của các Giáo sư, các nhà giáo dục học như
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức, Thái Duy Tuyên
Trong nhiều năm gần đây có khá nhiều Luận văn Thạc sỹ khoa học giáo dục đã
đề cập nhiều đến khía cạnh hoạt động tự học và các biện pháp quản lý, tổ chức
hoạt động tự học của người học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo.
1.2. Hoạt động tự học của sinh viên cao đẳng.
1.2.1. Khái niệm về sinh viên cao đẳng
Sinh viên là người học ở các cơ sở giáo dục đại học.Giáo dục đại học đào tạo
hai trình độ: cao đẳng và đại học. Như vậy sinh viên cao đẳng là người học ở cơ
sở giáo dục đại học theo trình độ đào tạo cao đẳng, thi tốt nghiệp( có bằng tốt
nghiệp cao đẳng) được gọi là cử nhân cao đẳng. Sinh viên là những người đến
trường để học một cái gì đó và không bao giờ ngại bỏ công sức để theo đuổi tri
thức.Một sinh viên hiện đại là ngoài chuyên môn của mình, phải học để biết cả


10
các chuyên ngành khác, bất kỳ một chuyên ngành nào mà mình thích là học. Một
sinh viên phải biết định hướng trong học tập để đáp ứng với yêu cầu của xã
hội.Một sinh viên đã đang và sẽ luôn là người học hỏi về cuộc sống, hành vi ứng
xử, nhu cầu, hy vọng, thành công hay thất bại của con người từ bắt đầu của lịch
sử đến thời điểm hiện tại như một câu nói: “ Hãy nghĩ về nguồn gốc của bạn, bạn
không được tạo ra để sống chỉ như một động vật, mà là để theo đuổi những phẩm
chất và kiến thức”.Đó cũng là vận mệnh của con người: học và học mãi, cố

không lặp lại sai lầm và để trở thành những người xây dựng một thế giới mới-
trong đó mọi người đều sống trong hoà bình và hạnh phúc.
1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên sinh viên cao đẳng
Ở lứa tuổi này sinh viên có rất nhiều sự thay đổi về tâm lý, đặc biệt là sự
phát triển trí tuệ và khả năng tư duy.Các nhà tâm lý đã cho rằng hoạt động tư duy
của thanh niên rất tích cực và có tính độc lập tư duy lý luận phát triển mạnh, có
khả năng và ưa thích khái quát các vấn đề.Sự phát triển mạnh của tư duy lý luận
liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo, có thể tự mình phát hiện ra cáí mới.Đối
với sinh viên lứa tuổi này, điêù quan trọng với họ là cách thức giải quyết vấn đề
chứ không phải là loại vấn đề nào được giải quyết.Họ có xu hướng đánh giá cao
các bạn thông minh và các thầy cô giáo có phương pháp giảng dạy tích cực.
Các em cảm nhận được sự rung động của bản thân và hiểu rằng đó là trạng thái “
cái tôi” của mình. Họ còn cảm nhận được” tính chất người lớn của bản thân”cùng
với quá trình phát triển sinh lý dần dần hình thành những nhu cầu động cơ,định
hướng giá trị, các quan hệ và hành vi của mỗi người.
Những thay đổi trong vị thế xã hội, trình độ phát triển của tư duy lý luận và
hơn nữa một khối lượng trị thức lớn mang tính phương pháp luận về các quy luật
của tự nhiên, xã hội mà thanh niên tiếp thu được trong nhà trường đã giúp họ thấy
được các mối liên hệ giữa các trí thức khác nhau, giữa các thành phần của thế
giới. Nhờ đó thanh niên bắt đầu biết liên kết các tri thức riêng lẻ lại với nhau để
tạo nên một biểu tượng chung về thế giới cho riêng mình. Đối với thanh niên biểu
tượng chung về thế giới có một ý nghĩa nhân cách rất rộng , nó gắn liền với nhu
cầu tìm kiếm một chỗ đứng cho riêng mình trong xã hội, tìm kiếm một hướng đi,


11
một nghề nghiệp, một dự định cho cuộc sống của họ. Như vậy thế giới quan tức
quan điểm về thế giới nói chung, về cơ sở của sự tồn tại về mối liên hệ giữa con
người với tự nhiên, về những định hướng giá trị cơ bản được hình thành.
Để chuẩn bị bước vào đời, thanh niên thường trăn trở với các câu hỏi về ý nghĩa

và mục đích cuộc sống, về cách xây dựng một kế hoạch sống có hiệu quả, về việc
lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp và có ý nghĩa Để giải đáp các câu hỏi này,
khả năng nhận thức, đánh giá cũng như khả năng thực tiễn của mỗi cá nhân rất
khác nhau, thể hiện đặc biệt rõ khoảng cách giữa sự phát triển tự phát và sự. phát
triển có hướng dẫn của giáo dục với nghĩa rộng của khái niệm này. Ở nước ta
hiện nay khi mà các giá trị xã hội có nhiều biến động, không ít thanh niên chưa
xác định được ý nghĩa của cuộc sống, không có định hướng nghề nghiệp rõ nét và
do đó cũng không thể lập được cho bản thân một kế hoạch sống cụ thề. Hiện
tượng này tồn tại không phải đơn thuần do trình độ phát triển tâm lý ở lứa tuổi
thành niên chưa chín muồi, mà quan trọng hơn là do những khiếm khuyết trong
giáo dục ở nhà trường, gia đình và trong xã hội (thông qua các ấn phẩm sách báo,
văn hóa, nghệ thuật ).Sự hướng dẫn, giảng giải, giúp đỡ bằng các biện pháp cụ
thể, phù hợp của các thế hệ đi trước sự giúp thanh niên đạt đến "miền phát triển
gần" mà L.X. Vưgốtxki đã phát hiện ra.
1.2.3. Khái niệm về tự học
Tự học là nội lực của người học, là nhân tố quyết định sự phát triển bản thân
người học: có tự học mới phát triển được tư duy độc lập, từ chỗ có tư duy độc lập
mới có tư duy phê phán, có khả năng phát hiện vấn đề và nhờ đó mới có tư duy
sáng tạo.Nói cách khác, tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các khả
năng trí tuệ( quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp( khi sử
dụng công cụ thực hành) cùng các phẩm chất cá nhân như động cơ, tình cảm,
nhân sinh quan( trung thực khách quan, không ngại khó, kiên trì nhẫn nại, lòng
say mê khoa học, ý chí muốn thành đạt, biến khó khăn thành thuận lợi,….) để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở
hữu của riêng mình.


12
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí
óc để chiếm lĩnh kiến thức, một hình thức không thể thiếu được của sinh viên

đang học tập tại các trường cao đẳng đại học.
Dựa vào mức độ tự học ta có thể phân chia thành 3 mức độ như sau:
Tự học ở mức độ cao: là người học tự làm, tự rút kinh nghiệm, tự hoàn thiện
về kiến thức cũng như nghề nghiệp.
Tự học có hướng dẫn là người học có sự hướng dẫn của thầy nhưng chủ yếu là
hướng dẫn tư duy trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức cũng như nghề nghiệp.
Tự học giáp mặt là người học được thầy hướng dẫn trực tiếp, ở trên lớp tích
cực chủ động tiếp thu và ngoài gìơ lên lớp tự học để nắm chắc kiến thức, liên hệ
với thực tế khách quan có hướng dẫn của người thầy.
Tự học cũng chính là tự đào tạo, sự thống nhất là ở chỗ: đó là quá trình cá
nhân hoá việc tiếp thu các tri thức và tuân theo luận điểm quan trọng về phương
pháp dạy- tự học.
Ý nghĩa của tự học là “ cốt” của việc học, hễ có học là có tự học, không ai có
thể học hộ người khác. Khi nói đến học là hàm ý nói đến mối quan hệ giữa nội
lực của người học và ngoại lực tức là của người dạy. John Lubbock đã nói: “Cái
gì ta tự học được mới thực là của ta hơn những cái người ta dạy ta”.Vai trò của tự
học không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học, mà nó còn có ý nghĩa to lớn
đối với vấn đề nâng cao chất lượng của dạy học và đào tạo. Chất lượng giáo dục
và đào tạo cao nhất là sự cộng hưởng ngoại lực dạy với nội lực tự học, tự đào
tạo. Quá trình tự học là quá trình cá nhân hoá việc học kết hợp, hợp tác với bạn,
với thầy tức là quá trình xã hội hoá việc học tập tạo ra chất lượng và hiệu quả
cao, đạt mục tiêu đào tạo.
Tự học, tự đào tạo chính là cái gốc của sự phát triển bền vững của mỗi cá
nhân, tạo tiềm năng cho con người phát triển toàn diện, góp phần hoàn thiện nhân
cách, sức lao động. “ Nên tài, nên đức, nhờ tự học”- Lời tổng kết từ ngàn xa cha
ông ta truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác như là một di sản quý báu của dân
tộc.


13

Như vậy tự học có nghĩa là tự giác, chủ động chiếm lĩnh tri thức với niềm say
mê, hứng thú đặc biệt.Đối với học sinh sinh viên tự học để rèn luyện tư duy độc
lập, nâng cao khả năng phát hiện tìm tòi, khả năng khám phá thế giới xung
quanh.Thực tế đã chứng minh rằng hầu hết những nhà khoa học lớn, những danh
nhân văn hoá tầm cỡ thế giới đều trưởng thành từ con đường tự học.Bác Hồ của
chúng ta cũng là một tấm guơng sáng về tinh thần tự học suốt đời.
1.2.4. Các hình thức tự học của sinh viên cao đẳng
Hoạt động tự học diễn ra nhiều hình thức khác nhau:
Hình thức thứ nhất: Hình thức học với sự điều khiển trực tiếp của giáo
viên.
Tự học diễn ra dưới sự điều khiển, chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp của thầy
và các phương tiện kỹ thuật trên lớp, ở đây người học là chủ thể nhận thức tích
cực. Họ phải phát huy những năng lực và các phẩm chất cá nhân như óc phân
tích, tổng hợp, khái quát và khả năng tập trung, chú ý để tiếp thu tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo mà người dạy truyền đạt cho. Hình thức này bao gồm : Xemina,
thảo luận theo nhóm.
Hình thức thứ hai: Hình thức học với sự điều khiển gián tiếp của giáo viên
Tự học diễn ra khi không có sự điều khiển trực tiếp của thầy, hình thức này
người học phải tự sắp xếp thời gian, kế hoạch và điều kiện cơ sở vật chất, năng
lực bản thân để tự học, củng cố, đào sâu tri thức hoặc tự hình thành kỹ năng, kỹ
xảo về một lĩnh vực nào đó theo yêu cầu của chương trình đào tạo của nhà
trường. Hình thức này gồm: đọc sách, đọc bài giảng, nghiên cứu giáo trình, tài
liệu tại ký túc xá, tại nhà; làm bài tập, chuẩn bị bài cho thảo luận, xemina.
Hình thức thứ ba: Người học tự tìm kiếm tri thức để thoả mãn nhu cầu
nâng cao hiểu biết của riêng mình, bổ xung, mở rộng tri thức ngoài chương trình
đào tạo của nhà trường. Đây là hình thức tự học ở mức độ cao. Hình thức này
gồm: Đọc sách tại thư viện, làm đề tài nghiên cứu khoa học.
Như vậy, tự học có thể tóm tắt lại như sau: Trò học, cốt lõi là tự học, học
cách học, cách tư duy. Năng lực tự học là nội lực phát triển bản thân người học.
Thầy dạy, cốt lõi là dạy cách học, cách tư duy. Tác động dạy của thầy là ngoại



14
lực đối với sự phát triển của người học. Theo quy luật phát triển của sự vật, ngoại
lực dù là quan trọng đến đâu, lợi hại đến mấy cũng chỉ là nhân tố giúp đỡ, thúc
đẩy, tạo điều kiện; nội lực mới là nhân tố quyết định sự phát triển bản thân sự vật.
Tác động dạy của thầy dù là quan trọng đến mức “không thầy đố mày làm nên”
vẫn là ngoại lực hướng dẫn, trợ giúp, tạo điều kiện cho trò tự học, tự phát triển và
trưởng thành trò là chủ thể, tự mình xử lý thông tin bên ngoài thành tri thức bên
trong con người mình bằng cách học, cách tư duy của chính mình. Thầy là tác
nhân hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn cho trò biết cách tự học chữ, tự học nghề, tự
học nên người . [29]
Hoạt động tự học có thể tiến hành ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người, bằng mọi
cách và mọi nội dung. Nói như tác giả Nguyễn Cảnh Toàn là thực hiện “năm
mọi” trong học tập. Trong đề tài này, do mục đích và phạm vi nghiên cứu,
chúng tôi chỉ đề cập đến hoạt động tự học của người học dưới sự điều khiển
trực tiếp hoặc gián tiếp của người dạy.
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tự học của sinh viên
a. Yếu tố nhận thức: Nhiều người quan niệm rằng “ tự học” là học mà không
có thầy bên cạnh. Nếu hiểu như vậy thì khi có thầy bên cạnh sẽ không có “ tự
học”chăng? Không phải như thế. Học trứơc hết là việc của người học.Muốn mình
giỏi lên thì mình phải lo mà học, không ai học hộ, học thay được.Đã là “học” thì
bao giờ cũng lấy “tự học” làm cốt như lời Bác Hồ dạy., dù có thầy bên cạnh hay
không.Ở trên lớp, cùng một ông thầy giảng nhưng người học trò nào tập trung tư
tưởng lắng nghe thì kết quả học sẽ tốt hơn người học trò phân tán tư tưởng, lời
thầy nói vào tai này lại ra tai kia.Nghĩa là sự “tự học”, tức là sự nỗ lực phát huy
từ nội lực để học ở người thứ nhất hơn sự tự học ở người thứ hai.
Có người lại nghĩ rằng tự học thì sẽ có kiến thức không hệ thống.Đã gọi là “
học” thì nội dung học phải có hệ thống. Các chương trình học ngày nay được kế
thừa và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của người học. Cho nên tập

“hệ thống hoá” cũng là một nội dung của “cách học”Tuy nhiên ở nhà trường
chúng ta, việc “hệ thống hoá” lại chủ yếu do thầy làm, còn học trò chỉ tiếp nhận
một cách thụ động.


15
b.Yếu tố quản lý:
Các trường học chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên việc “tự
học”.Các kì thi của chúng ta chưa thử thách khả năng “tự học”.Ta có chính sách
khen thưởng người học giỏi nhưng chưa có chính sách khen thưởng những người
tự học giỏi mà trái lại còn phân biệt đối xử với những người có bằng không chính
qui.
Trong nhà trường, hoạt động “ tự học” của sinh viên bị ảnh hưởng cụ thể bởi
các yếu tố: cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh sinh viên, cơ sở vật chất, chương
trình các môn học……
c.Một số yếu tố khác
* Hoạt động Dạy: Đây là một hoạt động nhằm tác động đến người học và quá
trình học tập của họ để hình thành và phát triển hoạt động học tập của họ. Hoạt
động dạy phải nhằm đạt tới các mục đích: làm cho người học muốn học, biết học,
học cách bền bỉ thường xuyên liên tục, học cách thành công và lành mạnh.
Do vậy nếu như người dạy có kiến thức chuyên môn giỏi, phương pháp giảng
dạy tốt, biết cách khơi dậy và phát huy tính sáng tạo và tự học trong sinh viên thì
kết quả học tập của người học sẽ tốt và ngược lại.
* Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho học tập.
Hoạt động học tập cũng đòi hỏi nhà trường phải trang bị đầy đủ các loại tài
liệu, giáo trình để sinh viên có thể tự nghiên cứu hoặc nghiên cứư với sự hướng
dẫn của giáo viên, đồng thời cũng cần phải có các phòng học tiện nghi, đủ điều
kiện để sinh viên có thể học tập tốt.
1.3. Một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý, quản lý hoạt động tự học
1.3.1. Khái niệm, chức năng quản lý

1.3.1.1 Khái niệm quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi
rộng lớn hơn, đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó.C.Mác đã viết
một điều rất cơ bản: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn
một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng ‟‟[3,tr.480]


16
Ngày nay thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một định
nghĩa thống nhất. Khái niệm quản lý có nội dung rất chung, tổng quát, nó dùng
cho cả quá trình xã hội, quá trình sinh vật cũng như quá trình kỹ thuật.
Mỗi một định nghĩa thường dùng đối với một lĩnh vực quản lý cụ thể và tuỳ
theo cách tiếp cận khác nhau.
Theo cách tiếp cận trên phương diện hoạt động của tổ chức thì: “Quản lý là
tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm thực hiện các mục
tiêu dự kiến”[18, tr.26]
Hoặc “ Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý( người quản lý) đến khách thể quản lý( người bị quản lý) trong một tổ
chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”[7]
Với cách tiếp cận tình huống thì: “Quản lý là thiết kế và duy trì một môi
trường trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành
các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”[9,tr.29]
Xét về bản chất , các định nghĩa trên về quản lý bao gồm các những điều chủ
yếu sau đây: Quản lý là một loại hình hoạt động có đối tượng, là một dạng hoạt
động có chủ hệ thống, nhằm đạt được những mục đích nhất định.Quản lý là thuộc
tính tồn tại khách quan trong hoạt động con người.
Quản lý luôn đặt trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý, trong sự tác động của môi trường.Cho nên “Quản lý phải đặt
trong điều kiện có sự thay đổi, bắt nguồn từ những biến động, mà cuộc sống thì

không bao giờ đứng yên”[10]
Ngày nay hoạt động quản lý thường được định nghĩa cụ thể hơn: “Quản lý là
quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động( chức
năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra”[7]
1.3.1.2 Các chức năng quản lý
Khi bàn về hoạt động quản lý và người quản lý, chúng ta cần tìm hiểu
người quản lý phải làm những gì, hay nói cách khác là tìm hiểu các chức năng
quản lý. Để đạt được mục tiêu của tổ chức, người quản lý phải biết cách vận dụng
các chức năng quản lý.


17
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia các chức năng quản lý:
Tác giả Henri Fayol: xuất phát từ các loại hình “hoạt động quản lý” ông là
người đầu tiên phân biệt chúng thành 5 chức năng cơ bản gồm: Kế hoạch hoá,
Tổ chức, Chỉ huy, Phối hợp và Kiểm tra.
Viện sĩ V.G Afanaxiep của Liên Xô, một nhà lý luận quản lý xã hội, nêu 5
chức năng cơ bản là: Xử lý và thông qua quyết định, tổ chức, điều chỉnh, sửa
chữa, kiểm kê và kiểm tra.
Tác giả Hà Sĩ Hồ đề xuất các chức năng sau: Soạn thảo và ra quyết định, tổ
chức thực hiện quyết định, kiểm tra việc thực hiện quyết định và tổng kết.
Các chức năng cơ bản của quản lý là sự nhóm gộp các hoạt động quản lý
trong mỗi công đoạn của quá trình đạt đến mục tiêu.
Với những quan điểm và thể hiện dưới dạng khác nhau về phân chia các chức
năng quản lý, song hoạt động quản lý có thể phân chia theo 4 chức năng cơ bản
sau:
Kế hoạch hoá( Planning); Tổ chức( Organizing); Chỉ đạo( Leading); Kiểm tra(
Controlling). Bốn chức năng cơ bản này liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành
một chu trình quản lý. Chúng đều cần đến thông tin.
Chức năng kế hoạch hoá bao gồm: Xác định mục tiêu, mục đích của tổ chức và

con đường, biện pháp hay cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích của tổ
chức.Đây là chức năng giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động quản lý.
Có hai tiêu chuẩn song hành cùng với hai công việc quan trọng của kế
hoạch hoá: Xác định mục tiêu “ đúng” và lựa chọn những biện pháp “đúng” để
đạt được mục tiêu.Cả hai công việc đó đều có ý nghĩa sống còn đối với quá trình
quản lý.
Các nhà lý thuyết gia về quản lý cho rằng: Kế hoạch hoá là cái khởi
nguyên của mọi hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Người ta ví kế hoạch
hoá như một chiếc đầu tầu kéo theo các toa “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra”; hoặc
ví quản lý như một thân cây, trên đó các chức năng “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm
tra” đâm cành – sinh nhánh.


18
Chức năng tổ chức là sự hình thành nên cấu trúc các mối quan hệ giữa các
thành viên, giữa các bộ phận với nhau nhằm thực hiện thành công kế hoạch, đạt
được mục tiêu, mục đích của tổ chức. Đây là chức năng quan trọng quyết định sự
thành bại trong việc đạt được mục tiêu của tổ chức.
Tác giả Emest Dale mô tả chức năng tổ chức như một quá trình gồm 5 bước:
Lập danh sách các công việc cần phải hoàn thành để đạt được mục tiêu
của tổ chức.
Phân chia toàn bộ công việc thành những nhiệm vụ để các thành viên hay
các bộ phận (nhóm) trong tổ chức thực hiện một cách thuận lợi và hợp logic.
Đây gọi là bước phân công lao động.
Kết hợp các nhiệm vụ một cách logic và hiệu quả. Đây là bước phân chia
bộ phận.
Thiết lập một cơ chế điều phối. Sự liên kết hoạt động của các cá nhân, các
nhóm, các bộ phận một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện để đạt được các mục tiêu
của tổ chức một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.
Theo dõi đánh giá tính hiệu nghiệm của cấu trúc tổ chức và tiến hành

những điều chỉnh cần thiết.
Chức năng chỉ đạo là những việc hướng dẫn làm sao cho các thành viên,
các bộ phận hoạt động đồng bộ; động viên, cổ vũ họ hoàn thành kế hoạch.Đây là
chức năng quan trọng vì nó phát huy được chức năng kế hoạch hoá và chức năng
tổ chức.
Chỉ đạo tập trung vào các ưu tiên sau:
Nhận thức lãnh hội quan điểm, xây dựng tầm nhìn, lý tưởng, sứ mệnh của
hệ thống.
Làm sáng tỏ được thực trạng vận động của hệ thống (gồm phân tích các
mâu thuẫn quá trình phát triển), phát hiện ra nhân tố mới.
Tổng kết được quy luật, tính quy luật xu thế phát triển của hệ thống.
Đề xuất các phương án chiến lược phát triển hệ thống.



19
Chức năng kiểm tra là việc đánh giá hoạt động và tiến hành những hoạt
động uốn nắn, sửa chữa đi đến hoàn thành kế hoạch, đạt được mục tiêu, thích ứng
với môi trường, đảm bảo tính khả thi và tính thực tiễn của kế hoạch, tiến tới hoàn
thành mục tiêu, mục đích của tổ chức trong môi trường biến đổi.
Kiểm tra- trong hoạt động quản lý- là một nỗ lực có hệ thống nhằm xác
định những chuẩn mực( tiêu chuẩn) của thành tựu khi đối chiếu với các mục tiêu
đã được kế hoạch hoá; thiết kế một hệ thống thông tin phản hồi; so sánh thành
tựu hiện thực với các chuẩn mực đẫ định; xác định những lệch lạc nếu có và đo
lường ý nghĩa/ mức độ của chúng; tiến hành những hành động cần thiết để đảm
bảo rằng những nguồn lực của tổ chức được sử dụng một cách hiệu nghiệm và
hiệu quả để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Tác giả Rorbert J. Mockler chia kiểm tra thành bốn bước:
Xác định tiêu chuẩn (chuẩn mực) và phương pháp đo lường thành tựu, các
tiêu chuẩn thành tựu phải đủ tường minh để các thành viên liên quan lĩnh hội

được một cách dễ dàng, thống nhất; Phương pháp đo lường chuẩn mực phải đảm
bảo so sánh chính xác và công bằng giữa thành tựu với chuẩn mực đặt ra.
Đo lường thành tựu là một quá trình lặp đi lặp lại và diễn biến liên tục, với
tần xuất thực hiện phụ thuộc vào các dạng hoạt động và cấp độ quản lý khác
nhau.
Xác định mức độ đáp ứng / phù hợp của thành tựu so với tiêu chuẩn/ chuẩn
mực.
Tiến hành những hoạt động uốn nắn, sửa chữa: Khi phát hiện những sai
lệch của thành tựu so với chuẩn mực/ tiêu chuẩn đề ra, các nhà quản lý có thể
điều chỉnh các sai lệch bằng cách thay đổi các hoạt động của từng cá nhân các
thành viên hay các nhiệm vụ - hoạt động của một bộ phận nào đó trong tổ chức,
hoặc là sửa đổi các chuẩn mực của thành tựu nếu thấy chúng không thể thực hiện
được.
Tóm lại, bốn chức năng cơ bản của quản lý có quan hệ mật thiết hữu cơ với
nhau, biện chứng với nhau, cả bốn chức năng trên đều được triển khai khi tiến


20
hành các hoạt động quản lý. Bất cứ người quản lý nào khi thực hiện các hoạt
động quản lý đều phải làm công việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.3.2.Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.3.2.1. Quản lý giáo dục
a) Khái niệm:
Theo tác giả Trần Kiểm “ Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống
có kế hoạch, có ý thức và có hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các mắt xích của hệ thống( từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo
việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những
qui luật chung của xã hội cũng như các qui luật của quá trình giáo dục, của sự
phát triển thể lực và tâm lý trẻ em”[28]
Quản lý giáo dục chính là quản lý quá trình hình thành- tự hình thành nhân

cách người học sinh trong hoạt động và bằng hoạt động; bằng sự cộng tác, hợp
tác liên nhân cách giữa các thành viên trong nhà trường với nhau và với xã hội.
Các nguyên tắc cơ bản của quản lý giáo dục là những yêu cầu, những qui
định chung nhất, cơ bản, phổ biến nhất chi phối hoạt động của hệ thống quản lý
giáo dục, nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu quản lý. Các nguyên tắc đó là:
Quán triệt đường lối chính trị trong quản lý giáo dục
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục.
Thực hiện nguyên tắc khoa học trong quản lý giáo dục.
Thực hiện nguyên tắc tính hiệu quả trong quản lý giáo dục.
Các nguyên tắc này là cơ sở của việc hình thành các phương pháp quản lý,
chúng qui định cách thức tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý,
nhằm đảm bảo tính hiệu quả và chất lượng quản lý.Các nguyên tắc này liên hệ
chặt chẽ với nhau, bổ xung lẫn nhau.
Hệ thống Giáo dục là một hệ thống xã hội.QLGD cũng chịu sự chi phối
các qui luật xã hội và tác động của quản lý xã hội.QLGD có những đặc trưng chủ
yếu sau đây:


21
Sản phẩm giáo dục là nhân cách, là sản phẩm có tính đặc thù nên QLGD
phải ngăn ngừa sự dập khuôn, máy móc trong việc tạo ra sản phẩm cũng như
không được phép tạo ra phế phẩm.
QLGD nói chung, quản lý nhà trường nói riêng phải chú ý đến sự khác biệt
giữa đặc thù lao động sư phạm so với lao động xã hội nói chung.
Trong QLGD, các hoạt động hành chính nhà nước và quản lý sự nghiệp
chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau không thể tách rời. Tạo thành
quản lý thống nhất.
QLGD đòi hỏi những yêu cầu cao về tính toàn diện, tính thống nhất, tính
liên tục, tính kế thừa, tính phát triển…
Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, QLGD phải quán triệt quan điểm

quần chúng.
Dựa vào phạm vi quản lý, người ta chia ra hai loại quản lý, đó là:
- Quản lý hệ thống giáo dục: QLGD được diễn ra ở tầm vĩ mô, phạm vi toàn
quốc, trên địa bàn lãnh thổ địa phương( tỉnh , thành phố)
- Quản lý nhà trường: QLGD ở tầm vi mô, trong phạm vi một đơn vị, một cơ
sở giáo dục
Có thể thấy rằng, nhà trường hay trường học là khách thể quản lý cơ bản
của tất cả các cấp QLGD trong hệ thống quản lý giáo dục quốc dân, đồng thời
trường học là một hệ thống độc lập tự quản của xã hội. Lý do tồn tại của các cấp
QLGD trước hết và trên hết là vì chất lượng và hiệu quả hoạt động của nhà
trường, mà trung tâm ở đó là hoạt động đào tạo hay Giáo dục( nghĩa rộng)
Tại chương VII, điều 87 của Luật Giáo dục đã qui định đối với quản lý nhà
nước về giáo dục như sau:
Ở Trung ương: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Giáo dục, Bộ
Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về Giáo dục.Các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ có
trách nhiệm trong việc phối hợp với các Bộ Giáo dục và Đào tạo để thực hiện
việc thống nhất quản lý nhà nước về Giáo dục theo qui định của Chính phủ.


22
Ở địa phương: Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước
về Giáo dục ở địa phương. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, thành phố và Phòng
Giáo dục quận, huyện là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố, quận, huyện, quản lý nhà nước về Giáo dục.
b) Đối tượng quản lý giáo dục
Đối tượng QLGD là sự hoạt động của giáo viên, học sinh và các tổ chức sư
phạm của nhà trường trong việc thực hiện các kế hoạch và chương trình Giáo dục
nhằm đạt mục tiêu Giáo dục đã qui định với chất lượng cao.
Đối với nhà trường, đối tựơng của quản lý giáo dục là quá trình giáo dục ở

nhà trường. QLGD được hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình dạy học, là bộ phận cấu
thành chủ yếu nhất trong toàn bộ hoạt động của một nhà trường.Do đó, QLGD là
bộ phận chủ yếu nhất trong toàn bộ công tác quản lý nhà trường.QLGD là do nhà
trường tổ chức, quản lý, chỉ đạo nhưng nó quan hệ tương tác, liên thông với các
tổ chức GD&ĐT khác hoặc các tổ chức, cơ quan khoa học, kĩ thuật, công nghệ,
văn hoá nghệ thuật, thể dục, thể thao mà học sinh có điều kiện tham gia hoạt
động.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cánh
mạng KHKT và công nghệ ngày nay, thì các mỗi quan hệ đó là điều kiện thuận
lợi cho việc quản lý quá trình Giáo dục cũng như để nâng cao chất lượng và hiệu
quả Giáo dục của nhà trường.Vì vậy, đối tượng của QLGD có thể coi là một hệ
thống xã hội, bao gồm 4 thành tố:
- Tư tưởng( quan điểm, chủ trương, chính sách, chế độ, nội dung, phương
pháp, tổ chức dạy học- Giáo dục….)
- Con người ( cán bộ, giáo viên, học sinh sinh viên….)
- Hoạt động dạy, học.
- Vật chất ( quản lý nhà trường, phòng học, phòng thí nghiệm, máy móc,
trang thiết bị, nguyên vật liệu…)
Như vậy khi nói đến quản lý con người, quản lý quá trình hoạt động dạy,
học hay quản lý vật chất là quản lý nội dung của hoạt động tương tác với từng
nhiệm vụ quản lý ở các đối tượng quản lý.


23
c) Chức năng , nhiệm vụ của quản lý giáo dục.
+/ Chức năng của QLGD: QLGD cũng có những chức năng cơ bản của quản lý
nói chung, theo sự thống nhất của đa số các tác giả có 4 chức năng: lập kế hoạch,
tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
* Lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu của hệ thống các hoạt động

và điều kiện đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đó. Kế hoạch là nền tảng của
quản lý. Xác định chức năng, nhiệm vụ và các công việc của đơn vị. Dự báo,
đánh giá triển vọng, đề ra mục tiêu, chương trình, lập kế hoạch chương trình,
nghiên cứu xác định tiến độ, xác định ngân sách, xây dựng các nguyên tắc tiêu
chuẩn, xây dựng các thể thức thực hiện.
* Tổ chức:
Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và quyền
lực cho các thành viên của tổ chức để họ có thể hoạt động và đạt được các mục
tiêu của tổ chức một cách hiệu quả. Xây dựng các cơ cấu, nhóm( cơ cấu, cấu
trúc), tạo sự hợp tác liên kết( xây dựng mô hình), xây dựng các yêu cầu, lựa chọn,
sắp xếp, bồi dưỡng cho phù hợp, phân công nhóm và cá nhân.
* Chỉ đạo, lãnh đạo, điều khiển:
Là quá trình tác động đến các thành viên của tổ chức, làm cho họ nhiệt
tình, tự giác, nỗ lực phấn đấu đạt được các mục tiêu của tổ chức, kích thích, động
viên, thông tin hai chiều đảm bảo sự hợp tác trong thực tế.
* Kiểm tra:
Kiểm tra là hoạt động của chủ thể quản lý nhằm đánh giá và xử lý những
kết quả của quá trình vận hành tổ chức. Xây dựng định mức và tiêu chuẩn, các
chỉ số công việc, phương pháp đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh.
Các chức năng này gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen lẫn nhau, khi thực
hiện các chức này thường có mặt các chức năng khác ở các mức độ khác nhau.
Trong mọi hoạt động QLGD, thông tin QLGD đóng vai trò vô cùng quan
trọng, nó được coi như là “mạch máu” của hoạt động QLGD. Nếu thiếu hoặc sai


24
lệch thông tin thì công tác quản lý gặp nhiều khó khăn, tạo nên những quyết định
sai lầm, không chính xác, công tác quản lý kém hiệu quả hoặc thất bại.
Quá trình quản lý là một thể thống nhất trọn vẹn.Sự phân chia thành các
giai đoạn chỉ có tính chất tương đối giúp cho người quản lý định hướng thao tác

trong hoạt động của mình.Trong thực tế, các giai đoạn diễn ra không tách bạch rõ
ràng.Thậm chí có chức năng diễn ra cả ở một số giai đoạn khác nhau trong quá
trình đó.
+/ Nhiệm vụ của Quản lý Giáo dục:
Chúng ta biết rằng, hệ thống Giáo dục luôn luôn vận động phát triển theo
qui luật chung của sự phát triển KT-XH và chịu sự qui định của KT-XH.Do đó
QLGD cũng phải luôn đổi mới đảm bảo sự thích ứng của Giáo dục đối với sự
vận động và phát triển chung của xã hội. Nếu hệ thống Giáo dục được tổ chức,
quản lý hợp lý, vận hành đúng, tính năng động của Giáo dục sẽ ngày càng tác
động trở lại một cách tích cực với sự phát triển chung và sẽ đóng vai trò là động
lực giúp nền KT-XH phát triển mạnh mẽ, nhất là trong thời đại tri thức ngày nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ngày nay công tác Giáo dục cũng
đã được định hướng rõ ràng, có nhiều chủ trương chính sách và biện pháp tốt,
giúp công tác quản lý có nhiều thuận lợi.Và trong “ Chiến lược phát triển Giáo
dục 2001- 2010”, chúng ta phải tập trung vào các nhiệm vụ sau:
“ Tạo bước chuyên biến cơ bản về chất lượng Giáo dục theo hướng tiếp
cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn của Việt nam, phục
vụ thiết thực cho sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước, của từng vùng, tùng
địa phương; hướng tới một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền Giáo dục nước ta
thoạt khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong
khu vực”
- Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng trong
nhân lực khoa học- công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và
công nhân kĩ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh
của nền kinh tế, đẩy nhanh tiến độ thực hiện phổ cập THCS.

×