Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Những biện pháp tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý ở trường cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 109 trang )



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TRANG
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
4. Giả thuyết khoa học
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
6. Phạm vi nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc tổ chức ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý
6
1.1. Lịch sử nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
6
1.1.1. ứng dụng công nghệ thông tin trên thế giới
6
1.1.2. ứng dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam
7
1.2. Một số khái niệm cơ bản
9
1.2.1. Khái niệm quản lý


9
1.2.2. Quản lý giáo dục
15
1.2.3. Quản lý Nhà trường
17
1.2.4. Khái niệm tổ chức
20
1.3. ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý
21
1.3.1. Khái niệm công nghệ
21
1.3.2. Khái niệm thông tin
22
1.3.3. Khái niệm thông tin quản lý
23
1.3.4. Khái niệm công nghệ thông tin
23
1.4. Tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý
27
1.5. Dự báo ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý giáo dục
ở Việt Nam hiện nay
28
Chương 2: Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin ở
trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I
31
2.1. Vài nét khái quát về trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật
Công nghiệp I
31
2.1.1. Đặc điểm của nhà trường
31

2.1.2. Tổ chức bộ máy của Nhà trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ
34


thuật Công nghiệp I
2.1.3. Cơ cấu ngành nghề
36
2.1.4. Quy mô đào tạo của trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật
Công nghiệp I
38
2.2. Điều kiện địa lý, môi trường xã hội, nguồn nhân lực và cơ
sở vật chất của trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công
nghiệp I
40
2.2.1. Điều kiện địa lý, môi trường xã hội
40
2.2.2. Điều kiện về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất
41
2.3. Thời cơ, thách thức của nhà trường trong bối cảnh hiện nay
47
2.4. Thực trạng công tác tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin
ở trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I
48
2.4.1. Quy định, chế độ chính sách cho việc ứng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông
48
2.4.2. Tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông
49
2.4.3. Cơ sở vật chất phục vụ ứng dụng công nghệ thông tin

53
2.4.4. ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý ở
trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I
56
2.5. Đánh giá chung
58
Chương 3: Các biện pháp tổ chức ứng dụng công nghệ
thông tin vào công tác quản lý ở trường Cao đẳng Kinh tế –
Kỹ thuật Công nghiệp I
60
3.1. Cơ sở để đề xuất biện pháp
60
3.1.1. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý
60
3.1.2. Các quan điểm chỉ đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo và các
cơ quan ban ngành
62
3.1.3. Thực tiễn tại trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công
nghiệp I
63
3.2. Đề xuất một số biện pháp tổ chức ứng dụng công nghệ
thông tin vào công tác quản lý ở trường Cao đẳng Kinh tế-Kỹ
thuật Công nghiệp I
64


3.2.1. Nâng cao ý chí của lãnh đạo trong công tác tổ chức ứng
dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý
64

3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Nhà trường
65
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên về mọi
mặt đặc biệt là bồi dưỡng trình độ tin học
67
3.2.4. Quản lý chặt chẽ việc ứng dụng công nghệ thông tin
71
3.2.5. Dùng công nghệ thông tin làm phương tiện hỗ trợ công
tác quản lý
73
3.2.6. Tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý
74
3.2.7. Xây dựng đội ngũ chuyên gia cung cấp thông tin tư vấn
cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xây dựng
mối quan hệ giữa nhà trường với các nhà sản xuất phần mềm
75
3.2.8. Xây dựng cơ sở dữ liệu chung cho các phần mềm quản lý
78
3.2.9. Hiện đại hoá cơ sở vật chất, thiết bị cho việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong quản lý
80
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp
80
3.4. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp đề xuất
81
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
85

1. Kết luận
85
2. Khuyến nghị
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
Phô lôc




BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1.
QL
:
Quản lý
2.
QLGD
:
Quản lý giáo dục
3.
KHQL
:
Khoa học quản lý
4.
CB
:
Cán bộ
5.
CBQL

:
Cán bộ quản lý
6.
GV
:
Giáo viên
7.
CNV
:
Công nhân viên
8.
KH-KT
:
Khoa học - Kỹ thuật
9.
LĐ-XH
:
Lao động – Xã hội
10.
CNTT
:
Công nghệ thông tin
11.
CNTT&TT
:
Công nghệ thông tin và Truyền thông
12.
CSDL
:
Cơ sở dữ liệu

13.
HTTT
:
Hệ thống thông tin
14.
HTTTQL
:
Hệ thống thông tin quản lý
15.
GD-ĐT
:
Giáo dục và Đào tạo
16.
CN
:
Công nghiệp
17.
CĐ KTKTCNI
:
Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Công
nghiệp I
18.
TCCB-HSSV
:
Tổ chức cán bộ – Học sinh sinh viên
19.
HSSV
:
Học sinh sinh viên
20.

QLKH
:
Quản lý khoa học
21.
TCKT
:
Tài chính kế toán
22.
NXB
:
Nhà xuất bản


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới ngày nay đang có sự biến đổi nhanh chóng và sâu sắc về cả
đời sống vật chất và tinh thần. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát
triển với những bước tiến nhảy vọt đưa thế giới từ kỷ nguyên công nghiệp
sang kỷ nguyên thông tin và phát triển nền kinh tế tri thức. Toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, vừa là quá trình hợp tác
để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo
vệ lợi ích quốc gia. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ, sự
phát triển năng động của nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hoá
đang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các
nước trở lên hiện thực hơn và nhanh chóng hơn. Khoa học – công nghệ trở
thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế – xã hội. Giáo dục là nền
tảng của sự phát triển khoa học - công nghệ, là nền tảng của sự phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của của xã hội hiện đại và đóng vai trò
chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng

lực của các thế hệ hiện nay và mai sau. Do đó hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của ngành giáo dục và
đào tạo, phải đổi mới giáo dục và đào tạo theo xu hướng phát triển chung
của thế giới và trong đó quản lý giáo dục và đào tạo đóng vai trò then chốt
cho sự thành bại của công tác này.
Nhìn lại Việt Nam trong những năm gần đây, lấy quan điểm xây
dựng và phát triển đất nước trên cơ sở nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa chúng ta đã có những bước tiến vượt bậc trong phát triển
kinh tế, chính trị, văn hoá cũng như ổn định trong xã hội. Chúng ta đã sẵn
sàng hội nhập với quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mà mốc son là sự kiện
Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ tháng


2
01 năm 2007. Sự kiện này đã đem lại cho chúng ta rất nhiều vận hội mới về
phát triển nền kinh tế xã hội, tuy nhiên nó cũng tạo ra những thách thức rất
lớn cho chúng ta trong công tác quản lý cũng như cung cấp nguồn nhân lực
có trình độ chuyên môn cao đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải có những đáp ứng kịp thời tránh sự
thiếu hụt gây xáo trộn lớn trong xã hội.
Xác định đúng đắn về mục tiêu, phương hướng trong công cuộc đổi
mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác giáo dục và
đào tạo. Hiến phát nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
ghi rõ “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đặc biệt với công tác
quản lý, Nghị quyết lần thứ hai BCHTW Đảng khoá VIII chỉ rõ “Quan tâm
đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân các
doanh nghiệp. Kiện toàn hệ thống chính trị và hành chính. Tăng cường đào
tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp ngành” và “Đổi
mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp trấn chỉnh và nâng cao năng
lực quản lý Giáo dục và Đào tạo”. Đồng thời nghị quyết còn khẳng định:

“Chất lượng và hiệu quả Giáo dục và Đào tạo còn thấp”, “Công tác quản lý
Giáo dục và Đào tạo có những yếu kém, bất cập”, trong đó đổi mới công
tác quản lý Giáo dục và Đào tạo là một trong bốn giải pháp mà nghị quyết
đã nêu ra.
Hoà trong dòng chảy của hội nhập quốc tế, Giáo dục và Đào tạo
cũng phải chuyển mình thay đổi để đáp ứng được với những nhiệm vụ mới,
yêu cầu mới của ngành mà điểm nhấn quan trọng nhất là trong quản lý giáo
dục. Muốn vậy phải có những thay đổi cả về phương thức cũng như về
phương tiện quản lý. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, kinh tế
thông tin thì việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
(CNTT&TT) vào trong quản lý là một điều tất yếu phải thực hiện. Tuy
nhiên với những đặc thù riêng của ngành công nghệ thông tin (CNTT) việc
áp đặt những phương thức, những biện pháp quản lý theo phương thức sản


3
xuất cũ là không phù hợp. Cụ thể là sự thất bại của đề án 112 (Đề án tin
học hoá quản lý hành chính Nhà nước) mới đây cùng với những hoạt động
chưa đem lại hiệu quả mong muốn khi ứng dụng CNTT trong quản lý nhà
trường nói chung và tại trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I
nói riêng đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài “Những biện pháp tổ chức ứng
dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý ở trường Cao đẳng Kinh
tế – Kỹ thuật Công nghiệp I” với mong muốn chỉ ra được những tồn tại
trong ứng dụng CNTT trong quản lý nhà trường và đưa ra những biện pháp
tổ chức triển khai phù hợp để ứng dụng CNTT vào công tác quản lý đạt
hiệu quả cao góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn để đề xuất một số biện
pháp tổ chức ứng dụng Công nghệ thông tin vào công tác quản lý ở trường
Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu:
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý ở trường Cao đẳng
Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I.
Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
quản lý ở trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I.
4. Giả thuyết khoa học
Chúng tôi giả định rằng ứng dụng CNTT vào công tác quản lý bước
đầu đã được triển khai ở trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp
I song chưa sâu sắc và chưa rộng khắp trong các lĩnh vực hoạt động của
Nhà trường. Nếu có những biện pháp tổ chức ứng dụng CNTT vào công tác
quản lý một cách khoa học thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác
quản lý Nhà trường là cơ sở để đưa chất lượng đào tạo của nhà trường ngày
càng tốt hơn.


4
. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về công nghệ thông tin, ứng
dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà trường.
- Khảo sát thực trạng việc tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin vào
công tác quản lý và nguyên nhân của thực trạng đó ở trường Cao đẳng
Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I.
- Đề xuất một số biện pháp tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin
vào công tác quản lý ở trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I
từ năm 2001 đến năm 2006.
6. Phạm vi nghiên cứu
Các số liệu được sử dụng nghiên cứu trong đề tài từ năm 2001 đến
năm 2006 ở trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tìm hiểu khái niệm, thuật ngữ có liên quan.
- Nghiên cứu các văn bản, các chủ trương, chính sách của Nhà nước,
Bộ, Ngành, Địa phương có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Tham khảo các bài luận văn cùng chuyên ngành và các bài giảng
của các giáo sư, tiến sĩ về quản lý giáo dục.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát (công tác ứng dụng CNTT vào quản lý ở
trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I).
- Phương pháp điều tra: Sử dụng mẫu phiếu điều tra đối với cán bộ,
giáo viên và công nhân viên về công tác tổ chức ứng dụng CNTT vào quản
lý ở Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp I.
- Phương pháp chuyên gia: Thu thập ý kiến đánh giá của các chuyên
về ứng dụng CNTT vào công tác quản lý ở trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ
thuật Công nghiệp I hiện nay và các ý kiến đánh giá về các biện pháp tổ
chức mà tác giả đề xuất.


5
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu sự hoạt
động của hệ thống CNTT hiện có của Nhà trường. Những kết của mà hệ
thống đã đem lại cũng như những tồn tại hạn chế của hệ thống.
7.3. Nhóm phương pháp bổ trợ
- Phương pháp thống kê toán học: Trên cơ sở các con số thống kê
đưa ra những đánh giá, kết luận và đề xuất biện pháp.


6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC ỨNG DỤNG

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ
1.1. Lịch sử nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
1.1.1. Ứng dụng công nghệ thông tin trên thế giới
Trên thế giới, các nước có nền giáo dục phát triển đều chú trọng đến
ứng dụng công nghệ thông tin như: Australia, Canada, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore, Mỹ Để có được ứng dụng CNTT như ngày nay họ đã
có một quá trình nghiên cứu và phát triển lâu dài cũng như đã trải qua rất
nhiều các dự án, các chương trình quốc gia về tin học hoá cũng như ứng
dụng CNTT vào các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặc biệt là sự ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục. Họ coi đây
là vấn đề then chốt của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, là chìa khoá để
xây dựng và phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, tăng
trưởng nền kinh tế để xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức, hội nhập
với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Vì vậy họ đã thu được
những thành tựu rất đáng kể trong các lĩnh vực như: Điện tử, sinh học, y tế,
giáo dục, cụ thể:
Ở Australia vào tháng 3 năm 2000, Hội đồng Bộ trưởng đã ửng hộ
hướng đi được trình bày trong tài liệu “Cơ cấu chiến lược cho nền kinh tế
thông tin”, tài liệu này bao gồm hai mục tiêu giáo dục trường học bao quát
cho nền kinh tế thông tin, đó là:
Một là: Tất cả mọi học sinh sẽ rời trường học như những người sử
dụng tin cậy, sáng tạo và hiệu quả những công nghệ mới, bao gồm CNTT
và viễn thông, và những học sinh này cũng ý thức được tác động của ngành
công nghệ này đối với xã hội.
Hài là: Tất cả các trường đều hướng tới việc kết hợp CNTT và viễn
thông vào trong hệ thống của họ, để cải thiện khả năng học tập của học sinh


7
để đem lại nhiều cơ hội học tập hơn cho người học và làm tăng hiệu quả

của việc thực tập kinh doanh của họ”.
Tại Canada, gần đây đây việc giới thiệu phần mềm dạy toán học trên
cơ sở máy tính (The learning Equation Mathematic) đã đem lại thành tích
nổi bật cho những em học sinh lớp 9 trong kiến thức về toán học và những
kỹ năng liên quan đến số học, mô hình và hình dạng so với những em học
sinh sử dụng sách giáo khoa truyền thống. Một nghiên cứu gần đây của
Canada cũng chỉ ra rằng những học sinh lớp 8 mà giáo viên có sử dụng
máy vi tính để mô phỏng và ứng dụng đạt được những suy nghĩ có tổ chức
hơn và biểu hiện tốt hơn so với những học sinh không được học trên máy
tính.
1.1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây cũng đã rất trú trọng đến việc
ứng dụng công nghệ kỹ thuật trong quản lý đặc biệt là CNTT như chương
trình quốc gia về CNTT (1996 – 2000) và Đề án thực hiện về CNTT tại các
cơ quan Đảng (2003 – 2005) ban hành kèm theo Quyết định 47 của Ban Bí
thư TW Đảng. Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước (2001 –
2005) ban hành kèm theo Quyết định sô 112/2001/QĐ-TTg ngày
25/07/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt quan trọng ngày 29 tháng 6
năm 2006 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 trên cơ sở Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ
sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 11 năm 2001 của
Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10.
Bên cạnh đó là hàng loạt các dự án tin học hoá quản lý hành chính,
quản lý sản xuất kinh quanh của các Bộ, ban ngành, các đơn vị, các doanh
nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Việc
triển khai ứng dụng CNTT trong quản lý bước đầu đã đem lại những hiệu


8

quả thiết thực trong công tác quản lý của các cơ quan, các ban ngành và các
doanh nghiệp.
Gần đây đã có rất nhiều những bài viết, những cuộc hội thảo và đề
tài khoa học nghiên cứu về ứng dụng CNTT trong quản lĩnh vực giáo dục ở
nước ta, chẳng hạn như:
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, bài viết “ứng dụng CNTT
trong giáo dục - 8 bài học kinh nghiệm quốc tế”
Hội thảo “ứng dụng Công nghệ thông tin vào công tác quản lý và
khai tác tài liệu ở thư viện” – Thư viện tỉnh Phú Yên ngày 7/7/2006
Hội thảo khoa học toàn quốc “Các giải pháp công nghệ và quản lý
trong ứng dụng CNTT-TT vào đổi mới phương pháp dạy - học”
Dự án “Hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục SREM”
PGS.TS Đào Thái Lai “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
ở trường phổ thông Việt Nam”
GS.TSKH Đỗ Trung Tá “Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông để đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam”.
Lưu Anh Kỳ - Phó giám đốc trung tâm nghe nhìn giáo dục - “Đổi
mới phương pháp dạy học trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin”
Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công nghiệp I đã có một số
công trình nghiên cứu, một số đề tài về ứng dụng CNTT, chủ yếu trong lĩnh
vực giảng dạy và quản lý đào tạo của Nhà trường. Quá trình ứng dụng
CNTT ở Nhà trường đã được tiến hành ngay khi nền công nghệ thông tin
non trẻ được biết đến ở nước ta. Bước đầu là việc đưa môn tin học thành
môn học chính thức trong chương trình dạy học, tiếp đó là việc ứng dụng
các phần mềm trong việc quản lý đào tạo, quản lý tuyển sinh, quản lý cán
bộ khoa học, quản lý tài chính song tất cả những ứng dụng đó đều xuất
phát từ nhu cầu thực tiễn của công tác Nhà trường, chưa có một đề tài hoàn
chỉnh nào về tổ chức ứng dụng CNTT vào công tác quản lý Nhà trường.
Chính vì vậy việc nghiên cứu để tìm ra các biện pháp tổ chức ứng dụng



9
CNTT vào công tác quản lý ở Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Công
nghiệp I là rất cán thiết trong tiến trình phát triển Nhà trường.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm quản lý
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động.
Người Trung Quốc có câu “ Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư”. Nghĩa
là có ba người cùng đi thì trong đó có một người là thầy của mình. Trong
trường hợp trên nghĩa là tồn tại sự quản lý.
Khái niệm quản lý được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, hoạt động quản lý được hình thành từ sự phân công hợp
tác lao động, từ sự xuất hiện của tổ chức cộng đồng với nhu cầu hướng tới
đạt hiệu quả tốt hơn. Do vậy xuất hiện người quản lý và sự quản lý.
Thuật ngữ “quản lý” (từ Hán Việt) gồm hai quá trình tích hợp nhau:
Quá trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”;
quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ vào thế “phát triển”.
Vì vậy nếu người chỉ huy chỉ biết lo việc “quản” thì tổ chức sẽ trì trệ, nếu
chỉ quan tâm đến “lý” thì phát triển không bền vững. Do đó trong “quản”
phải có “lý” và trong “lý” phải có “quản” nhằm làm cho hệ ở thế phát triển
cân bằng, vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong môi trường
tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) và các nhân tố bên ngoài
(ngoại lực).
Hoạt động quản lý không thể nhắc tới tư tưởng sâu sắc của Các Mác
“một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng”. Như vậy quản lý là điều khiển, là chỉ huy, là tổ chức, là
hướng dẫn, là phối hợp quá trình hoạt động của con người trong các tổ
chức xã hội.
Tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau người ta đưa ra các định nghĩa khác
nhau về quản lý



10
* Quan niệm về quản lý của các tác giả nước ngoài:
- Nhà thực hành quản lý lao động và nghiên cứu quá trình lao động
F.Taylor cho rằng: "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần
làm và làm cái đó bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất" [21, tr.100].
- Với nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp, H. Fayol thì "Quản lý
là sự dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra.
Đó chính là các chức năng cơ bản của nhà quản lý" [21, tr.106].
- Theo tác giả người Mỹ, H.Koontz và những người khác: “Quản lý
là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với
nhau trong các nhóm, có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã
định” [62, tr.19]
* Quan niệm về quản lý của các tác giả Việt Nam:
- Quản lý theo Tự điển Tiếng Việt thông dụng ( NXB Giáo Dục 1998)
là: Tổ chức, hoạt động của một đơn vị, cơ quan;
- Theo các tác giả của giáo trình khoa học quản lý của Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Kinh tế Hà Nội 2004, quản
lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
- Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS. Nguyễn Quốc Chí định
nghĩa về quản lý là "tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản
lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong một tổ
chức- nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích tổ chức" [
tr.1]. Hiện nay, khái niệm này được định nghĩa một cách rõ hơn: "Quản lý
là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra." [ tr.1]
- Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang định nghĩa quản lý như sau: "Quản
lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể

những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được
những mục tiêu đã dự kiến." [ tr.24]


11
Như vậy, các định nghĩa về quản lý đều tập trung vào hiệu quả công
tác quản lý. Hiệu quả đó phụ thuộc vào các yếu tố: chủ thể quản lý, khách
thể quản lý và mục đích công tác quản lý nhờ công cụ và phương pháp
quản lý. Mục đích hay mục tiêu chung của công tác quản lý có thể do chủ
thể quản lý áp đặt, do yêu cầu khách quan của xã hội hay do sự cam kết,
thoả thuận giữa chủ thể và khách thể quản lý, từ đó nảy sinh các mối quan
hệ tác động quản lý tương hỗ với nhau giữa chủ thể và khách thể quản lý.
Từ những khái niệm trên “Quản lý” có thể khái quát như sau:
Quản lý là sự tác động một cách liên tục có tổ chức, có định hướng
của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển, liên kết
các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất, điều
hoà hoạt động của các khâu, các cấp sao cho phù hợp với quy luật để đạt
đến mục tiêu đã xác định.
Qua khái niệm quản lý ta thấy: quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai
bộ phận chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, đây là quan hệ ra lệnh – phục
tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
+ Chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) đề ra mục tiêu
dẫn dắt, điều khiển các đối tượng quản lý để đạt mục tiêu định sẵn.
+ Khách thể quản lý (đối tượng quản lý) Con người (được tổ chức
thành một tập thể, một xã hội …) thế giới vô sinh (các trang thiết bị) hữu
sinh (vật nuôi, cây trồng ).
Cơ chế quản lý những phương thức mà nhờ đó hoạt động quản lý
được thực hiện và quan hệ tương tác qua lại giữa chủ thể quản lý và khách
thể quản lý được vận hành điều chỉnh.
Mục tiêu chung cho cả đối tượng quản lý và chủ thể quản lý là căn cứ

chủ thể quản lý để tạo ra hoạt động quản lý.
Công cụ quản lý là các phương tiện (khách quan và chủ quan) mỗi chủ
thể quản lý dùng nó để tác động vào quá trình quản lý thông qua chức năng
quản lý bao gồm:


12
+ Chế định luật là chính sách qui định về mục tiêu về nội dung về
phương pháp, tổ chức thực hiện, các chính sách, chế độ qui định đối với
các hoạt động trong hoạt động quản lý
+ Các chế định được xây dựng từ đường lối chủ trương của Đảng
và Nhà nước từ các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển xã
hội. Song thực tiễn luôn luôn biến đổi khi đó chủ trương đường lối cũng
thay đổi, các chế định cũ không còn phù hợp, không phát huy được tác
động tích cực trong quản lý và sự phát triển xã hội thì phải sửa đổi. Điều
này đòi hỏi người quản lý phải luôn nắm vững các chế định để vận dụng
một cách thích hợp. Hay nói cách khác: Quản lý là sự tác động, mang tính
chủ quan nhưng phải phù hợp với quy luật khách quan.
+ Thiết chế bộ máy để thực hiện thì công cụ tổ chức là rất cần thiết
đối với người quản lý. Nó giúp xây dựng một cơ cấu, bộ máy thích hợp cho
công việc, cải tiến bộ máy hoạt động có hiệu quả hơn, giúp giảm thiểu
những việc làm không hiệu quả.
Các nguồn lực bao gồm nhân lực, tài lực, vật lực.
+ Nhân lực con người là lực lượng quan trọng nhất. Bởi vì Quản lý
bao giờ cũng là quản lý con người.
+ Vật lực bao gồm tất cả vật tư, trang thiết bị tài sản cố định phục
vụ cho việc thực hiện một nhiệm vụ công tác.
+ Tài lực là vốn đầu tư tài chính bao gồm ngân sách nhà nước, tư
nhân và có thể là nguồn tài trợ từ nước ngoài.
Từ những dấu hiệu chung ta có thể khái quát cấu trúc hệ thống quản lý

bao gồm các yếu tố trong sơ đồ sau:


13
Sơ đồ 1. Cấu trúc hệ thống quản lý







Hoạt động quản lý bao gồm 4 chức năng cụ thể:
- Chức năng lập kế hoạch: Là quá trình xác định mục tiêu, xác định
các bước đi để đạt được mục tiêu. Như vậy thực chất của lập kế hoạch là
đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch hóa với mục đích,
biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các điều kiện cung
ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
- Chức năng tổ chức: Là quá trình tổ chức sắp xếp, liên kết giữa các
yếu tố công việc – con người – bộ máy sao cho phù hợp ăn khớp với nhau
cả trong nội bộ từng yếu tố. Yếu tố trung tâm của tổ chức là con người. Bố
trí con người phải phù hợp với công việc. Tổ chức bộ máy phải lệ thuộc
quy mô, tính chất của các mối quan hệ giữa người và việc. Toàn bộ hoạt
động của bộ máy cuối cùng phải đạt hiệu quả cao, vì lợi ích của con người.
- Chức năng điều hành (chỉ huy): Là hoạt động dẫn dắt, điều khiển của
người quản lý đối với các hoạt động của các thành viên của tổ chức để đạt
được mục tiêu quản lý. Điều hành là hoạt động thường xuyên mang tính kế
thừa và phát triển.
- Chức năng kiểm tra: Quản lý mà không có kiểm tra không gọi là
quản lý. Kiểm tra là chức năng quan trọng của quản lý, Kiểm tra chính là

thiết lập mối quan hệ ngược trong quản lý. Kiểm tra bao gồm các yếu tố cơ

Mục tiêu quản lý
Chủ thể quản lý
Khách thể quản lý
MÔI TRƯỜNG QUẢN LÝ


14
bản: Xem xét, thu thập thông tin ngược, đánh giá việc thực hiện công việc
theo chuẩn, nếu có sai lệch phải uốn nắn, điều chỉnh.
Các chức năng quản lý có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mối quan
hệ đó được minh họa theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2. Mối quan hệ các chức năng quản lý








Bốn chức năng này giúp cho nhà quản lý thực hiện nhiệm vụ của
mình. Muốn vậy người quản lý phải luôn nắm bắt thông tin, xử lý thông tin
và tiến hành việc quản lý theo 4 chức năng trên để dẫn dắt tổ chức, cơ sở
đến mục tiêu cần đạt được trên cơ sở thông tin là mạch máu của quản lý.
Trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội đều có sự
tham gia của hoạt động quản lý như: Quản lý nhà nước, quản lý giáo dục,
quản lý doanh nghiệp, quản lý nhà trường … mỗi lĩnh vực quản lý có đặc
thù riêng song nó đều có những nét cơ bản, đặc trưng chung của cả họat

động quản lý và chính hoạt động quản lý luôn góp phần quyết định vào
việc nâng cao chất lượng hiệu quả của từng tổ chức, của từng con người
trong một hệ thống nhất định.
Với cách hiểu trên dễ dàng nhận thấy quản lý bao gìơ cũng tồn tại với
tư cách là một hệ thống và có liên quan đến nhiều yếu tố. Vì vậy Quản lý
không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật và hoạt động quản lý
Lập kế hoạch
Chỉ đạo
Kiểm tra
Tổ chức


15
vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có tính pháp luật Nhà
nước, vừa có tính xã hội rộng rãi … chúng là những mặt đối lập trong một
thể thống nhất.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài
người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn
hoá dân tộc, nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó không ngừng
tiến lên. Hay nói cách khác Giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu
những kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người, về hoạt động
giáo dục, giáo dục là quá trình tác động của xã hội và của nhà giáo dục đến
đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách.
Các nhà lý luận đã có nhiều công trình nghiên cứu và đưa ra những
khái niệm về quản lý giáo dục dưới những góc độ khác nhau:
Trong cuốn: “ Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục”, tác giả
M.I. Kônđacốp định nghĩa: “ Quản lý giáo dục là tập hợp các biện pháp tổ
chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính nhằm đảm bảo sự vận hành

bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển
và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như mặt chất lượng”.
Theo X.Tgroup Lewin: Quản lý giáo dục là quá trình nghiên cứu khoa
học về các sự kiện và phương pháp tham gia và quyết định tổ chức hoạt
động giáo dục và khoa học quản lý chương trình giáo dục.
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Nguyễn Quốc Chí cho rằng:
"Quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật
khách quan của các cấp quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống
giáo dục nhằm làm cho hệ thống đạt được mục tiêu của nó" .
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “ Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát
là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh
mẽ công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”.


16
Theo Nguyễn Ngọc Quang: Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
các tính chất của nhà trường XHXN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất.
Tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu: “Quản lý giáo dục là quản lý trường
học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ
và với từng học sinh”.
Theo UNESCO: Quản lý giáo dục là cách thức điều hành hệ thống
giáo dục, nhất là các quy trình, thủ tục, quy định, quy chế … và cách thức
vận hành của hệ thống giáo dục, tất cả các cấu phần hoạt động của hệ
thống.

Quản lý giáo dục gồm 3 lĩnh vực:
+ Quản lý chính sách (hoạch định chính sách, lập kế hoạch, thực hiện
chính sách và phân bổ nguồn lực).
+ Quản lý hành chính (sử dụng nguồn lực tài chính, con người và vật
chất).
+ Quản lý sư phạm (sử dụng giáo viên, tổ chức quá trình dạy học, quá
trình giáo dục, thành tích và kết quả học tập).
Qua các định nghĩa trên ta có thể khái quát: Quản lý giáo dục là hệ
thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm tổ chức điều khiển hoạt động của khách thể quản lý thực hiện các
mục tiêu giáo dục đề ra. Quản lý giáo dục từ cấp vĩ mô đến tầm vi mô đều
hướng tới sử dụng có hiệu quả những nguồn lực dành cho giáo dục để đạt
được kết quả (đầu ra) có chất lượng cao nhất.
Quản lý giáo dục có các đặc điểm sau:


17
- Quản lý giáo dục gắn liền với quản lý con người, đặc biệt là lao động
sư phạm của người giáo viên. Đặc thù lao động người giáo viên mà đối
tượng lao động sư phạm là người học với những đặc điểm về tâm sinh lý
lứa tuổi hết sức phức tạp. Người học vừa là đối tượng của hoạt động giáo
dục vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục, do đó kết quả giáo dục không
chỉ phụ thuộc vào bản thân nhà giáo mà còn phụ thuộc vào thái độ của
người học. Đây chính là điểm khác biệt của lao động sư phạm so với lao
động xã hội nói chung
- Sản phẩm của giáo dục là nhân cách, là sản phẩm có tính đặc thù nên
quản lý giáo dục phải ngăn ngừa sự rập khuôn, máy móc trong việc tạo ra
sản phẩm cũng như không được phép tạo ra phế phẩm.
- Quản lý giáo dục đòi hỏi những yêu cầu cao về tính toàn diện, tính
thống nhất, tính liên tục, tính kế thừa, tính phát triển…

- Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Quản lý giáo dục phải quán
triệt quan điểm quần chúng. Trong quản lý giáo dục, các hoạt động hành
chính nhà nước và quản lý sự nghiệp, chuyên môn đan xen vào nhau, thâm
nhập lẫn nhau không thể tách rời, tạo thành hoạt động quản lý giáo dục
thống nhất.
Nội dung quản lý giáo dục là quản lý các yếu tố cấu thành của hệ
thống giáo dục bao gồm: Mục tiêu giáo dục; Nội dung giáo dục; Phương
pháp giáo dục; Tổ chức giáo dục; ; Người dạy; Người học; Trường sở và
trang thiết bị dạy học; Môi trường giáo dục, các lực lượng giáo dục; Kết
quả giáo dục.
Bản chất của quản lý giáo dục là quản lý quá trình sư phạm, quá trình
dạy và học diễn ra ở các cấp học các trình độ đào tạo và tất cả các cơ sở
giáo dục.
1.2.3. Quản lý Nhà trường
Nhà trường là một thể chế xã hội – Nhà nước, là một đơn vị tổ chức
hoàn chỉnh, một cơ quan giáo dục chuyên biệt thực hiện chức năng giáo


18
dục - đào tạo của Nhà nước và cộng đồng xã hội chuẩn bị cho thế hệ mới
bước vào cuộc sống.
Quản lý nhà trường là một phạm vi cụ thể của quản lý hệ thống giáo
dục. Theo Phạm Minh Hạc: Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào
tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ, với từng học sinh.
Theo Phạm Viết Vượng: Quản lý trường học là lao động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các lao động của giáo viên và các
lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục
để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trong nhà trường.

Chức năng chủ yếu của nhà trường là dạy học và giáo dục, chức năng
đó cần được quy chế hóa một cách chặt chẽ thông qua kế hoạch đào tạo.
Việc xây dựng nền nếp dạy và học nhằm mục đích đảm bảo các kế hoạch,
quy chế đào tạo trên cơ sở các kế hoạch, quy chế đó mà xây dựng môi
trường sư phạm lành mạnh, hấp dẫn với kỷ luật tự giác và tình cảm trách
nhiệm cao, xây dựng mối quan hệ cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau, học hỏi lẫn
nhau của giáo viên và học sinh cũng như khơi dậy và khuyến khích tính tự
giác, tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập của sinh viên. Mục đích
cuối cùng của hoạt động này là nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá
trình giáo dục - đào tạo trong nhà trường.
Theo PGS – Tiến sỹ Đặng Quốc Bảo, để mô hình hoá “nhà trường”
người ta thường quan tâm đến 10 yếu tố hạt nhân hình thành và phát triển
quá trình đào tạo bao gồm:
+ Mục tiêu đào tạo (M).
+ Nội dung đào tạo (tri thức) (N).
+ Phương pháp đào tạo. (P).
+ Lực lượng đào tạo (thầy). (Th)
+ Đối tượng đào tạo (trò). (Tr)


19
+ Hình thức tổ chức đào tạo. (H)
+ Điều kiện đào tạo. (Đ)
+ Môi trường đào tạo. (M
ô
)
+ Quy chế đào tạo. (Q
i
)
+ Bộ máy đào tạo. (B

ô
)
Mười nhân tố trên liên hệ tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau,
quy định lẫn nhau tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa chúng. Các nhân
tố đó đều hướng vào trung tâm đó là sự phát triển của nhà trường. Mô hình
dưới đây có thể khái quát mối quan hệ của 10 nhân tố trên:
Sơ đồ 3. 10 yếu tố của quá trình đào tạo








Do đó, công tác công tác quản lý hoạt động dạy học và các hoạt động
liên quan của nhà trường là quá trình chỉ huy, điều khiển các yếu tố và mối
liên hệ đó nhằm đưa các hoạt động giáo dục của nhà trường vận hành theo
đúng quy luật.
Quản lý nhà trường là một hệ thống hoạt động có mục đích có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho nhà trường vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thể hiện tính chất
nhà trường XHCN, mà điểm hội tụ là hoạt động dạy học, giáo dục thế hệ
trẻ nói riêng và người học nói chung.


H
M
P
N



Tr
Th
Đ
M
Qi
T


20
Như vậy Quản lý xã hội lấy tiêu điểm là quản lý giáo dục (giáo dục là
quốc sách hàng đầu) thì quản lý giáo dục phải coi nhà trường là nút bấm
(quản lý lấy nhà trường làm nền tảng) và quản lý nhà trường phải lấy quản
lý hoạt động dạy học là khâu cơ bản. Quản lý hoạt động dạy học là tác
động hợp quy luật của chủ thể quản lý dạy học bằng các quy định pháp lý
về giáo dục - đào tạo, bộ máy tổ chức, nhân lực, nguồn lực, tài lực dạy học
và thông tin, môi trường dạy học nhằm đạt được mục tiêu quản lý dạy học.
1.2.4. Khái niệm tổ chức
Tổ chức là một trong bốn chức năng quản lý chủ yếu, cơ bản nhất
bao gồm: Kế hoạch (Planning), tổ chức (Organizing), chỉ đạo – lãnh đạo
(leading) và kiểm tra (Controlling) trong đó:
Kế hoạch hoá : Là chức năng xác định mục tiêu, mục đích đối với
thành tựu tương lai của tổ chức và con đường, biện pháp, cách thức để đạt
được mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế
hoạch hoá: (a) xác định, hình thuành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ
chức; (b) xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về
nguồn lực của tổ chức để đạt được các mục tiều này; (c) quyết định xem
những hoạt động nào là cần thiết để đạt được mục tiêu đó.
Tổ chức: Khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần phải

chuyển hoá những ý tưởng khá trừu tượng ấy thành hiện thực. Một tổ chức
lành mạnh sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự chuyển hoá như thế. Xét về
mặt chức năng quản lý, tổ chức là quá trình hình thành nên cơ cấu các quan
hệ, các thành viên, giữa các bộ phận trong tổ chức nhằm làm cho họ thực
hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.
Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt
hơn các ngồn vật lực và nhân lực. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất
nhiều vào năng lực của người quản lý sử dụng các ngồn lực này sao cho có
hiệu quả và có kết quả.


21
Quá trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận,
các phòng ban cùng các công việc của chúng. Và sau đó là vấn đề nhân sự,
cán bộ sẽ tiếp nối ngay sau các chức năng kế hoạch hoá và tổ chức.
Lãnh đạo (chỉ đạo): Sau khí kế hoạch được lập, cơ cấu bộ máy đã
hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng thỉ phải có ai đó đứng ra lãnh đạo,
dẫn dắt tổ chức. Một số học giả gọi quá trình đó là quá trình chỉ đạo
(directing) hay tác động (influencing). Dù gọi tên thế nào đi chăng nữa,
lãnh đạo bao hàm việc liên kế, liên hệ với người khác và động viên họ hoàn
thành nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Hiển nhiên
việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu ngay sau khi lập kế hoạch và thiết kế bộ
máy đã hoàn tất và nó thấm vào ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng
kia.
Kiểm tra: Là một chức năng quản lý, thông qua đí một các nhân, một
nhóm hoặc một tổ chức theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến
hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Mtột kết quả hoạt
động phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì phải
tiến hành hoạt động điều chỉnh, uốn nắn. Đó cũng là quá trình tự điều
chỉnh, diễn ra có tính chu kỳ nư sau:

+ Người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động.
+ Người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả sự thành đạt so với
chuẩn mực đã đặt ra.
+ Người quản lý tiến hành những điều chỉnh, những sai lệch.
+ Người quản lý hiệu chỉnh, sửa chữa lại những chuẩn mực nếu cần.
1.3. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý
1.3.1. Khái niệm công nghệ
Theo quan điểm truyền thống: Công nghệ là tập hợp các phương
pháp, quy trình, kỹ năng, kỹ thuật, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi
các nguồn lực thành sản phẩm.

×