Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Các giải pháp tăng cường xã hội hoá giáo dục trong quản lý trường phổ thông ngoài công lập tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 106 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀNỘI
KHOA SƯ PHẠM



NGÔ ĐÌNH TIẾN





CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TRONG
QUẢN LÝ TRƯỜNG PHỔ THÔNG NGOÀI CÔNG LẬP TỈNH BẮC
GIANG





Nghd :PGS.TS . LÊ NGỌC HÙNG




HÀ NỘI: 2006



MỤC LỤC



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
4. Giả thuyết khoa học của đề tài
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
6. Giới hạn của đề tài
3
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc luận văn
4
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xác lập các giải pháp xã hội hoá giáo
dục trong quản lý các trường phổ thông ngoài công lập

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
5
1.2. Các khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
8
1.2.1. Giáo dục
8
1.2.2. Trường phổ thông
10

1.2.3. Quản lý
11
1.2.4. Quản lý giáo dục
12
1.2.5. Xã hội hoá
13
1.2.6. Xã hội hoá giáo dục
15
1.3. Vai trò của Trường phổ thông ngoài công lập
18
1.3.1. Vị trí trường phổ thông ngoài công lập
18
1.3.2. Vai trò trường phổ thông ngoài công lập
19
1.4. Xã hội hoá giáo dục và quản lý phát triển trường phổ thông ngoài công
lập

20
1.4.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá giáo dục
20
1.4.2. Vai trò, ý nghĩa xã hội hoá giáo dục
22
1.4.3. Nội dung xã hội hoá giáo dục
26


1.4.4. Nguyên tắc xã hội hoá giáo dục
29
1.4.5. Kinh nghiệm xã hội hoá giáo dục của một số nước
31

1.4.6. Kết quả và tổng kết một số kinh nghiệm xã hội hoá giáo dục ở nước
ta
32
1.5. Quán triệt chủ trương xã hội hoá giáo dục vào quản lý phát triển trường
phổ thông ngoài công lập trong bối cảnh hiện nay

34
Chương 2: Thực trạng xã hội hoá giáo dục trong quản lý trường phổ
thông ngoài công lập tỉnh Bắc Giang

2.1. Khái quát đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Bắc Giang hiện nay
37
2.1.1. Điều kiện địa lý, hành chính
37
2.1.2. Các đặc điểm về kinh tế- xã hội
37
2.2. Khái quát về tình hình ngành giáo dục của tỉnh
40
2.2.1. Quy mô, cơ cấu giáo dục phổ thông
40
2.2.2. Hạn chế, khó khăn
45
2.3. Thực trạng sự phát triển các loại hình trường lớp phổ thông
47
2.4. Thực trạng công tác xã hội hoá giáo dục phát triển trường phổ thông
ngoài công lập

49
2.4.1. Chủ trương của các cấp lãnh đạo địa phương và ngành giáo dục đối
với công tác xã hội hoá để phát triển trường lớp phổ thông ngoài công lập


49
2.4.2. Nhận thức về chủ trương xã hội hoá giáo dục trong quản lý trường
lớp phổ thông ngoài công lập

52
2.4.3. Tình hình huy động các lực lượng xã hội tham gia công tác xã hội
hoá giáo dục phổ thông

56
2.4.4. Phân tích thực trạng phát triển trường phổ thông ngoài công lập
59
Chương 3: Giải pháp tăng cường xã hội hoá giáo dục trong quản lý
trường phổ thông ngoài công lập tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện
nay

3.1. Định hướng phát triển giáo dục tỉnh Bắc Giang thời kỳ công nghiệp



hoá, hiện đại hoá.
67
3.1.1. Quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển giáo dục của Đảng và
Nhà nước

67
3.1.2. Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo của tỉnh Bắc Giang đến
năm 2010

68

3.2. Các giải pháp quản lý
71
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng xã
hội hoá giáo dục và quán triệt chủ trương xã hội hoá giáo dục vào phát triển
trường phổ thông ngoài công lập


71
3.2.2. Tăng cường huy động nguồn lực thúc đẩy công tác xã hội hoá để phát
triển trường phổ thông ngoài công lập

73
3.2.3. Tổ chức hoàn thiện cơ chế điều hành trong xã hội hoá giáo dục phát
triển trường phổ thông ngoài công lập

77
3.2.4. Tăng cường các điều kiện về chính sách
82
3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các nhà trường phổ thông
ngoài công lập, chú ý kiểm tra các kết quả xã hội hoá

83
3.3. Kiểm chứng sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất
88
3.3.1. Đối tượng kiểm chứng
88
3.3.2. Nội dung phiếu kiểm chứng
88
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
90

TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
PHỤ LỤC




1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hoá giáo dục là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nhằm huy
động, khuyến khích mọi nguồn lực của các lực lượng xã hội tham gia vào
phát triển sự nghiệp giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Nghị quyết TW 6
khoá IX của Đảng nêu: “Đẩy mạnh XXH giáo dục, xây dựng xã hội học tập,
coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục
phát triển giáo dục. Nhà nước khuyến khích mọi đóng góp, mọi sáng kiến của
xã hội cho giáo dục”
Xã hội hoá để phát triển trường lớp ngoài công lập ở các cấp học, bậc
học của hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và của giáo dục phổ thông nói
riêng là một yêu cầu cấp thiết góp phần phát triển giáo dục. Sau gần 10 năm
thực hiện, hoạt động XHHGD đang ngày càng phát triển rộng khắp cả nước,
các loại hình trường lớp với phương thức giáo dục đa dạng hoá. Hệ thống các
trường ngoài công lập phát triển ở mọi bậc học, cấp học. Đã huy động được
nhiều nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục, xây dựng được phong trào
học tập sôi nổi trong nhân dân khắp các vùng miền, công bằng xã hội trong
học tập được đảm bảo, góp phần ổn định xã hội tạo niềm tin của dân đối với
chế độ, với Nhà nước.
Tuy nhiên vẫn còn tình trạng một số cấp, ngành và nhân dân chưa nhận
thức đúng về XHH, còn sự phân biệt giữa trường công lập và ngoài công lập.
Các tổ chức kinh tế, xã hội tham gia vào XHHGD còn hạn chế, tiềm năng

trong xã hội chưa được phát huy đầy đủ. Việc phân cấp thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với cơ sở NCL chưa thật tốt; một số cơ chế chính sách
XHH chưa thật sự phát huy. Các trường NCL, nhất là ở phổ thông còn nhỏ bé,
CSVC còn thiếu thốn, chất lượng giáo dục còn thấp.
Vì vậy XHHGD là điều kiện cần thiết và tất yếu để phát triển giáo dục
nước ta. XHHGD là chủ trương mang tính chiến lược của Đảng ta để định
hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước, được


2
thể hiện trong Nghị quyết TW 2 khoá VIII: “ Phát triển các trường bán công,
dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số
bậc học như mầm non, phổ thông trung học Mở rộng các hình thức đào tạo
không tập trung, đào tạo từ xa ”
Hiến pháp năm 1992 và Luật Giáo dục năm 2005 đã thể chế hoá công
tác xã hội hoá giáo dục để phát triển giáo dục đào tạo, xác định Nhà nước ưu
tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác. Bộ GD&ĐT
cũng đã có Đề án xã hội hoá giáo dục giai đoạn 2005-2010.
XHH giáo dục và đa dạng hoá các hình thức hoạt động giáo dục là mở
rộng khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực, trí lực trong xã hội. Phát
huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các
hoạt động giáo dục, vì giáo dục là sự nghiệp lâu dài của nhân dân cho nên sẽ
phát triển không ngừng cùng với những nguồn lực to lớn của toàn dân. XHH
không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm và sự đầu tư của Nhà nước mà trái lại
Nhà nước huy động các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các hoạt
động này, đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh
phí đó.
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 90/CP, Nghị định 73/1999/NĐ-CP
về chính sách khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục, Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh XHH trong các hoạt động

GD&ĐT,Y tế, văn hoá, TDTT Lâu nay XHHGD luôn được Đảng, Nhà
nước các cấp lãnh đạo các địa phương quan tâm nhưng cho đến nay chưa có
đề tài khoa học, công trình nghiên cứu về việc tăng cường các giải pháp thực
hiện chuyển đổi loại hình trường lớp công lập sang ngoài công lập hay phát
triển loại hình trường dân lập, tư thục ở mầm non, phổ thông để thực hiện chủ
trương của Đảng, Nghị quyết của Chính phủ nhằm phát triển sự nghiệp giáo
dục đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH.


3
Với những lý do trên, tác giả chọn lựa nghiên cứu đề tài: “Các giải
pháp tăng cường xã hội hoá giáo dục trong quản lý trường phổ thông ngoài
công lập tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”.

2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện chủ trương xã hội
hoá, phát triển hệ thống trường lớp phổ thông NCL ở Bắc Giang, trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường chất lượng và hiệu quả quản lý
trường phổ thông ngoài công lập đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục ở địa
phương trong giai đoạn hiện nay
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động XHHGD trong xây dựng trường lớp ngoài công lập.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Giải pháp tăng cường phát triển hệ thống trường lớp phổ thông ngoài
công lập tại tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay

4. Giả thuyết khoa học của đề tài
Hiện nay công tác XHHGD trong quản lý trường phổ thông ngoài công
lập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục ở địa phương.

Nếu có nhận thức đúng đắn, các cơ chế, chính sách phù hợp, huy động
được các nguồn lực, cùng với hiệu quả thiết thực của công tác thanh, kiểm tra
đối với trường ngoài công lập một cách khả thi thì sẽ thúc đẩy thực hiện mục
tiêu kế hoạch phát triển trường lớp phổ thông ngoài công lập tại tỉnh Bắc
Giang.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận của hoạt động xã hội hoá nói chung và lộ
trình chuyển đổi, phát triển trường lớp phổ thông ngoài công lập.


4
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng XHHGD ở phạm vi phát triển
trường ngoài công lập
- Xác lập các giải pháp tăng cường công tác XHHGD nhằm phát triển
trường phổ thông ngoài công lập ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay


6. Giới hạn của đề tài
-Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lĩnh vực các biện
pháp tăng cường XHHGD trong quản lý trường phổ thông ngoài công lập tỉnh
Bắc Giang
- Về thời gian: Từ 1997 đến nay ( 2006).
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nhằm xây dựng cơ sở lý
luận của đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Khảo sát điều tra, phỏng vấn trao đổi, phân tích tài liệu nhằm khảo
sát thực trạng, thu thập thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu.
+Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phương pháp chuyên gia để thu thập
thông tin làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn của việc đề xuất các giải pháp

- Nhóm phương pháp bổ trợ: Gồm phương pháp thống kê toán học, so
sánh để xử lý số liệu thu thập được.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xác lập các giải pháp xã hội hoá giáo
dục đối với quản lý các trường phổ thông ngoài công lập
Chương 2: Thực trạng xã hội hoá giáo dục trong quản lý trường phổ
thông ngoài công lập ở tỉnh Bắc Giang


5
Chương 3: Giải pháp tăng cường xã hội hoá giáo dục trong quản lý
trường phổ thông ngoài công lập tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay






Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC LẬP CÁC GIẢI PHÁP
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC ĐỐI VỚI QUẢN LÝ CÁC TRƢỜNG PHỔ
THÔNG NGOÀI CÔNG LẬP
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Giáo dục xuất hiện cùng với đời sống của xã hội loài người. Sự tồn tại
và phát triển của giáo dục luôn chịu sự chi phối của trình độ phát triển kinh tế
xã hội và ngược lại với chức năng của mình giáo dục lại có vai trò to lớn
trong việc phát triển kinh tế xã hội. Xã hội loài người coi giáo dục là công cụ,
phương tiện để cải biến xã hội. Giáo dục được coi vừa là động lực, vừa là
mục tiêu cho việc phát triển tiếp theo của xã hội. Khi xã hội phát triển lên một

mức mới, chính xã hội lại tạo điều kiện mới cho giáo dục và “đặt hàng mới”
cho giáo dục nói chung, nhà trường nói riêng và buộc giáo dục phải tự nâng
mình lên để một mặt đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng mới của xã hội, mặt
khác tận dụng tốt những điều kiện mà xã hội mới tạo cho. Cứ như thế tính
chất vòng tròn của mối quan hệ giữa giáo dục và cộng đồng xã hội thường
xuyên được diễn ra trong sự cân bằng động và phát triển đi lên theo đường
xoắn ốc cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người. Để phát triển sự
nghiệp giáo dục đào tạo, chúng ta phải tiến hành công tác xã hội hoá giáo dục.
Xã hội hoá giáo dục là “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các
tầng lớp nhân dân đóng góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự
quản lý của nhà nước”.


6
Xã hội hoá giáo dục là tạo cơ hội học tập cho mọi người, tạo nên một
xã hội học tập, cộng đồng hoá trách nhiệm của giáo dục và của cộng đồng, xã
hội, đa dạng hoá loại hình, hình thức giáo dục, đa phương hoá nguồn lực và
huy động cộng đồng, thể chế hoá chủ trương xã hội hoá giáo dục để chủ
trương này nhanh chóng đi vào cuộc sống. Bằng việc đối chiếu sự tác động
các nội dung xã hội hoá giáo dục lên các mục tiêu quản lí giáo dục, quản lí
nhà trường, chúng ta cảm thấy rất rõ vai trò của quá trình xã hội hoá giáo dục
đối với việc thực hiện các mục tiêu quản lí giáo dục nói chung và quản lí nhà
trường nói riêng.
Xã hội hoá giáo dục nhằm mục tiêu “giáo dục cho mọi người”, làm cho
mọi thành viên của cộng đồng được hưởng thụ giáo dục một cách thường
xuyên, liên tục, được đào tạo suốt đời. Các lực lượng xã hội được huy động
vào đa dạng hoá các hình thức giáo dục và các loại hình nhà trường, nhằm mở
ra khả năng huy động nhiều lực lượng xã hội tham gia vào công tác giáo dục,
tạo điều kiện cho giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn, thực hiện có hiệu quả hơn
nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Mở rộng

các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực trong xã
hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân tạo điều
kiện cho giáo dục phát triển. Sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan
đến giáo dục được huy động vào việc phát triển sự nghiệp giáo dục.
Xã hội hoá giáo dục là chủ trương đúng đắn mang tính chiến lược của
Đảng, là một trong những phương diện quan trọng của xã hội hoá hoạt động
quản lý Nhà nước để phát triển giáo dục - đào tạo nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
Chủ trương xã hội hoá giáo dục được đặt ra từ Nghị quyết TW4 khóa
VII, Nghị quyết TW2 khoá VIII. Đặc biệt đến Nghị quyết TW 6 khoá IX
Đảng khẳng định: "Đẩy mạnh XHHGD, xây dựng xã hội học tập, coi giáo dục
là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển
giáo dục".


7
Chủ trương XHHGD của Đảng được thể chế hoá vào Hiến pháp 1992,
tại Điều 35, "Phát triển các hình thức trường quốc lập, DL và các hình thức
GD khác". Điều 12 của Luật giáo dục 2005 khẳng định: " Xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình
thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân
tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục".
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
90/CP ngày 21/8/1997 về phương hướng và chủ trương XHH các hoạt động
giáo dục nhằm cụ thể hoá chủ trương, nội dung, biện pháp XHH hoạt động
giáo dục - đào tạo.
Ngày 18/4/2005 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về
đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động GD, văn hoá, y tế, TDTT. Tiếp đó, ngày
24/6/2005, Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 20/2005/QĐ-BGD&ĐT
phê duyệt Đề án "Quy hoạch phát triển xã hội hoá giáo dục giai đoạn 2005 -

2010".
Bên cạnh chủ trương của Đảng, Nhà nước nêu trên, các nhà khoa học,
nhà quản lý giáo dục nước ta cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về xã
hội hoá công tác giáo dục. Đáng lưu ý là các công trình nghiên cứu bàn về
công tác XHH các hoạt động giáo dục của các tác giả Phạm Minh Hạc, Phạm
Tất Dong, Đặng Quốc Bảo
Đặng Quốc Bảo đưa ra quan niệm: "Xã hội hoá giáo dục phản ảnh bản
chất của luận đề: Giáo dục cho tất cả mọi người, tất cả cho sự nghiệp giáo
dục" (Education for all, All for Eduction EFA-AFE). Vậy việc huy động toàn
xã hội làm GD, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo
dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước không phải là một ý tưởng mới
lạ [8,tr 6].
Xã hội hoá giáo dục không chỉ là chủ trương ở các nước kém phát triển
mà ngay cả những nước giàu, nước phát triển cũng đã từng thực hiện nhiều
giải pháp đẩy mạnh XHHGD để phát triển sự nghiệp GD, bởi vì XHHGD là
một hệ thống định hướng hoạt động của mọi người, mọi lực lượng xã hội,
nhằm hoàn lại bản chất xã hội của giáo dục cho giáo dục và trả lại nhiệm vụ
GD của xã hội cho chính xã hội, để tiến tới xây dựng một xã hội học tập. Tổ


8
chức văn hoá giáo dục Liên hiệp quốc (Unesco) đã khuyến nghị: giáo dục
không chỉ bó hẹp trong nhà trường phải cải tổ toàn diện nền giáo dục. Giáo
dục phải trở thành phong trào quần chúng thực hiện.
Vấn đề xã hội hoá giáo dục đã được nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực
tiễn khá sâu rộng và lâu dài, trong lịch sử nước ta và các nước trên thế giới.
Một số tác giả như Phạm Minh Hạc, Nguyễn Thanh Bình…đã có nhiều công
trình nghiên cứu. Bên cạnh đó các công trình nghiên cứu khoa học về công
tác XHHGD trong những năm gần đây được nhiều cán bộ quản lý GD nước ta
quan tâm, có những luận văn Thạc sĩ đã đề cập đến và nêu ra nhiều giải pháp

tăng cường công tác XHHGD như Luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Duy
Đỉnh với đề tài Các biện pháp tăng cường quản lý nhằm đẩy mạnh XHH giáo
dục cấp THPT ở Hải Phòng, luận văn Thạc sĩ của Lê Ngọc Quân về một số
giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trường chuẩn quốc gia THCS
huyện Lâm Thao, Phú Thọ, đề tài tác động của chính sách xã hội hoá giáo dục
đối với loại hình trường PT ngoài công lập ở Hà Nội của Đinh Thị Minh
Châu…Tuy nhiên đó là những vấn đề cụ thể có tính chuyên sâu, gắn với công
tác quản lý nảy sinh ở từng địa phương và phạm vi công tác, các hoạt động
của xã hội hoá giáo dục là vấn đề rộng lớn, do vậy việc nghiên cứu xã hội hoá
giáo dục vẫn có ý nghĩa thực tiễn lớn lao.

1.2. Các khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt trong lịch sử nhân loại, là
một trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa, duy trì và phát triển
nền văn hoá xã hội, văn minh nhân loại. Giáo dục là nhân tố cốt lõi và tồn tại
khách quan trong mọi giai đoạn phát triển xã hội.
Theo nghĩa chung nhất: "GD là quá trình truyền đạt và lĩnh hội những
tri thức, kỹ năng, kỷ xảo và những kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho con người
bước vào cuộc sống lao động và sinh hoạt xã hội; là một nhu cầu tất yếu của
xã hội loài người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã
hội" [37, tr.7].
Giáo dục là điều kiện để con người gắn bó và gắn bó với nhau một cách
có hiệu quả theo mục tiêu đổi mới điều kiện sinh tồn, bởi vì hành động của
bất kỳ cá nhân nào cũng bị hạn chế do khả năng và kinh nghiệm của riêng


9
người đó. Chính nhờ giáo dục, kết quả những cố gắng của mỗi thế hệ được
truyền lại cho thế hệ sau rồi cứ thế tích luỹ lại và ngày càng phong phú.

Giáo dục chuẩn bị cho mỗi cá nhân hoà nhập vào cộng đồng và khẳng
định được vị thế vai trò với cộng đồng. Giáo dục là con đường đặc trưng cơ
bản để loài người tồn tại và phát triển.
Là một hiện tượng xã hội đặc biệt, được hình thành tồn tại và phát triển
trong môi trường xã hội cụ thể, nên mọi hoạt động giáo dục đều vì sự tiến bộ
xã hội. Không có xã hội nào có thể tồn tại mà không có giáo dục và mọi sự
giáo dục đều nhằm mục đích phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội. Mối quan hệ
biện chứng ấy trong thời đại kinh tế tri thức được thể hiện rất sinh động.
Mỗi quốc gia đều quan tâm đến việc đổi mới nền GD của mình để phù
hợp với thay đổi của xã hội và sự tiến bộ chung. Thế giới ngày nay coi GD là
con đường cơ bản để khỏi tụt hậu, để tiến lên "GD là khâu cực kỳ quan trọng
trong quy trình từ khoa học đến sản xuất, nhất là trong thời đại công nghiệp
hoá" [27, tr.79].
Phát triển GD là quốc sách hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát
triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để xã hội phát triển nhanh và bền
vững. GD vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội, văn hoá,
kinh tế, chính trị.
Ngày nay, giáo dục được coi là "cái hiện hữu vô hình" trong từng tế
bào của đời sống xã hội. Thực sự sẽ không nhận ra được trong mỗi sản phẩm
(vật chất lẫn tinh thần) đâu là GD, nhưng ở mỗi sản phẩm đều kết tinh trong
nó hàm lượng giáo dục.
Theo Đặng Quốc Bảo, giáo dục có thể coi là tâm giao điểm của hai
trục:
+ Trục văn hoá - chính trị : VH- CT
+ Trục kinh tế - xã hội : KT- XH








10


Giáo dục được coi là "then chốt" của mọi vấn đề "then chốt". Chiến
lược GD là tiêu điểm của chiến lược kinh tế - xã hội - văn hoá - chính trị
Mọi chiến lược về con người, về nguồn nhân lực, về khoa học kỹ thuật, về
chấn hưng văn hoá về xoá đói nghèo, phát triển kinh tế, quốc phòng an ninh
đều xuất phát từ chiến lược giáo dục.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo là"Ai cũng
được học hành", Người nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và kêu gọi
"Phải biến dân tộc ta thành một dân tộc thông thái". HS phải cố gắng, siêng
năng học tập để làm cho non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp. Điều đó chứng
minh vai trò giáo dục là hết sức quan trọng. Một lần nữa khẳng định "Giáo
dục là cầu nối từ chỗ không có gì đến chỗ cái gì cũng có" (Triết học giáo dục
Australia).
Hội nghị Thượng đỉnh Bộ trưởng Giáo dục các nước G8 họp tại Tokyo
tháng 9/2000 đã khẳng định giáo dục là cốt lõi của sự phát triển và một trong
bốn hướng lớn của giáo dục G8: "Mỗi nước phải là một xã hội học tập và
đảm bảo cho công dân của mình được trang bị kiến thức, kỹ năng tay nghề
cần cho thế kỷ mới"
1.2.2. Trường phổ thông
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, trường phổ thông thuộc bậc giáo
dục phổ thông, Điều 26 Luật giáo dục 2005 quy định "giáo dục phổ thông”
bao gồm:
- Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến
lớp năm. Tuổi của HS vào học lớp một là sáu tuổi.
- Giáo dục THCS được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp
chín. HS vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là

mười một tuổi.
- Giáo dục THPT được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến
lớp mười hai. HS vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là
mười lăm tuổi.


11
Cơ sở giáo dục phổ thông bao gồm:
- Trường tiểu học;
- Trường trung học cơ sở;
- Trường trung học phổ thông;
- Trường phổ thông có nhiều cấp học;
- Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp (Điều 30 - Luật giáo
dục).
"Mục tiêu của GD phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho
HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và
bảo vệ tổ quốc " (Điều 27 - Luật giáo dục).
Nhưng trong trường phổ thông, nếu học mà không đi đôi với hành, GD
nhà trường nếu không trang bị những biểu biết về kỹ thuật và "Cho dù GD
trong nhà trường có tốt đến mấy, nhưng thiếu GD trong gia đình và ngoài xã
hội thì kết quả cũng không hoàn toàn" [39, tr.118]. Điều đó khẳng định tầm
quan trọng của sự kết hợp 3 môi trường GD gia đình - nhà trường - xã hội,
đồng thời nói lên ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác XHHGD đối với giáo
dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
1.2.3. Quản lý
Các Mác đã từng khẳng định: "Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng
trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần ở chừng mực

nhất định đến sự quản lý. Quản lý là xác lập sự tương hợp giữa các công việc
cá nhân và hình thành những chức năng chung, xuất hiện trong toàn bộ cơ
chế sản xuất, khác với sự vận động của bộ phận riêng lẻ của nó" [36, tr.195].
Trên nhiều bình diện, quan niệm, tư tưởng và thời kỳ lịch sử khác nhau,
có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý. Có người cho rằng quản lý là cai
quản, điều hành, điều khiển, chỉ huy, hướng dẫn, trọng tài, cũng có người
quan niệm quản lý là "Nghệ thuật". Frederics Wiliam Taylor - Mỹ (1856-
1915) cho rằng: "Quản lý nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần phải
làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất" [17, tr.
89].


12
Các nhà nghiên cứu Việt Nam, xuất phát từ góc độ khác nhau cũng đã
đưa ra những khái niệm quản lý. Hà Thế Ngữ quan niệm: "Quản lý là một quá
trình định hướng " [32, tr.24]. Còn Nguyễn Văn Lê cho rằng: "Quản lý là
khoa học và nghệ thuật" [26, tr.5].
Đặng Quốc Bảo quan niệm: "Quản lý về bản chất bao gồm quá trình
"Quản" và quá trình "lý". Quản là coi sóc, giữ gìn nhằm ổn định hệ thống. Lý
là thanh lý, xử lý, biện lý, sửa sang, chỉnh đốn nhằm làm cho hệ thống phát
triển. Hệ ổn định mà không phát triển tất yếu dẫn đến suy thoái. Hệ phát triển
mà thiếu ổn định tất yếu dẫn đến rối ren.
Như vậy: Quản lý = ổn định + phát triển
Trong quản phải có mầm mống của lý và trong lý phải có hạt nhân của
quản. Điều này tạo ra mối quan hệ hiện thực: ổn định đi tới sự phát triển,
phát triển trong thế ổn định" [10, tr.176].
Tóm lại, mặc dù có những kiến giải khác nhau, nhưng xét trên tổng thể,
phần lớn các nhà nghiên cứu đã thống nhất rằng: Quản lý là sự tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một
tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả cao bằng cách vận dụng

các hoạt động chức năng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra thực hiện đầy đủ
các chức năng của mình, hoạt động quản lý sẽ đem lại hiệu quả mong muốn.
1.2.4. Quản lý giáo dục
Với tư cách là một bộ phận của khoa học quản lý nói chung, quản lý
GD cũng được nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra khái niệm.
M.I.Khônđanôp đã định nghĩa: "Quản lý giáo dục là tập hợp các biện
pháp (tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch, tài chính ) nhằm đảm bảo sự vận
hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống GD, đảm bảo sự tiếp tục
phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng cũng như chất lượng" [38,
tr.93].
Đặng Quốc Bảo cho rằng: Quản lý GD theo nghĩa tổng quát là hoạt
động điều hành, phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.
Nguyễn Ngọc Quang dẫn giải: “Quản lý GD là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của các chủ thẻ quản lý, nhằm


13
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất. Quản lý GD là sự tác động của hệ thống
quản lý GD của Nhà nước từ trung ương đến địa phương, đến khách thể quản
lý và hệ thống GD quốc dân và sự nghiệp GD của mỗi địa phương, nhằm đưa
hoạt động giáo dục đến kết quả mong muốn" [42, tr.35].
Như vậy, cũng như quản lý nói chung, QLGD cũng là hệ thống các tác
động có mục đích, có kế hoạch nhằm đạt mục tiêu GD đề ra. QLGD là quản
lý quá trình hoạt động dạy và học bao gồm quản lý tất cả các thành tố của
hoạt động dạy - học, do đó những tác động của nó lên hệ thống là những tác
động kép, nhằm tạo ra một sức mạnh tổng hợp, chủ thể quản lý phải chú ý đến

mối quan hệ quản lý dạy và học trong hoạt động GD, quan hệ giữa các cấp
quản lý, quan hệ giữa nội bộ và bên ngoài; các vấn đề kỹ năng, phong cách,
chiến lược, ưu tiên trong quản lý QLGD có quy mô và cấp độ đa dạng phức
tạp, tầng nấc thứ bậc (trong hệ thống lớn có nhiều hệ thống con), lại nhiều yếu
tố cấu trúc khác nhau và chịu sự tác động của các yếu tố khách quan luôn vận
hành và tương tác trong mối quan hệ đa dạng phức tạp, nhưng lại theo quy
luật cần phải hiểu rõ đặc điểm này để thường xuyên đổi mới, cải tiến tư duy
quản lý giáo dục phù hợp với yêu cầu hiện nay.
1.2.5. Xã hội hoá
Thuật ngữ "xã hội hoá" dùng để chỉ chức năng nguyên thuỷ của giáo
dục (Socialization), được các nhà xã hội học sử dụng để mô tả những phương
cách, các giá trị, các vai trò mà xã hội đã quy ước, tạo cơ sở cho quá trình
hình thành và phát triển nhân cách con người.
Nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhiều cách hiểu, định nghĩa xã hội hoá
khác nhau:
* Xã hội hoá cá nhân: là quá trình biến cá thể người thành cá nhân và
thành nhân cách.
- Xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội.
- Xã hội hoá là sự tương tác, mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con
người, của cộng đồng nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã hội.


14
- XHH là quá trình hội nhập, hoà nhập của cá nhân vào xã hội hay một
nhóm của xã hội thông qua quá trình học và các chuẩn mực và các giá trị xã
hội hay nhóm đó.
* Xã hội hoá xã hội:
"Xã hội hoá các mặt hoạt động xã hội của Nhà nước là huy động mọi
tổ chức, mọi cá nhân tham gia công việc Nhà nước theo khả năng của mình"
[32.Tr.12].

Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện chủ trương đổi mới thì thuật
ngữ xã hội hoá được sử dụng khá phổ biến trong các văn kiện, trong các hội
nghị, hội thảo
Xã hội hoá, trước hết là một xu thế ngược lại của quá trình Nhà nước
hoá và hành chính hoạt động quản lý xã hội.
“Thực chất xã hội hoá là một quá trình tham gia rộng rãi của các tổ
chức xã hội, gia đình và cá nhân vào thực hiện một hoạt động nhất định nào
đó mà hoạt động này trước khi bị xã hội hoá chỉ có một loại chủ thể.” [29,
Tr.309].
Lê Quốc Hùng quan niệm: "Xã hội hoá là việc Nhà nước huy động mọi
cá nhân và tổ chức tham gia thực hiện một số dịch vụ công cộng trên cơ sở có
sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Nhà nước, nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân và giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước" [32, tr.17].
Mặc dù có nhiều lý giải khác nhau, nhưng nhiều công trình nghiên cứu
về xã hội hoá đều thống nhất cho rằng:
"Bản chất của xã hội hoá là cách làm, cách thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham
gia của mọi người dân, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự phối hợp liên ngành
một cách có kế hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Nhà nước,
làm cho việc giải quyết các vấn đề xã hội thực sự là của dân, do dân và vì
dân" [2, tr. 7].
Mặc dù còn tương đối mới mẻ, nhưng chúng ta cần nhận thức đầy đủ
hơn về những đặc điểm xã hội hoá là:


15
- XHH không phải là buông lỏng sự quản lý hoặc từ bỏ chức năng quản
lý thống nhất của Nhà nước mà thực chất là tăng cường sự quản lý Nhà nước
bằng pháp luật.
- Xã hội hoá gắn liền với mở rộng dân chủ, khuyến khích, động viên

tinh thần tự quản, tự chịu trách nhiệm của mọi cá nhân và tổ chức đoàn thể xã
hội. Khắc phục dần tính thụ động, thờ ơ, phó mặc mọi công việc cho cơ quan
chính quyền Nhà nước.
- Xã hội hoá là thu hút mọi tổ chức xã hội, mọi thành phần kinh tế tham
gia thực hiện các dự án phát triển của Nhà nước.
- Quá trình thực hiện chủ trương xã hội hoá được Nhà nước Việt Nam
tiến hành theo các bước phù hợp như sau:
+ Xoá bỏ dần chế độ bao cấp, cơ chế "xin cho".
+ Tách dần hoạt động quản lý kinh doanh khỏi hoạt động quản lý hành
chính của các cơ quan chức năng Nhà nước.
+ Nhà nước không ngừng củng cố các cơ quan dịch vụ công.
+ Nhà nước xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Tất cả những đặc điểm trên thể hiện khá đầy đủ nội dung, vai trò, ý
nghĩa của hoạt động xã hội hoá.
1.2.6. Xã hội hoá giáo dục
Chính nhu cầu lao động để tồn tại và phát triển xã hội mà ra đời giáo
dục, hình thành và hoàn chỉnh hoạt động giáo dục. Lúc bình minh của lịch sử
nhân loại chưa có nền giáo dục dưới hình thức nhà trường mà chỉ có nền giáo
dục từ môi trường gia đình và từ bản thân cuộc sống. Chính nhờ có giáo dục
mà các di sản tư tưởng và kỹ thuật của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau.
Các di sản này được tích lũy ngày càng phong phú, làm cho xã hội không
ngừng đổi mới và phát triển. Chính vì vậy mà giáo dục là hiện tượng đặc biệt,
mang tính phổ biến và vĩnh hằng.
Đặc biệt là vì bất kỳ thời đại nào, giáo dục cũng là điều kiện quyết định
sự tồn tại và phát triển của loài người.
Phổ biến ở chỗ hiện tượng giáo dục có ở mọi lúc, mọi nơi, ở đâu có con
người là ở đó có giáo dục.


16

Vĩnh hằng là nó xuất hiện cùng với xã hội loài người và sau khi ra đời,
nó là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội và không có điểm dưng. Do
đó, giáo dục không bao giờ tách rời khỏi sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Phát triển của giáo dục luôn chịu sự chi phối của trình độ phát triển KT - XH
và ngược lại. Đây chính là bản chất xã hội của giáo dục, là vấn đề cốt lõi, vấn
đề cội nguồn của giáo dục. Điều này khẳng định giáo dục không đứng ngoài
xã hội và xã hội muốn phát triển luôn gắn với giáo dục.
Mặc dù là động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, nhưng để có đủ sức và
lực thực hiện được vai trò (tính chất xã hội) thì giáo dục không thể tự vận
động được mà phải có điều kiện. Điều kiện là môi trường chính trị ổn định,
kinh tế tăng trưởng, xã hội tiến bộ, truyền thống văn hoá tốt đẹp, tinh thần dân
tộc luôn được đề cao khái quát, đó chính là yếu tố thời đại, là chiếc nôi để
giáo dục thực hiện vai trò tính chất xã hội của mình.
Tuỳ theo sự phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ lịch sử cụ thể mà
các nền giáo dục khác nhau về tính chất, về hình thức (cơ cấu, hệ thống mục
tiêu và phương thức hoạt động) và thực hiện đổi mới xã hội.
Chính sự tương tác tạo nên tính chất xã hội của giáo dục, thể hiện mối
quan hệ biện chứng: giáo dục cho xã hội phát triển, xã hội phát triển để cho
giáo dục trở nên tiên tiến hơn.
Qua nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tiễn hoạt động giáo dục,
cho thấy có sự khác biệt rõ ràng về ý nghĩa tính chất xã hội của giáo dục và xã
hội hoá công tác giáo dục. Thực tế nếu tự thân vận động, giáo dục dù không
có định hướng cụ thể rõ ràng vẫn thể hiện tính chất xã hội nhưng không đạt
đến trình độ xã hội hoá đích thực theo ý nghĩa xã hội và nhân văn của nó.
Xã hội hoá giáo dục là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa hoạt
động GD và cộng đồng xã hội, là làm cho GD phù hợp với sự phát triển của
xã hội, thích ứng với xã hội. XHH công tác GD là duy trì sự cân bằng động
giữa hoạt động GD và xã hội sẽ tạo động lực cho việc huy động cộng đồng
tham gia xây dựng và phát triển giáo dục.
Nếu dừng lại ở khái niệm XHHGD thì chỉ hiểu và thừa nhận cái vốn có

của giáo dục, chính là tính chất xã hội của giáo dục chứ chưa tạo ra động lực
mới của hoạt động giáo dục trong một xã hội phát triển tiến bộ.


17
Xã hội hoá giáo dục là cách nói gọn của XHH công tác giáo dục với nội
hàm là phương thức, cách thức, phương châm, cách làm giáo dục, tổ chức và
quản lý giáo dục. Đảng ta chủ trương XHHGD là một tư tưởng chiến lược,
một bộ phận trong đường lối giáo dục của Đảng.
Đặc điểm của xã hội hoá giáo dục là mở rộng quy mô, mở rộng trách
nhiệm GD, chuyển hướng từ GD tinh hoa thành GD đại chúng - GD cho mọi
người - xây dựng xã hội học tập; hoạt động GD từ chỗ là trách nhiệm của
ngành GD, do Nhà nước đảm trách, đến mọi cá nhân, tập thể, cộng đồng cùng
chăm lo (tham gia). Điều đó tạo nên động lực mới và sức mạnh tổng hợp, tính
công bằng xã hội của giáo dục - đào tạo.
Như vậy xã hội hoá giáo dục là quá trình tăng cường tính xã hội của
giáo dục lên tầm cao mới, đa phương hoá nguồn lực, đa dạng hoá các loại
hình đào tạo, cộng đồng hoá trách nhiệm. “XHH giáo dục là một quá trình
dân chủ hoá theo phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ” [29, tr.310].
Phạm Minh Hạc chỉ ra rằng xã hội hoá giáo dục là: "Làm cho xã hội
nhận rõ trách nhiệm đối với giáo dục, giáo dục phục vụ đắc lực cho phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện việc kết hợp giáo dục trong nhà trường và ngoài
nhà trường, tạo điều kiện để giáo dục kết hợp với lao động, học đi đôi với
hành; xã hội hoá giáo dục có quan hệ hữu cơ với dân chủ hoá giáo dục" [26,
Tr.17]
Xã hội hoá giáo dục đã được các quốc gia trên thế giới chú trọng và
được đặt ra nhiều thập kỷ nay, hoạt động XHHGD luôn vận động, luôn phát
triển phù hợp với mọi không gian, thời gian càng ngày càng linh hoạt và
phong phú.

Ở nước ta, xã hội hoá giáo dục là điều kiện cần thiết và tất yếu để phát
triển giáo dục - đào tạo, XHHGD là chủ trương đúng đắn, mang tính chiến
lược của Đảng, một trong những phương diện quan trọng của XHH hoạt động
quản lý nhà nước. "XHH GD là chính sách huy động mọi nguồn lực của nhân
dân, của các tổ chức KT - XH tham gia vào sự nghiệp GD, đầu tư vào hoạt
động GD trên cơ sở phù hợp với khả năng tài chính và trình độ chuyên môn
nhằm xây dựng xã hội học tập" [32, Tr.17].


18
Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX khẳng định: "Thực hiện chủ trương
XHHGD, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng
các quỹ khuyến khích tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục".
[23, Tr.111].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW khoá IX nêu quyết
tâm thực hiện giải pháp: "Đẩy mạnh XHHGD, xây dựng xã hội học tập, coi
GD là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát
triển GD. Nhà nước khuyến khích mọi đóng góp, mọi sáng kiến của xã hội
cho GD". Trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Chính
phủ đã ban hành các văn bản pháp quy và tổ chức thực hiện rộng rãi chủ
trương xã hội hoá giáo dục.
Văn kiện Đại hội X của Đảng: “Thực hiện xã hội hoá giáo dục. Huy
động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp
giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, các tổ
chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp để mở mang giáo dục”[24, Tr.97].
Xã hội hoá giáo dục phải được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể
nhân dân, toàn thể xã hội tham gia vào sự nghiệp GD, làm cho hoạt động GD
trở thành hoạt động chung của toàn xã hội. Nhưng để cho công tác XHHGD
đạt mục tiêu thì phải đặt nó thành hoạt động quản lý để nhà quản lý, tác động
định hướng, điều khiển và kiểm soát các quá trình XHHGD đúng đường lối,

chủ trương, kế hoạch phát triển GD của đất nước, địa phương, đảm bảo các
nguyên tắc quản lý về giáo dục và phù hợp pháp luật.
1.3. Vai trò trƣờng phổ thông ngoài công lập
1.3.1. Vị trí trường phổ thông ngoài công lập
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và thực tiễn đổi mới
đất nước, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đã có những tác động
tích cực đến giáo dục, thúc đẩy nhu cầu học của xã hội ngày càng tăng và đòi
hỏi chất lượng giáo dục ngày càng cao, nhưng khả năng đáp ứng của Nhà
nước có hạn. Do vậy, chủ trương đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục,
tăng cường hình thành và phát triển trường ngoài công lập (dân lập, tư thục),
là xu hướng tất yếu phù hợp với sự phát triển xã hội, thích ứng với chủ trương
phát triển kinh tế nhiều thành phần để thúc đẩy sự cạnh tranh nhằm vận hành
và phát triển sự nghiệp giáo dục.


19
Trường ngoài công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, tuỳ theo hình
thức đầu tư tài chính và tư cách pháp nhân mà xác định loại hình trường dân
lập hay tư thục.
+ Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động.
+ Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng CSVC và đảm bảo kinh
phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách.
Trường phổ thông ngoài công lập bình đẳng với trường công lập về
nhiệm vụ, quyền hạn của nhà trường trong việc tổ chức và hoạt động, thực
hiện mục tiêu giáo dục. Được hưởng quyền lợi, thực hiện nghĩa vụ theo quy
định Nhà nước. Trường phổ thông ngoài công lập chịu sự quản lý trực tiếp
của cơ quan QLGD theo quy chế tổ chức và hoạt động các trường ngoài công
lập; theo quy định điều lệ trường phổ thông.

Trường phổ thông ngoài công lập là hình thức XHH hoạt động giáo dục
điển hình, huy động các nguồn lực XH đầu tư cho giáo dục, tạo động lực phát
triển sự nghiệp GD - ĐT; phù hợp với nền kinh tế hàng hoá, theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu công cuộc CNH, HĐH đất nước.
1.3.2. Vai trò trường phổ thông ngoài công lập
Trường phổ thông ngoài công lập là kết quả của hoạt động xã hội hoá
giáo dục, là biểu hiện chủ trương, chính sách xã hội hoá giáo dục của Đảng và
Nhà nước đã đi vào hiện thực. Ra đời trong giai đoạn hiện nay, trường phổ
thông ngoài công lập đã góp phần:
- Thực hiện chủ trương sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của dân, do dân
và vì dân. Tạo cơ hội cho mọi cá nhân, tổ chức có tâm huyết tham gia làm
giáo dục, chia sẻ trách nhiệm nhà nước, thực hiện bản chất xã hội của giáo
dục. Đồng thời làm cho mục tiêu giáo dục gắn với mục tiêu phát triển KT -
XH theo cơ chế thị trường.
- Đặc tính trường ngoài công lập là năng động, linh hoạt trong quản lý,
điều hành. Trường ngoài công lập ra đời góp phần nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các chủ thể quản lý nhà trường (CBQL - GV), trong xây dựng nề
nếp kỷ cương học đường; nâng cao chất lượng GD và hiệu quả đào tạo.


20
Trường NCL hình thành, vận hành và hoạt động đồng hành với trường công
lập, theo Luật Giáo dục, trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống
giáo dục quốc dân; Để thực chất giữ vai trò nòng cốt, đòi hỏi các chủ thể quản
lý Nhà trường phải thường xuyên nâng cao năng lực quản lý, điều hành, tạo
nên sự cạnh tranh lành mạnh vì sự nghiệp phát triển GD bền vững.
- Với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trường phổ thông ngoài công
lập không bị gò bó, phụ thuộc bởi cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, phát huy
tối đa tinh thần tích cực, năng động, sáng tạo và linh hoạt trong quản lý, điều
hành, tổ chức và hoạt động theo kế hoạch, quy chế tổ chức nhà trường đề ra.

Mục tiêu cuối cùng là chất lượng và hiệu quả giáo dục.
- Trường phổ thông ngoài công lập là loại hình giáo dục mở, do vậy sẽ
tạo điều kiện, cơ hội để mọi thành phần trong xã hội được tham gia đầu tư
giáo dục và mở rộng cơ sở giáo dục ngoài công lập.
- Trường ngoài công lập, góp phần chia sẻ những khó khăn tài chính
của nhà nước, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của người dân. Khắc
phụ mâu thuẫn gay gắt hiện nay là nhu cầu đào tạo của xã hội ngày càng tăng
mà khả năng đáp ứng của nhà nước còn hạn hẹp. Thực hiện tốt mục tiêu cơ
bản của giáo dục - đào tạo là "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài", phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.4. Xã hội hoá giáo dục và quản lý phát triển trƣờng phổ thông ngoài
công lập
1.4.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá giáo dục
Xã hội hoá giáo dục là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất xã
hội vốn có của GD. Chủ trương này ra đời nhằm giải quyết các mâu thuẫn cơ
bản, đó là: mâu thuẫn giữa nguồn lực với yêu cầu về quy mô, chất lượng
nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH và sự hội nhập vào nền
kinh tế tri thức; mâu thuẫn giữa tính chất XHH cao của GD với thực trạng
hoạt động đơn độc hiện nay của giáo dục - đào tạo.
Tư tưởng chiến lược của Đảng và Nhà nước về XHHGD được thể hiện
trong các Nghị quyết: NQ Hội nghị lần thứ tư BCH TW Đảng (khoá VII),
Nghị quyết Hội nghị lần 2 BCH TW Đảng (Khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội
Đảng khoá IX. Mục tiêu của XHHGD là nhằm "Huy động toàn xã hội làm


21
GD, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền GD quốc dân
dưới sự quản lý của Nhà nước" [2, Tr. 61].
Nghị quyết lần 2 Ban chấp hành TW khoá VIII, nêu rõ: "Phát triển GD
là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi công cộng, từng gia đình

và mỗi công dân. Kết hợp giáo dục học đường, giáo dục gia đình, giáo dục xã
hội".
Chiến lược phát triển GD-ĐT (2001-2010) Chính phủ đã chỉ rõ:
XHHGD là quá trình làm cho mọi người có nghĩa vụ xây dựng và tạo điều
kiện cho GD, tham gia vào sự nghiệp GD. Đồng thời chiến lược cũng nhấn
mạnh: đổi mới một cách có hệ thống và đồng bộ, tạo cơ sở nâng cao rõ rệt
chất lượng và hiệu quả giáo dục, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, chấn hưng đất nước; đưa GD thành một nền GD thực tiễn, đại
chúng và hiệu quả, theo phương châm đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá,
xã hội hoá, tạo bước phát triển mạnh về phát triển nguồn nhân lực. Do vậy,
thực hiện XHHGD nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân vào GD, là
điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện GD, đưa hoạt động GD - ĐT tiến
nhanh, tiến kịp sự tiến bộ của khoa học - công nghệ, góp phần thức đẩy sự
phát triển nhanh và bền vững của xã hội Việt Nam trong thế kỷ 21.
Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1997 và Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày
18/4/2005 của Chính phủ đã triển khai cụ thể hoá quan điểm: XHHGD là quá
trình giáo dục hoá xã hội, vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân
dân, của toàn xã hội vào phát triển sự nghiệp giáo dục làm cho xã hội trở
thành một xã hội học tập; là sự cộng đồng trách nhiệm để tạo lập và phát triển
môi trường giáo dục lành mạnh; là đa dạng hoá sự đầu tư vào các loại hình
giáo dục, các hình thức giáo dục dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước.
Quan điểm này là sự kế thừa, phát triển và cụ thể hoá tư tưởng giáo dục
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải
phát huy đầy đủ tính dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng mối quan hệ thật tốt,
đoàn kết giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa
nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó"[39, Tr. 258].
Chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng được thể chế hoá vào Hiến
pháp 1992, tại điều 36: "Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm:

×