ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
NGUYỄN TIẾN QUANG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THANH TRA TOÀN DIỆN
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã Số : 60 14 05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN KHÁNH ĐỨC
Hà Nội - 2006
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu và mẫu khảo sát
3
4. Giả thuyết khoa học
4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
6. Phạm vi nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc nội dung luận văn
5
Chƣơng 1. CƠ SỞ KHOA HỌC-PHÁP LÝ VỀ
THANH TRA, KIỂM TRA TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC
6
1.1. Cơ sở lý luận
6
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục
6
1.1.1.1. Quản lý
6
1.1.1.2. Quản lý giáo dục
9
1.1.1.3. Quản lý trường học
11
1.1.2. Một số khái niệm cơ bản về thanh tra giáo dục
12
1.1.2.1. Thanh tra
12
1.1.2.2. Thanh tra giáo dục
14
1.1.2.3. Thanh tra chuyên môn
15
1.1.2.4. Thanh tra toàn diện trường phổ thông
15
1.1.3. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về giáo dục
15
1.1.3.1. Khái niệm về quản lý nhà nước
15
1.1.3.2. Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục
16
1.1.3.3. Nội dung chủ yếu quản lý nhà nước về giáo dục
19
1.1.3.4. Phương pháp, công cụ quản lý nhà nước về giáo dục
20
1.1.3.5. Thanh tra, kiểm tra trong quản lý giáo dục
22
1.2. Cơ sở pháp lý
25
1.2.1. Luật Thanh tra (2004)
25
1.2.2. Nghị định 49/2005/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục
25
1.2.3. Nghị định 85/2006/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra
giáo dục
26
1.2.4. Quyết định 478/QĐ của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy
chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống thanh tra giáo dục
26
1.2.5. Thông tư 07/2004/TT-BGD&ĐT hướng dẫn thanh tra toàn diện
trường phổ thông và thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên
26
1.2.6. Văn bản 106/TTr của Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng
dẫn về nghiệp vụ thanh tra toàn diện trường phổ thông và thanh tra hoạt
động sư phạm của giáo viên phổ thông
26
1.3. Cơ sở thực tiễn
27
1.3.1. Dự án đào tạo cán bộ thanh tra và quản lý giáo dục Việt Nam
(FICEV) – Những vấn đề cần đặt ra sau Dự án
27
1.3.2. Hoạt động thanh tra, kiểm tra trước yêu cầu đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông và thay sách giáo khoa lớp 10
28
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA VÀ QUẢN LÝ
CÔNG TÁC THANH TRA TOÀN DIỆN TRƢỜNG THPT TỈNH BẮC GIANG
30
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình phát triển kinh tế-xã hội
và phát triển giáo dục-đào tạo của tỉnh Bắc Giang
30
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế-xã hội
30
2.1.2. Tình hình phát triển giáo dục-đào tạo
30
2.1.2.1. Tình hình chung về phát triển giáo dục
30
2.1.2.2. Thực trạng hoạt động và quản lý giáo dục ở các trường THPT
32
2.2. Thực trạng hoạt động thanh tra và quản lý công tác thanh tra toàn
diện trường THPT ở tỉnh Bắc Giang
36
2.2.1. Thực trạng hoạt động thanh tra toàn diện trường THPT ở tỉnh Bắc
Giang
36
2.2.1.1. Thực trạng tổ chức bộ máy, nhân sự thanh tra trường THPT
36
2.2.1.2. Thực trạng quy trình tổ chức hoạt động thanh tra
37
2.2.1.3. Thực trạng đánh giá xếp loại trường THPT qua thanh tra
39
2.2.2. Thực trạng quản lý công tác thanh tra toàn diện trường THPT
41
2.2.2.1. Thực trạng xây dựng tổ chức, bộ máy thanh tra
41
2.2.2.2. Thực trạng việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra
44
2.2.2.3. Thực trạng việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế
hoạch thanh tra
44
2.2.2.4. Thực trạng công tác sau thanh tra
46
2.3. Đánh giá chung
46
2.3.1. Điểm mạnh
46
2.3.2. Điểm yếu
47
2.3.3. Thời cơ
47
2.3.4. Thách thức
48
Chƣơng 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
THANH TRA TOÀN DIỆN TRƢỜNG THPT Ở TỈNH BẮC GIANG
49
3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp
49
3.2. Yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra giáo dục
trong giai đoạn mới
49
3.3. Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh
tra toàn diện trường THPT ở tỉnh Bắc Giang
50
3.3.1. Biện pháp 1: Đổi mới tư duy thanh tra giáo dục, nâng cao nhận
51
thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người cán bộ thanh tra
3.3.1.1. Mục đích
51
3.3.1.2. Nội dung và cách thức tiến hành
51
3.3.2. Biện pháp 2: Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng, khuyến
khích tự bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất của người cán bộ
thanh tra về hiểu biết pháp luật, kỹ năng quản lý, nhất là kỹ năng “trao
đổi” trong thanh tra
52
3.3.2.1. Mục đích
52
3.3.2.2. Nội dung và cách thức tiến hành
53
3.3.3. Biện pháp 3: Nâng cao chất lượng công tác thống kê, thông tin
quản lý giáo dục từ Sở đến các nhà trường trong việc thu thập và cung
cấp thông tin phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá các hoạt
động giáo dục
54
3.3.3.1. Mục đích
54
3.3.3.2. Nội dung và cách thức tiến hành
55
3.3.4. Biện pháp 4: Hoàn thiện quy chế, quy trình, hồ sơ thanh tra toàn
diện trường THPT theo hướng phân định rõ trách nhiệm, bảo đảm chặt
chẽ, dễ sử dụng
56
3.3.4.1. Mục đích
56
3.3.4.2. Nội dung và cách thức tiến hành
56
3.3.5. Biện pháp 5: Củng cố tổ chức, bộ máy thanh tra các cấp theo
hướng từng bước chuyên nghiệp hoá và tăng cường tính độc lập của cơ
quan thanh tra
60
3.3.5.1. Mục đích
60
3.3.5.2. Nội dung và cách thức tiến hành
60
3.4. Khảo nghiệm về tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
61
3.5. Kết quả thử nghiệm một số biện pháp
63
3.5.1. Thử nghiệm các biện pháp 1, 2 và một phần biện pháp 5
64
3.5.2. Thử nghiệm biện pháp 4
65
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
67
1. Kết luận
67
2. Khuyến nghị
68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
70
PHỤ LỤC
73
Phụ lục 1
73
Phụ lục 2
96
KÝ HIỆU CỤM TỪ VIẾT TẮT
- THPT Trung học phổ thông
- THCS Trung học cơ sở
- GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
- CTVTT Cộng tác viên thanh tra
- THCN Trung học chuyên nghiệp
- UBND Uỷ ban nhân dân
- TTGDTX Trung tâm Giáo dục thường xuyên
- DTNT Dân tộc nội trú
- GS Giáo sư
- PGS Phó Giáo sư
- TS Tiến sĩ
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 với mục tiêu
tổng quát là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ
rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại hoá” (5.Tr.8).
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định mục tiêu của Đại hội IX và đề ra
phương hướng tổng quát của 5 năm 2006-2010 là : “ phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt
mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; ” (7.Tr.23), thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (7.Tr.368).
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu nêu trên, giáo dục và đào tạo có vai
trò quyết định trong việc tạo ra nguồn lực con người phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu phát triển giáo dục - đào tạo là rất bức
thiết. Sau 20 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng tự hào, góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. Hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non
đến giáo dục đại học và sau đại học, với trên 21 triệu người đi học, sự nghiệp
giáo dục đã góp phần phát huy nhân tố con người - nguồn nội lực quan trọng
để đưa đất nước bước vào thế kỷ XXI.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền giáo dục và đào tạo
nước ta còn có những khuyết điểm, yếu kém cần khẩn trương khắc phục. Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ: "Chất lượng giáo dục và
đào tạo còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục";
“Công tác quản lý giáo dục, đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập.
2
Thanh tra giáo dục còn nhiều yếu kém; những hiện tương tiêu cực, như bệnh
thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả giáo dục, trong học tập,
tuyển sinh, thi cử, cấp bằng và tình trạng học thêm, dạy thêm tràn lan kéo dài,
chậm được khắc phục." (7.Tr .170, 171).
Để phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục có hiệu quả các
khuyết điểm, yếu kém, đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ ra phương hướng giải quyết là: "Đổi mới
và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; Nhà nước
thực hiện đúng chức năng định hướng và phát triển, tạo lập khung pháp lý và
kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo, chống bệnh thành tích. Tập
trung khắc phục những tiêu cực trong dạy thêm, học thêm, thi cử, tuyển sinh,
đánh giá kết quả học tập và cấp chứng chỉ, văn bằng.” (7.Tr.209)
Như vậy, có một nhiệm vụ bức thiết đặt ra hiện nay là phải không ngừng
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước để sự nghiệp giáo dục thực sự là
quốc sách hàng đầu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một
trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu lực quản lý là phải coi
trọng xây dựng củng cố hệ thống thanh tra giáo dục vững mạnh và nâng cao
hiệu quả hoạt động, coi thanh tra là hoạt động thiết yếu của cơ quan quản lý
nhà nước như tinh thần Luật Thanh tra.
Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Giang trong những năm qua đã có nhiều cố
gắng và nỗ lực để đổi mới quản lý giáo dục, tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục. Tuy nhiên trong hoạt động
thanh tra, kiểm tra vẫn còn nhiều bất cập, chưa có được những kết quả như
mong muốn do vấn đề về trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ thanh tra
cũng như về tổ chức, phương pháp tiến hành thanh tra, nên những chuyển
3
biến sau thanh tra chưa thực sự phát huy hết tác dụng, hiệu lực quản lý chưa
cao. Trong các nhà trường: các hiện tượng tiêu cực, thiếu kỷ cương, thương
mại hoá trong hoạt động giáo dục vẫn còn; cán bộ quản lý trình độ hạn chế,
năng lực điều hành còn bất cập; một bộ phận giáo viên còn thiếu ý thức bồi
dưỡng chuyên môn, có biểu hiện sa sút về phẩm chất đạo đức nên đã ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục. Vì vậy, nâng cao hiệu lực của công
tác quản lý giáo dục phải được coi là nhiệm vụ bức thiết của ngành giáo dục
và đào tạo Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao hiệu lực quản lý
giáo dục, phải xây dựng tổ chức Thanh tra vững mạnh và nâng cao hiệu quả
hoạt động thanh tra giáo dục, trong đó có việc nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra toàn diện trường trung học phổ thông (THPT).
Nghiên cứu về đổi mới công tác thanh tra giáo dục đã có công trình
nghiên cứu ở trong nước do Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, và Dự
án “Đào tạo cán bộ thanh tra và quản lý giáo dục Việt Nam” với sự giúp đỡ
của Thanh tra giáo dục Pháp để thực hiện một trong những giải pháp đổi mới
đó. Tuy nhiên còn ít công trình nghiên cứu về biện pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động thanh tra giáo dục. Đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về
biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra toàn diện trường THPT ở tỉnh
Bắc Giang.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Một số biện pháp
quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh tra toàn diện trường THPT
tỉnh Bắc Giang" để nghiên cứu, nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả trong
công tác quản lý hệ thống trường THPT, đồng thời nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Giang.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra toàn diện trường THPT ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể, đối tƣợng nghiên cứu và mẫu khảo sát
4
- Khách thể nghiên cứu: hoạt động thanh tra toàn diện trường THPT ở
tỉnh Bắc Giang.
- Đối tượng nghiên cứu: biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra
toàn diện trường THPT ở tỉnh Bắc Giang.
- Mẫu khảo sát: hoạt động thanh tra toàn diện các trường THPT trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2004-2006.
4. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả công tác thanh tra toàn diện trường THPT ở tỉnh Bắc Giang
sẽ được nâng cao, nếu người cán bộ thanh tra có nhận thức đúng về "nghề
thanh tra" và cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện đồng bộ, sáng tạo
những biện pháp quản lý chỉ đạo đổi mới hoạt động thanh tra như: Củng cố tổ
chức bộ máy thanh tra; Đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng; Hoàn thiện quy
chế, quy trình thanh tra vv.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề về cơ sở lý luận quản lý, quản lý giáo dục
và thanh tra, kiểm tra trong giáo dục.
- Phân tích thực trạng hoạt động thanh tra toàn diện trường THPT và
thực trạng quản lý công tác thanh tra toàn diện trường THPT ở tỉnh Bắc
Giang.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra toàn diện trường THPT ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn mới.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian và thời gian: các trường THPT trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang được thanh tra toàn diện giai đoạn 2004-2006.
- Phạm vi nội dung: hoạt động thanh tra toàn diện trường THPT và
quản lý chỉ đạo công tác thanh tra toàn diện trường THPT ở tỉnh Bắc Giang.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài, kết hợp sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
5
+ Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục;
các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý giáo dục, thanh tra giáo
dục và một số văn bản hướng dẫn khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
+ Nghiên cứu sách, tài liệu, báo cáo khoa học và sản phẩm hoạt động
thanh tra toàn diện trường THPT.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
+ Quan sát, phỏng vấn, điều tra, tham khảo ý kiến chuyên gia (Thanh
tra viên, cộng tác viên thanh tra và cán bộ, chuyên viên Sở, Phòng Giáo dục);
thực nghiệm và tổng kết kinh nghiệm.
+ Sử dụng phần mềm tin học để phân tích, tổng hợp, thống kê với mục
đích xử lý kết quả nghiên cứu từ điều tra và từ sản phẩm hoạt động thanh tra
toàn diện trường THPT giai đoạn 2004-2006.
8. Cấu trúc nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn được cấu trúc trong 3 chương:
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC - PHÁP LÝ VỀ THANH TRA, KIỂM TRA
TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA VÀ QUẢN LÝ
CÔNG TÁC THANH TRA TOÀN DIỆN TRƢỜNG THPT Ở TỈNH BẮC GIANG
Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
THANH TRA TOÀN DIỆN TRƢỜNG THPT Ở TỈNH BẮC GIANG
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC - PHÁP LÝ VỀ
THANH TRA, KIỂM TRA TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục
1.1.1.1. Quản lý
Khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục
tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì quản
lý xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân
hướng tới những mục tiêu chung. Có thể nói, quản lý là những hoạt động cần
thiết phải được thực hiện khi những con người kết hợp với nhau trong các
nhóm, tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung. Bất luận một tổ chức có
mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều cần phải có sự quản lý và có người
quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục đích của mình.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng của Nhà xuất bản Giáo dục năm
1998, thuật ngữ quản lý được định nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động
của một đơn vị, cơ quan”.
Quản lý là một hoạt động có chủ đích, được tiến hành bởi một chủ thể
quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu xác
định của công tác quản lý. Trong mỗi chu trình quản lý chủ thể tiến hành
những hoạt động theo các chức năng quản lý như xác định mục tiêu, các chủ
trương, chính sách; hoạch định kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện, điều hoà,
phối hợp, kiểm tra và huy động, sử dụng các nguồn lực cơ bản như tài lực, vật
7
lực, nhân lực vv để thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối
cảnh và thời gian nhất định.
Chung quanh khái niệm quản lý còn có rất nhiều định nghĩa khác nhau:
- F.W TayLor cho rằng: “Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác
làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
- H.Koontz thì lại khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó
đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục
đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường
mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian,
tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất”.
- Trong tác phẩm “Lý luận quản lý Nhà nước” của Mai Hữu Khuê, xuất
bản năm 2003 có định nghĩa về quản lý như sau: “Quản lý là một phạm trù có
liên quan mật thiết với hiệp tác và phân công lao động, nó là một thuộc tính tự
nhiên của mọi lao động hiệp tác”. Còn C. Mác đã coi việc xuất hiện quản lý
như là kết quả tất nhiên của sự chuyển nhiều quá trình lao động cá biệt, tản
mạn, độc lập với nhau thành một quá trình xã hội được phối hợp lại. C. Mác
đã viết: “Bất cứ lao động hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy
mô khá lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động
cá nhân Một nhạc sĩ độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc
thì phải có nhạc trưởng”.
Hiện nay, hoạt động quản lý thường được định nghĩa một cách rõ hơn.
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc đã đưa ra khái niệm:
“Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các
hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra
(25.Tr. 1).
Quản lý là một quá trình chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản
lý bằng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, đánh giá, dựa trên những nguồn
lực và những điều kiện có thể có nhằm đạt được mục đích của tổ chức. Như
8
vậy quản lý có bốn chức năng cơ bản sau: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo -
lãnh đạo và kiểm tra.
- Chức năng lập kế hoạch là nền tảng của quản lý, bởi vì đó là việc xây
dựng các định hướng và đề ra quyết định tổ chức thực hiện trong thời gian
nhất định của tổ chức. Lập kế hoạch bao gồm việc xác định sứ mệnh, mục
tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện
pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó dựa trên việc tính toán các
nguồn lực, các giải pháp. Mục đích của việc lập kế hoạch là lựa chọn một
đường lối hành động mà một tổ chức nào đó và bộ phận của nó phải tuân theo
nhằm hoàn thành các mục tiêu cần thiết cho sự phấn đấu của tổ chức.
- Chức năng tiếp theo của quản lý là tổ chức. Tổ chức chính là việc sắp
xếp, tuyển chọn xác định một cơ cấu định trước về các vai trò cho từng con
người đảm đương trong một cơ sở thông qua việc phân tích công việc, đề ra
nhiệm vụ để lựa chọn người vào việc và cả việc tính toán phân bổ nguồn lực
khác để xây dựng cơ chế làm việc thích hợp. Đồng thời hình thành nên cấu
trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức
nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu
tổng thể của tổ chức.
- Chức năng lãnh đạo (chỉ đạo) là quá trình chỉ đạo hay tác động của
người quản lý đến người bị quản lý, lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ
với người khác và động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt
được mục tiêu của tổ chức. Hiển nhiên việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau
khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã hoàn tất, mà nó thấm vào, ảnh
hưởng quyết định tới hai chức năng kia.
- Chức năng cuối cùng của quản lý là kiểm tra, đánh giá. Đây là việc đo
lường và điều chỉnh các hoạt động của các bộ phận phối thuộc trong tổ chức.
Kiểm tra là quá trình theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động, đánh giá kết
quả của việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức nhằm tìm ra những mặt ưu
điểm, hạn chế để điều chỉnh việc lập kế hoạch, tổ chức và lãnh đạo. Một kết
9
quả hoạt động phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì
phải tiến hành những hành động điều chỉnh, uốn nắn. Đó cũng là quá trình tự
điều chỉnh, diễn ra có tính chu kỳ như sau:
+ Người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động
+ Người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành đạt so với chuẩn
mực đã đặt ra
+ Người quản lý tiến hành điều chỉnh những sai lệch
+ Người quản lý hiệu chỉnh, sửa lại chuẩn mực nếu cần.
Trong bốn chức năng trên thì chức năng tổ chức là quan trọng nhất.
Tuy nhiên bốn chức năng này có liên quan mật thiết với nhau và phải được
thực hiện liên tiếp và đan xen vào nhau, phối hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết
nối giữa chu trình quản lý này sang chu trình quản lý khác theo hướng phát
triển, trong đó thông tin luôn là yếu tố xuyên suốt không thể thiếu trong việc
thực hiện các chức năng quản lý và là cơ sở cho việc ra quyết định quản lý.
Chức năng của quản lý có thể mô tả theo sơ đồ sau: (Xem hình 1)
Hình 1. Sơ đồ các chức năng quản lý
thông tin
Kế hoạch
Chỉ đạo
Tổ chức
Kiểm tra đánh giá
10
Từ quan niệm của các học giả đã nêu, PGS.TS. Trần Khánh Đức đã
khái quát lại như sau: “Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm
phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng người để đạt
được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất” (29.Tr. 2).
1.1.1.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một chức năng của xã hội loài người được thực hiện một
cách tự giác, nó tồn tại, vận động, phát triển với tư cách là một hệ thống. Theo
cách nói của Marx thì “dàn nhạc” giáo dục trong quá trình tồn tại và phát triển
tất yếu phải có quản lý giáo dục (nhạc trưởng).
Quản lý giáo dục với tư cách là một chuyên ngành khoa học đang phát
triển đã trải qua nhiều biến đổi, bổ sung và ngày một phong phú.
Về quản lý giáo dục cũng có khá nhiều quan điểm khác nhau được tác
giả Nguyễn Quốc Chí đề cập trong cuốn “Những cơ sở của lý luận quản lý
giáo dục” như sau:
- Quan điểm hiệu quả: Là quan điểm quản lý giáo dục ra đời vào thập
niên đầu tiên của thế kỷ, khi xuất phát từ việc áp dụng tư tưởng kinh tế vào
quản lý giáo dục. Theo quan điểm hiệu quả, quản lý giáo dục phải được thực
hiện sao cho hiệu số giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống giáo dục phải đạt
cực đại.
- Quan điểm kết quả: Ra đời vào đầu những năm 20. Cơ sở tư tưởng
của quan điểm này là khoa học tâm lý sư phạm. Quan điểm kết quả chú ý đến
việc đạt mục tiêu giáo dục nhiều hơn chú ý đến hiệu quả kinh tế của nó.
- Quan điểm đáp ứng: Ra đời vào những năm 60. Cơ sở tư tưởng của
quan điểm này là khía cạnh chính trị của giáo dục. Quản lý giáo dục phải
hướng tới việc làm cho hệ thống giáo dục phục vụ, đáp ứng các đòi hỏi của sự
phát triển đất nước, phát triển xã hội.
- Quan điểm phù hợp: Ra đời vào những năm 70. Cơ sở tư tưởng của
quan điểm này là vấn đề văn hoá. Quản lý giáo dục phải đạt được mục tiêu
11
phát triển giáo dục trong điều kiện bảo tồn và phát huy truyền thống, bản sắc
văn hoá dân tộc (24.Tr.68, 69).
Ngày nay giáo dục được gắn với quá trình phát triển xã hội, việc đi học
của mỗi người phải là: “ học thường xuyên, học suốt đời ”. Do đó giáo dục
không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà là giáo dục cho mọi người, cho nên quản lý
giáo dục cũng có thể hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân nhằm
thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Quản lý giáo dục có những đặc trưng riêng so với các loại hình quản lý
khác. Nó là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc, nó thu hút sự tham gia của
rất đông các thành viên xã hội, có ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội.
Quản lý giáo dục cũng gồm có bốn chức năng cơ bản như các hoạt động
quản lý khác là: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Quản lý giáo dục được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau tuỳ thuộc
vào việc xác định đối tượng quản lý. Việc xác định đối tượng quản lý khác
nhau để chủ thể quản lý giáo dục các cấp tác động vào đối tượng của mình đạt
hiệu quả cao nhất, sự tác động có tính khoa học, hệ thống với đối tượng đó.
Giáo dục học hiện đại đã khẳng định, nơi chủ yếu để thực hiện quá
trình sư phạm là nhà trường, một thiết chế nhà nước-xã hội hiểu theo nghĩa
đầy đủ nhất. Vì vậy việc quản lý giáo dục- thực chất là quản lý tế bào cơ bản
nhất của hệ thống giáo dục, nhà trường- không thể không tính đến quan hệ
nhà nước - xã hội.
Một mặt, nhà trường nói riêng hay toàn bộ hệ thống giáo dục nói chung
(rộng hơn là toàn bộ các hoạt động giáo dục) phải được Nhà nước thống nhất
quản lý bằng việc thực thi công quyền; mặt khác, hệ thống giáo dục gắn bó
chặt chẽ với xã hội nói chung và mỗi cộng đồng dân cư, thậm chí mỗi công
dân, mỗi thành viên xã hội nói riêng. Sự tham gia của xã hội/cộng đồng/công
dân vào công việc nhà trường, vào việc quản lý giáo dục là một tất yếu.
1.1.1.3. Quản lý trường học
12
Căn cứ Điều 58. Nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường (Chương III,
Luật Giáo dục năm 2005) có thể thấy quản lý trường học chủ yếu là quản lý
quá trình dạy-học, quản lý các hoạt động bên trong nhà trường, đồng thời
quản lý các quan hệ giữa nhà trường và xã hội.
Trường học là một cơ cở giáo dục, nó nằm trong hệ thống giáo dục
quốc dân và tổng thể của một xã hội. đặc điểm của thể chế đó là có sự gắn bó,
kết hợp hữu cơ và hết sức chặt chẽ giữa những đặc điểm của nhà nước và đặc
điểm của xã hội. Do vậy nhà trường và xã hội luôn có mối quan hệ tác động
qua lại. Môi trường xã hội tác động vào nhà trường và ngược lại.
Quản lý nhà trường về bản chất là quản lý con người. Trong nhà trường
chủ thể quản lý là lãnh đạo nhà trường ( hiệu trưởng, phó hiệu trưởng), khách
thể bị quản lý là tập thể giáo viên, học sinh. Vì vậy quản lý nhà trường phải
giải quyết tốt mối quan hệ con người-con người là mối quan hệ chủ đạo, có
tính chất quyết định thành tựu của hoạt động giáo dục. Những mối quan hệ
con người được biểu hiện tập trung ở những vấn đề: nhân cách của người
đứng đầu một cơ sở giáo dục (hiệu trưởng) và cách thức hành xử của người
đó với tập thể giáo viên và học sinh; vấn đề văn hoá và bầu không khí tâm lý
trong nhà trường; vấn đề phong cách lãnh đạo quản lý của người hiệu trưởng
vv.
1.1.2. Một số khái niệm cơ bản về thanh tra giáo dục
1.1.2.1. Thanh tra
Khái niệm thanh tra xuất phát từ gốc Latinh có nghĩa là "nhìn vào bên
trong", chỉ “một sự kiểm tra xem xét từ bên ngoài vào một đối tượng nhất định”.
Theo từ điển tiếng Việt: “Thanh tra (người thuộc cơ quan có thẩm
quyền) kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí
nghiệp” (13.Tr.838).
Trong cuốn “Khoa học tổ chức và quản lý - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Nhà xuất bản Thống kê đã nêu: “Thanh tra là hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước, có chức năng duy trì các hoạt động của cơ quan và
13
của công chức hành chính phù hợp với pháp luật của nhà nước, bằng các hoạt
động xem xét, thẩm định lại những hành vi của công chức, những hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước trên cơ sở những quy định pháp lý về quyền
hạn, nhiệm vụ của các cá nhân (công chức, cán bộ và các nhân viên khác
trong cơ quan hành chính và tổ chức)”; “Thanh tra là một khái niệm thuộc
một chức năng đặc trưng của quản lý hành chính nhà nước. Thanh tra có cơ
cấu trong tổ chức bộ máy hành pháp. Thanh tra khác với hoạt động kiểm tra
về các yếu tố chủ thể, nguồn gốc phát sinh, về quy trình hoạt động và về hậu
quả do chúng mang lại” (10.Tr.299, 304).
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác thanh tra thì có
thể đưa ra khái niệm sau: "Thanh tra là một dạng hoạt động, là một chức năng
của quản lý nhà nước được thực hiện bởi chủ thể quản lý có thẩm quyền, nhân
danh quyền lực nhà nước, nhằm tác động đến đối tượng quản lý trên cơ sở
xem xét, đánh giá ưu khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa và
xử lý vi phạm, tăng cường quản lý, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng
cường pháp chế bảo vệ quyền lợi nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân" (11.Tr.136).
Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đã xác định rõ: "Thanh tra là chức năng
thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế,
tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội
chủ nghĩa".
Hoạt động thanh tra không có mục đích tự thân. Mục đích chung nhất
của hoạt động thanh tra là hoạt động tự điều chỉnh trong nội bộ cơ quan hành
chính nhà nước. Trong quản lý nhà nước đương nhiên có những hoạt động
đúng pháp luật. Đồng thời, trong quản lý không thể không có sai phạm, thiếu
sót. Vì vậy cần phải tổ chức thực hiện việc thanh tra để xem xét kết quả, hiệu
quả và mục tiêu đã đề ra của hoạt động quản lý khi đối tượng bị quản lý thực
hiện và kịp thời khắc phục những khiếm khuyết, sơ hở của cơ chế chính sách
cũng như xử lý các vi phạm và những vấn đề thực tiễn của hoạt động quản lý
14
đã đặt ra, góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, làm cho cơ chế,
chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống.
Điều 3, Luật Thanh tra năm 2004 đã xác định rõ mục đích thanh tra:
"Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp
luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc
phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân".
Trong cuốn “Nghiệp vụ công tác thanh tra” của trường Cán bộ thanh tra
có khái quát khái niệm thanh tra như sau: “Thanh tra là một chức năng thiết
yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra của quản lý nhà nước, là hoạt
động kiểm tra xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân;
thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm,
phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn
thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”
(12.Tr.13).
Như vậy có thể rút ra kết luận: thanh tra là một trong những chức năng
của hoạt động quản lý nhà nước. Nói cách khác là nếu không thanh tra, kiểm
tra thì không thể làm tốt chức năng quản lý nhà nước và làm cho quản lý sẽ
mất đi một chức năng thiết yếu và sẽ không thể mang lại hiệu quả cao của
hoạt động quản lý.
1.1.2.2. Thanh tra giáo dục
Thanh tra giáo dục là hoạt động kiểm tra có tính chất nhà nước của cơ
quan quản lý giáo dục cấp trên đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân cấp dưới
do một tổ chức chuyên biệt (tổ chức thanh tra) tiến hành với các chức năng:
đánh giá, phát hiện, điều chỉnh và giúp đỡ đối tượng thanh tra nhằm đảm bảo
15
pháp chế, giữ vững kỷ cương, tăng cường kỷ luật và góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo.
Theo quy định của Luật Thanh tra, về tổ chức bộ máy thì Thanh tra
giáo dục là thanh tra chuyên ngành, thực hiện quyền thanh tra nhà nước về
giáo dục và đào tạo, vừa bộc lộ quyền lực nhà nước, vừa đảm bảo dân chủ, kỷ
cương trong hoạt động giáo dục. Vì vậy thanh tra giáo dục có tính chất: Hành
chính - Pháp chế - Nhà nước. Tổ chức thanh tra giáo dục do pháp luật quy
định, cấp trên bổ nhiệm và hoạt động theo luật định.
Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra giáo dục đã xác định rõ: “Thanh tra giáo dục là thanh tra chuyên
ngành về giáo dục. Thanh tra giáo dục thực hiện quyền thanh tra trong phạm
vi quản lý nhà nước về giáo dục, nhằm bảo đảm việc thi hành pháp luật, phát
huy nhân tố tích cực, phòng ngừa và xử lý vi phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giáo dục"
(Điều 1, Nghị định 101/2002/NĐ-CP ngày 10/12/2002 về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra giáo dục); "Thanh tra giáo dục thực hiện chức năng thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý nhà nước về
giáo dục theo quy định của pháp luật" (Khoản 2, Điều 1, Nghị định 85/2006/NĐ-
CP ngày 18/8/2006 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra giáo dục).
Nguyên tắc hoạt động của Thanh tra giáo dục cũng được quy định rõ tại
Khoản 1, Điều 3, Nghị định 85/2006/NĐ-CP như sau: "Hoạt động thanh tra
giáo dục phải tuân theo pháp luật, bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực,
công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở đến hoạt động bình thường
của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan".
1.1.2.3. Thanh tra chuyên môn
Thanh tra chuyên môn là một nội dung của hoạt động thanh tra chuyên
ngành về giáo dục, tập trung chủ yếu vào thanh tra công tác quản lý chuyên
môn (theo quy định tại mục b, khoản 2, Điều 111, Luật Giáo dục 2005):
16
“Thanh tra việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội dung, phương
pháp giáo dục, quy chế chuyên môn, quy chế thi cử, cấp văn bằng, chứng chỉ;
việc thực hiện các quy định về điều kiện cần thiết bảo đảm chất lượng giáo
dục ở cơ sở giáo dục”.
1.1.2.4. Thanh tra toàn diện trường phổ thông
Thanh tra toàn diện trường phổ thông là hoạt động kiểm tra có tính chất
nhà nước của các cấp quản lý giáo dục đối với nhà trường, có nhiệm vụ chủ
yếu là đánh giá toàn diện nhà trường về: đội ngũ giáo viên, nhân viên; cơ sở
vật chất kỹ thuật; tình hình thực hiện các nhiệm vụ của nhà trường; công tác
quản lý của hiệu trưởng nhằm bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương, nâng cao hiệu lực quản lý giáo dục, tạo điều kiện cải tiến cơ chế quản
lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
1.1.3. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về giáo dục
1.1.3.1. Khái niệm về quản lý nhà nước
GS. Mai Hữu Khuê và GS.TS. Bùi Văn Nhơn đã định nghĩa quản lý
nhà nước như sau: "Quản lý là một chức năng quan trọng nhất của nhà nước".
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là sự tổ chức và quản lý sự vụ hữu quan
của mọi tổ chức và toàn xã hội. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt
động quản lý hành chính do chính phủ đại diện nhà nước thực thi và bảo đảm
bằng sức cưỡng chế của nhà nước.
Nói chung, quá trình quản lý nhà nước do bốn hoạt động cơ bản tạo
thành, đó là: quyết định, tổ chức, điều tiết, khống chế.
- Quyết định là đề ra mục tiêu và phương hướng công tác, chất lượng
của quyết sách thể hiện ở tính khoa học và kiến thức chuyên môn, tính quyền
uy và sự ổn định tương đối, tính nhất trí và tính liên tục lôgic, ngắn gọn, rõ
ràng, quyết sách của nhà nước bao gồm: cương lĩnh, kế hoạch, mệnh lệnh, chỉ
thị, sắp xếp vv.
17
- Tổ chức là bố trí nhân sự và phương tiện thực thi bảo đảm thực hiện
mục tiêu công tác. Chức năng tổ chức bao gồm: thiết kế cơ cấu quản lý, sử
dụng nhân viên quản lý và xúc tiến đối tượng công tác.
- Điều tiết là sự sửa đổi và hoàn thiện quy phạm thủ tục công tác, thiết kế
cơ cấu, phân phối nhân viên để bảo đảm cơ chế tổ chức và công tác tiến triển.
- Khống chế là kiểm tra và nắm vững công tác quản lý hàng ngày. Hệ
thống khống chế gồm hai mặt: một là kiểm toán, hai là hạch toán.
Các hoạt động quản lý nhà nước nói trên có mối liên hệ không thể chia
cắt, thẩm thấu vào nhau, tác động qua lại, hình thành một quá trình quản lý
nhà nước thống nhất (35.Tr.601, 602).
1.1.3.2. Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục
Theo từ điển bách khoa về giáo dục học, khái niệm quản lý nhà nước
về giáo dục được giải nghĩa là việc “Thực hiện công quyền để quản lý các
hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội”. Có thể hiểu:
Quản lý nhà nước về giáo dục là việc nhà nước thực hiện quyền lực
công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục trong phạm vi
toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của quốc gia.
Trong khái niệm trên, cho ta thấy nổi lên ba bộ phận chính, đó là chủ
thể quản lý nhà nước về giáo dục; khách thể và đối tượng của quản lý nhà
nước về giáo dục; mục tiêu quản lý nhà nước về giáo dục.
- Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục là cơ quan quyền lực nhà nước
(cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp). Tuy nhiên chủ thể
trực tiếp là bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở được cụ thể hoá
ở điều 100 của Luật Giáo dục 2005.
- Khách thể của quản lý nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo dục
quốc dân, đối tượng của quản lý nhà nước về giáo dục là mọi hoạt động giáo
dục trong phạm vi toàn xã hội.
- Mục tiêu quản lý nhà nước về giáo dục về tổng thể đó là việc bảo đảm
trật tự, kỷ cương trong các hoạt động giáo dục, để thực hiện được mục tiêu
18
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội và hoàn thiện,
phát triển nhân cách của công dân. Ở mỗi cấp, bậc học và trình độ đào tạo, mục
tiêu này đã được cụ thể hoá trong Luật Giáo dục và điều lệ các nhà trường.
Có thể hiểu khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục một cách đầy đủ
hơn như sau: “Quản lý nhà nước về giáo dục là sự quản lý của các cơ quan
quyền lực nhà nước, của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến địa
phương lên các thành tố của hệ thống giáo dục quốc dân và các hoạt động
giáo dục của xã hội nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục đã xác định”.
Xuất phát từ khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục cùng với việc
phân tích các tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lý nhà nước về giáo dục
có thể rút ra kết luận:
Quản lý nhà nước về giáo dục là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền do nhà nước quy định, phân cấp trong các hoạt động quản lý giáo
dục. Ở địa phương và các cơ sở giáo dục, quản lý nhà nước về giáo dục và
đào tạo thực chất là quản lý các hoạt động hành chính-giáo dục, vì vậy nó có
hai mặt quản lý thâm nhập vào nhau, đó là quản lý hành chính sự nghiệp giáo
dục và quản lý chuyên môn trong quá trình sư phạm. Chính vì vậy, quản lý
nhà nước về giáo dục cần lưu ý các đặc điểm nêu trên để phân biệt rõ với khái
niệm quản lý nhà trường được hiểu là thực hiện hoạt động quản lý giáo dục
trong tổ chức nhà trường và chịu sự tác động của những chủ thể quản lý bên
trên nhà trường (các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên) nhằm hướng dẫn và
tạo điều kiện cho hoạt động của nhà trường và bên ngoài nhà trường, các thực
thể bên ngoài nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhà trường phát triển.
Nếu xem quản lý nhà nước như là một hệ thống thì quản lý nhà nước về
giáo dục là một hệ thống bao gồm các thể chế, cơ chế quản lý giáo dục; tổ
chức bộ máy quản lý giáo dục và đội ngũ cán bộ, công chức quản lý giáo dục
các cấp. Ba bộ phận này có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau rất chặt
chẽ. Chúng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm lẫn nhau trong quá trình vận hành,
tác nghiệp.