Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Những giá trị và hạn chế của phép biện chứng trong nền triết học cổ điển Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.71 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG

BÀI THUYẾT TRÌNH
Đề tài: “Những thành tựu và hạn chế của phép biện
chứng trong nền triết học cổ điển Đức”
Giảng viên : TS. Ông Văn Năm
Môn : Triết học
Lớp : Cao học 16B2
Nhóm thực hiện : Nhóm 6
1. Châu Hồ Quốc Bảo Nhóm trưởng
2. Nguyễn Thị Ngọc Nữ Thành viên
3. Đỗ Thị Kim Nữ Thành viên
4. Nguyễn Thị Hồng Thanh Thành viên
5. Nguyễn Huy Thu Hiền Thành viên
6. Phan Hữu Tài Thành viên
7. Lê Văn Cường Thành viên
8. Đoàn Trần Phong Thành viên
9. Lưu Huỳnh Thanh An Thành viên
Tp. Hồ Chí Minh,02/2015
MỤC LỤC
MỤC LỤC ii
BẢNG PHÂN CÔNG VIỆC TRONG NHÓM
STT Họ và tên Nội dung công việc
1 Châu Hồ Quốc Bảo - Tổng hợp nội dung bài thuyết trình, báo
cáo tóm tắt ý kiến phản biện
- Tóm lược bối cảnh, cơ sở ra đời
- Thuyết trình 2
2 Nguyễn Thị Ngọc Nữ - Nghiên cứu, tóm tắt hệ thống tư tưởng triết
học của Fichte
- Hoàn thiện hình thức, danh mục bài viết


- Đánh giá các thành tựu đạt được
3 Đỗ Thị Kim Nữ - Nghiên cứu, tóm tắt hệ thống tư tưởng triết
học của Schelling
- Hoàn thiện chú thích, mục lục
- Đánh giá các hạn chế còn tồn tại
4 Nguyễn Thị Hồng Thanh - Nghiên cứu, tóm tắt hệ thống tư tưởng triết
học của Hegel
- Chuẩn bị Slide thuyết trình
5 Nguyễn Huy Thu Hiền - Nghiên cứu, tóm tắt hệ thống tư tưởng triết
học của Kant
- Thuyết trình 1
6 Lê Văn Cường - Nghiên cứu, đánh giá và đưa ra ý kiến
phản biện, đề xuất một số ý tưởng về bài
nhóm bạn
- Phản biện 1
7 Đoàn Trần Phong - Nghiên cứu, đánh giá và đưa ra ý kiến
phản biện, đề xuất một số ý tưởng về bài
nhóm bạn
- Hoàn thiện báo cáo tóm tắt ý kiến phản biện
ii
8 Phan Hữu Tài - Nghiên cứu, đánh giá và đưa ra ý kiến
phản biện, đề xuất một số ý tưởng về bài
nhóm bạn
- Hoàn thiện báo cáo tóm tắt ý kiến phản biện
9 Lưu Huỳnh Thành An - Nghiên cứu, đánh giá và đưa ra ý kiến
phản biện, đề xuất một số ý tưởng về bài
nhóm bạn
- Phản biện 2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong quá trình vận động và phát triển, lịch sử triết học đã chứng kiến sự đấu
tranh không ngừng nghỉ giữa các quan điểm, các tư tưởng, học thuyết nhằm đi
tìm câu trả lời cho những vấn đề xuyên suốt lịch sử phát triển của nhân loại.
Bằng tư duy lý luận, các nhà triết học đi đến nhận định khái quát là: Tất cả sự
vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới chung quy lại có hai loại: Các sự vật, hiện tượng
vật chất và các sự vật, hiện tượng tinh thần; ngoài ra không có bất kỳ sự vật, hiện
tượng nào nằm ngoài hai loại sự vật, hiện tượng đó. Do vậy trong triết học xuất
hiện hai phạm trù vật chất và ý thức dùng để chỉ hai loại sự vật, hiện tượng trên.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: Mặt thứ nhất (bản thể luận) đòi hỏi trả
lời cho câu hỏi: Vật chất hay ý thức (giới tự nhiên hay tinh thần) cái nào có trước,
iii
cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai (nhận thức luận) đòi trả
lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? (Bùi
Văn Mưa, 2011)
Đồng thời, vấn đề bản tính thế giới cũng là vấn đề mà triết học nỗ lực tìm hiểu
câu trả lời thỏa đáng. Vấn đề bản tính thế giới là vấn đề về phương thức tồn tại
của vạn vật trong thế giới, có hai mặt: Các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại
cô lập, tách biệt nhau hay có liên hệ, ràng buộc lẫn nhau? Mặt thứ hai đòi trả lời
cho câu hỏi: Các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại trong trạng thái đứng im,
bất động hay không ngừng vận động, biến đổi? (Bùi Văn Mưa, 2011)
Phương pháp (phép) biện chứng và phương pháp (phép) siêu hình đã ra đời
để giải quyết những vấn đề về bản tính của thế giới nói trên, trong đó:
- Phép siêu hình cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới (cả sự vật vật chất
lẫn tinh thần) đều tồn tại cô lập, tách biệt nhau, không có liên hệ, không ràng
buộc lẫn nhau; chúng luôn ở trạng thái tĩnh tại, đứng im, bất động, không
chuyển hóa, không phát triển. Nhưng nếu giả sử chúng có liên hệ, ràng buộc lẫn
nhau thì đó chỉ là sự liên hệ, ràng buộc bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên; nếu
giả sử chúng có vận động, phát triển thì sự vận động, phát triển đó chỉ là sự
tăng lên hay giảm xuống đơn thuần về lượng, chỉ là lặp lại cái cũ, chứ không có
sự ra đời của cái mới… . Phép siêu hình là quan điểm xem xét sự vật trong

trạng thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc.
- Phép biện chứng cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới không tồn tại
cô lập, tách biệt nhau mà là tồn tại trong muôn vàn mối quan hệ, liên hệ lẫn
nhau, chúng không đứng im, bất động mà luôn vận động, phát triển, chuyển
hóa lẫn nhau. Trong đó vận động được hiểu là tự vận động, còn phát triển
là phát triển tự thân. Nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát
triển là mâu thuẫn, tức sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
tồn tại ở bên trong sự vật. Cách thức của mọi sự vận động và phát triển là
sự chuyển hóa giữa lượng và chất. Còn xu hướng của mọi sự vận động và
phát triển là phủ định của phủ định. Phép biện chứng là quan điểm xem
xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận
iv
động, biến đổi không ngừng, với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt. (Bùi Văn
Mưa, 2011)
Lịch sử triết học bao gồm lịch sử đấu tranh giữa phép biện chứng và phép siêu
hình. Trong cuộc đấu tranh này, phép siêu hình ngày càng tinh vi hơn, phép biện
chứng ngày càng mềm dẻo hơn. Thông qua cuộc đấu tranh này mà tư duy lý luận
ngày càng hoàn thiện hơn (Bùi Văn Mưa, 2011)
Đối với phép biện chứng, lịch sử tư duy triết học đã chứng kiến ba hình thái phát
triển của nó, bao gồm: phép biện chứng chất phác từ thời cổ đại, phép biện chứng
duy tâm trong nền triết học cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật do Marx và
Engels xây dựng. Trong đó, nền triết học cổ điển theo chủ nghĩa duy tâm tại nước
Đức, khởi nguồn từ Kant và đạt đỉnh cao bởi Hegel, đã đạt những thành tựu hết
sức quan trọng, tạo nền tảng cho việc xây dựng hệ thống lý luận chặt chẽ vững
chắc cho phương pháp biện chứng. Tuy nhiên, phép biện chứng duy tâm do nền
triết học cổ điển Đức xây dựng nên vẫn tồn tại những hạn chế, mâu thuẫn bên
trong nó mà các nhà triết học thế hệ sau như Marx, Engels đã phê phán, kế thừa
một cách chọn lọc để xây dựng nên phép biện chứng duy vật, một bước tiến mới
trong lịch sử tư duy nhân loại nói chung và phép biện chứng nói riêng. Việc phân
tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng trong nền triết

học cổ điển Đức là hết sức cần thiết để có cái nhìn đúng đắn hơn, kế thừa những
mặt tích cực, hạn chế các mặt còn khiếm khuyết. Vì vậy, nhóm quyết định lựa
chọn đề tài: “Những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng trong nền triết học
cổ điển Đức” để nghiên cứu sâu hơn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Phép biện chứng là một trong hai phương pháp cơ bản để nghiên cứu về bản tính
của thế giới, trong đó phép biện chứng duy tâm trong nền triết học cổ điển Đức có
giá trị hết sức quan trọng trong hệ thống triết học hiện nay. Đây cũng là đối
tượng nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới. Một số công trình tiêu biểu là:
Triết học phương Tây hiện đại (Lưu Phóng Đồng, 2004), Giáo trình Triết học (dùng
v
cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học) (Bộ
Giáo dục và Đào tạo, 2006), Thông diễn học của Hegel – Paul Redding (Lê Tuấn
Huy, 2006)… . Đồng thời, có nhiều bài viết trên các tạp chí, báo nghiên cứu về đề tài
này. Nhìn chung, các công trình đó đã đưa ra cái nhìn khái quát phép biện chứng
trong nền cổ điển Đức và vai trò của nó trong hệ thống tư duy triết học. Trên cơ sở
tiếp thu và hệ thống hóa kiến thức, quan điểm của các thế hệ đi trước, nhóm nghiên
cứu tiến hành phân tích rõ hơn những thành tựu và hạn chế nổi bật của phép biện
chứng trong thời kỳ này.
3. Mục đích nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Chỉ ra những thành tựu và hạn chế chung nhất của phép biện chứng trong nền
triết học cổ điển Đức từ đó đưa ra một số gợi ý, đánh giá trong việc kế thừa và phát
triển nội dung các tư tưởng này.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu hoàn cảnh ra đời, lịch sử phát triển của phép biện chứng trước đó,
phân tích đánh giá nội dung tư tưởng của các nhà triết học tiêu biểu trong thời
đại này từ đó đưa ra kết luận về những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn
tại.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài:

4.1. Cơ sở lý luận của đề tài:
Cơ sở lý luận đứng trên quan điểm duy vật biện chứng trong quá trình nghiên
cứu đề tài bao gồm: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát
triển.
vi
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhóm nghiên cứu sử dụng
các phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích và tổng
hợp, logic và lịch sử…
5. Đóng góp của đề tài:
Bài nghiên cứu hệ thống hóa lại tư tưởng biện chứng trong nền triết học cổ điển
Đức, đồng thời làm rõ một số thành tựu và hạn chế trong hệ thống tư tưởng thời kỳ
này nói chung và các triết gia nói riêng. Tuy vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài,
do khả năng và thời gian hạn chế, cũng như hệ thống tư tưởng đồ sộ của các tác giả
nên việc nghiên cứu chưa thực sự đầy đủ và hoàn chỉnh. Do đó, vấn đề này cần được
tiếp tục nghiên cứu thêm.
6. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bài nghiên cứu có cấu trúc 3 chương, bao
gồm:
- Chương 1: Khái quát về bối cảnh lịch sử, lịch sử phép biện chứng từ triết
học cổ đại đến triết học cổ điển Đức
- Chương 2: Các tư tưởng biện chứng tiêu biểu trong nền triết học cổ điển
Đức
- Chương 3: Tổng kết những thành tựu và hạn chế trong của phép biện chứng
trong nền triết học cổ điển Đức
vii
CHƯƠNG 1
  
KHÁI QUÁT VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ, LỊCH SỬ PHÉP BIỆN CHỨNG TỪ
TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI ĐẾN TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

Có thể nói con người là sản phẩm của lịch sử, và lịch sử lại mang tính kế
thừa. Do đó, khi đánh giá, phân tích một học thuyết, tư tưởng triết học, chúng ta
cần xem xét bối cảnh, cơ sở ra đời của học thuyết, tư tưởng đó, đồng thời cần
nghiên cứu lại những thành tựu, hạn chế từ các tư tưởng trước đó, bởi sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng luôn mang tính biện chứng, tiếp thu
những mặt tích cực từ cái cũ, loại bỏ những mặt tiêu cực chứ không phủ định
sạch trơn. Vì vậy, việc xem xét hoàn cảnh nước Đức cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu
thế kỷ XIX và lịch sử phát triển của phép biện chứng là cần thiết.
1.1. Bối cảnh lịch sử nước Đức cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX
Nước Đức thời kỳ này vẫn là một quốc gia phong kiến cát cứ điển hình với chế
độ chuyên chế nhà nước Phổ. Đây là thời kỳ nhà nước Phổ có sự suy yếu, lạc hậu về
kinh tế và chính trị và cũng là đặc điểm thời đại hình thành và chi phối nền triết học cổ
điển Đức nói chung và triết học Hegel nói riêng.
Nước Đức nửa đầu thế kỷ XIX chứng kiến cuộc đấu tranh dai dẳng giữa những
người theo chủ nghĩa tự do muốn có một liên bang Đức thống nhất dưới một Hiến
pháp dân chủ, và những người theo chủ nghĩa bảo thủ, muốn duy trì nước Đức như là
một tập hợp chắp vá bởi các tiểu quốc quân chủ độc lập, với Phổ và Áo tranh giành
viii
ảnh hưởng. Triều đình vua Phổ Friedrich Wilhelm vẫn tăng cường quyền lực duy trì
chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Trong khi đó, ở Tây Âu diễn ra các cuộc cách mạng tư sản làm rung chuyển cả
Châu Âu, đặc biệt là cách mạng tư sản Pháp năm 1789; nước Anh khởi đầu cho cuộc
cách mạng công nghiệp. Chủ nghĩa tư bản đã hình thành ở nhiều nước ở Tây Âu, đem
lại một nền sản xuất phát triển, mở đầu nền văn minh công nghiệp, khẳng định tính
chất ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến.
Sự lạc hậu của nước Đức, sự phát triển của các nước Tây Âu về kinh tế – xã hội,
khoa học đã thức tỉnh tính phản kháng của giai cấp tư sản Đức cũng như những bộ
phận tiến bộ khác của xã hội và đòi hỏi phải có cách nhìn mới về tự nhiên, xã hội và
con người. Giai cấp tư sản Đức muốn làm cách mạng tư sản như các nước Tây Âu,
muốn xây dựng nền triết học theo yêu cầu mới, song do mới ra đời và nằm rải rác ở

những vương quốc nhỏ tách rời nhau nên họ còn yếu kém về số lượng, kinh tế và
chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn, mà chỉ tiến hành
cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả
hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó nên họ giữ lập trường
cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước. Chính điều đó
quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: nội dung cách mạng dưới một hình
thức duy tâm, bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi con người là
một thực thể hoạt động, là nền tảng, là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. (Bộ
Giáo dục và Đào tạo, 2006)
1.2. Khái quát về biện chứng từ triết học cổ đại đến triết học cổ điển Đức
“Biện chứng” có gốc từ tiếng Hy Lạp là “dialektica” (với nghĩa là nghệ thuật
đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm
ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ
thuật bảo vệ những lập luận của mình. Trong triết học Marx, “biện chứng” được dùng
đối lập với “siêu hình”, đó là lý luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong
trạng thái liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận
động, phát triển không ngừng. Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến
ix
nay, lịch sử phát triển của nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, gắn với sự phát
triển của khoa học và thực tiễn.
Thời cổ đại, phép biện chứng mang nặng tính mộc mạc, chất phác. Cả triết học
Phương Đông và Phương Tây cổ đại đều chứa đựng tư tưởng về biện chứng. Trong
triết học Phương Đông cổ đại, quan niệm về nhân duyên, vô ngã, vô thường của Đạo
Phật chứa đựng những tư tưởng biện chứng khá sâu sắc. Trong thuyết Âm – Dương,
Âm và Dương tồn tại trong mối liên hệ quy định lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái
bất biến và cái biến đổi; giữa cái duy nhất và cái số nhiều, đa dạng, phong phú. Trong
thuyết ngũ hành, năm yếu tố Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ tồn tại trong mối liên hệ
tương sinh, tương khắc với nhau. Các yếu tố đó tác động, chuyển hóa lẫn nhau, ràng
buộc, quy định lẫn nhau, tạo ra sự biến đổi trong vạn vật. Lão Tử (khoảng thế kỷ
VI.TCN) cho rằng vạn vật bị chi phối bởi hai quy luật phổ biến là quân bình và phản

phục. Luật quân bình luôn giữ cho sự vận động của vạn vật được cân bằng theo một
trật tự điều hòa trong tự nhiên, không có gì thái hóa, không có gì bất cập. Luật phản
phục là khi sự vật phát triển đến cực điểm thì chuyển quay trở lại theo phương hướng
cũ. Trong Đạo đức kinh, còn có những tư tưởng biện chứng trực quan như bất kỳ sự
vật, hiện tượng nào cũng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập vừa xung khắc với
nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau, v.v. (Bộ Giáo dục và Đào tạo,
2006)
Triết học Hy Lạp cổ đại với các triết gia tiêu biểu như Heraclite, Socrate, Platon,
Aristotle,… đều chứa đựng tư tưởng biện chứng.Trong đóHeraclite cho rằng bản
nguyên của thế giới là lửa và khẳng định bản tính của thế giới là “mọi thứ đều trôi
qua”. Ông cho rằng “mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như trao đổi
vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”, bản thân vũ trụ “mãi mãi đã, đang và
sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng cháy bùng và tàn lụi”. Ông xây dựng “học
thuyết về dòng chảy” với luận điểm kinh điển “Không ai có thể tắm hai lần trên cùng
một dòng sông”. (Lưu Phóng Đồng, 2004)
Vào thời cực thịnh của triết học Hy Lạp cổ đại, tư tưởng biện chứng được thể
hiện trong tư tưởng của Socrate. Ông được xem là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
biện chứng theo nghĩa là nghệ thuật tranh luận, hướng các bên cùng quan tâm đến vấn
x
đề tranh luận với mục đích đạt được chân lý bằng con đường đối lập các ý kiến của họ
qua hình thức hỏi – đáp (Lưu Phóng Đồng, 2004)
Tư tưởng này được phát triển hơn trong quan niệm biện chứng của Platon.Ông
cho rằng biện chứng là nghệ thuật tìm ra các khái niệm đúng, là thao tác logic phân
chia và gắn kết các khái niệm bằng công cụ hỏi- đáp để xác định các khái niệm đó.
Aristotle có những nghiên cứu sâu sắc về logic và biện chứng. Ông đưa ra nhiều tư
tưởng về phạm trù, quy luật và xây dựng các hình thức cơ bản của tư duy.Phép biện
chứng của Aristotle ngoài sự thể hiện các quan niệm về các vật thể tự nhiên và sự vận
động của chúng, còn thể hiện rõ trong sự giải thích về cái riêng và cái chung, ông đã
cố gắng khảo sát cái chung trong sự thống nhất không tách rời cái riêng; theo ông,
nhận thức cái chung trong cái đơn lẻ là thực chất của nhận thức cảm tính.

Nhìn chung, phép biện chứng cổ đại mang nặng tính tự phát, ngây thơ. Mặc dù
còn nhiều hạn chế nhưng phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là một chỉnh thể thống
nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, quy định, tác
động lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi. Những nội dung tư tưởng cơ
bản của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại là cơ sở để phép biện chứng phát triển lên
hình thức cao hơn, “triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do Hêraclít và Arixtốt
đã mở đầu mà thôi” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006)
Triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ (thế kỷ V – XV), với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất phong kiến, triết học và khoa học thời kỳ này là một
bước lùi so với thời kỳ cổ đại. Thời kỳ này, triết học gắn liền với tôn giáo (Cơ đốc
giáo) và chủ nghĩa kinh viện, tư tưởng về biện chứng không được phát triển. Triết học
Tây Âu thời Phục hưng (thế kỷ XV – XVI) và Cận đại (thế kỷ XVII – XVIII), gắn liền
với sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, triết học có
điều kiện phát triển. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này (cận đại) gắn với phương thức tư
duy siêu hình của khoa học tự nhiên, tư tưởng biện chứng không được phát triển.
Bước sang cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, với bối cảnh lịch sử đặc thù
của nước Đức, với sự phát triển của triết học cổ điển Đức, tư tưởng biện chứng từ thời
cổ đại mới được “sống lại” và phát triển trong một hình thái mới. Phép biện chứng
được xem là thành tựu lớn nhất của triết học cổ điển Đức.
xi
Nhìn chung, phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức là phép biện chứng duy
tâm, được hình thành từ Kant, phát triển qua các nhà triết học sau đó như Fichte,
Schelling và phát triển đỉnh cao trong triết học của Hegel: “Hình thức thứ hai của
phép biện chứng, hình thức quen thuộc của các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết
học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hegel”.
1
(G.W.F. Hegel, 2008)
CHƯƠNG 2
  
CÁC TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TIÊU BIỂU TRONG

NỀN TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
Phép biện chứng là sợi chỉ xuyên suốt hệ thống tư tưởng của các triết gia trong
nền triết học cổ điển Đức. Sợi chỉ này kết nối một cách liên tục các hệ tư tưởng trong
thời kỳ này, phê phán những mặt còn hạn chế, tiếp thu những mặt hợp lý. Do vậy, khi
phân tích một cách hệ thống các tư tưởng biện chứng, việc nghiên cứu lý luận nổi bật
của từng nhà triết học là cần thiết để làm rõ tính kế thừa và phát triển của phép biện
chứng.
2.1. Immanuel Kant
2
:
1
Các hình thức lịch sử của phép biện chứng: Phép biện chứng chất phác, Phép biện chứng duy tâm (triết học cổ
điển Đức), Phép biện chứng duy vật.
2
Immanuel Kant (1724 – 1804): Sinh ra ở Koenisberg, trong một gia đình thợ thủ công ngoan đạo, có truyền
thống giáo dục rất kỹ về giáo lý, giáo luật và niềm tin về Thượng đế. Ông giảng dạy triết học, toán học, cơ học,
vật lý học, nhân chủng học, lịch sử tự nhiên đại cương. Tác phẩm khoa học và triết học: Lịch sử tổng quát về tự
nhiên và lý luận chung về bầu trời, Phê phán lý trí thuần túy, Phê phán lý trí thực hành, Phê phán năng lực phán
đoán… Cuộc đời hoạt động khoa học và triết học của ông được chia làm 2 thời kỳ: trước phê phán và sau phê
phán. Trong thời kỳ trước phê phán (trước 1770), Kant xuất phát từ quan điểm duy vật tự phát và biện chứng tự
nhiên, tập trung nghiên cứu các vấn đề về khoa học và triết học tự nhiên. Sau thời kỳ phê phán (sau 1770), Kant
chuyển phong cách triết lý sang tinh thần phê phán để nghiên cứu lại toàn bộ di sản triết học hiện có.
xii
Ông cho rằng các lý luận nhận thức trước đây không đáp ứng được tiêu chuẩn để
xây dựng hệ thống tri thức khoa học, vì vậy muốn xây dựng lý luận nhận thức như một
khoa học trước hết phải biết phê phán. Phê phán không chỉ đơn thuần là mổ xẻ để tìm
sai sót trong lý luận nhận thức cũ mà còn là thiết lập khả năng nhận thức của con
người, của triết học đối với mỗi ngành khoa học. Lý luận nhận thức chính là cơ sở để
xây dựng tri thức triết học và tri thức khoa học.
Theo ông, thế giới vật chất tồn tại khách quan dưới dạng những sự vật cá biệt,

tuy nhiên, khi nghiên cứu nó, chúng ta gặp phải những mâu thuẫn trong nhận thức. Bởi
vì, một mặt nếu thừa nhận tri thức phản ánh thế giới khách quan, mà thế giới khách
quan tồn tại dưới dạng các sự vật cá biệt, thì tri thức đó phải là tri trức riêng lẻ, ngẫu
nhiên chứ không phải là tri thức phổ biến, tất yếu. Nhưng mặt khác, nếu đòi hỏi tri
thức phải mang tính phổ biến, tất yếu thì phải thừa nhận tri thức này không phản ánh
các sự vật cá biệt, không phản ánh thế giới khách quan, nghĩa là phải thừa nhận tri
thức chỉ là sản phẩm của tư duy. Để giải quyết mẫu thuẫn trên, ông đưa ra khái niệm
vật tự nó và thừa nhận sự tồn tại của tri thức tiên nghiệm. (Bộ Giáo dục và Đào tạo,
2006)
Theo Kant, do thế giới vật chất, về bản chất là vật tự nó, nên con người không
nhận thức được bản chất của thế giới, mà chỉ nhận thức được hiện tượng của nó. Ông
rút ra kết luận: tri thức của con người không phản ánh bản chất của thế giới khách
quan mà chỉ phản ánh các hiện tượng của nó mà thôi. Như vậy, một mặt, ông thừa
nhận thế giới khách quan là những sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan (duy vật);
nhưng mặt khác, ông cho rằng con người không nhận thức được bản chất thế giới –
vật tự nó (bất khả tri). (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006)
Ông chia tri thức con người thành tri thức kinh nghiệm và tri thức tiên nghiệm
(bẩm sinh). Một mặt, ông thừa nhận bản chất khách quan của thế giới – vật tự nó (nhất
nguyên luận duy vật), nhưng mặt khác, ông lại thừa nhận hiểu biết của con người về
thế giới – quy luật khoa học, do tri thức tiên nghiệm tạo ra (nhị nguyên luận).
Khi coi vật tự nó – bản chất của thế giới là không thể nhận thức được, Kant xác
định đối tượng nghiên cứu của triết học lý luận của mình không phải là bản chất thế
xiii
giới mà là những hoạt động nhận thức của con người để chỉ ra những quy luật và giới
hạn của trí tuệ, nghĩa là nghiên cứu chủ thể nhận thức (chủ thể tiên nghiệm).
Tách hiện tượng ra khỏi bản chất là đặc điểm của triết học phê phán Kant. Nghĩa
là lĩnh vực cảm tính của chúng ta về sự vật thì chỉ là những khám phá về hiện tượng,
còn bản chất thì không bao giờ biết được.
Trong đời sống chính trị - pháp quyền, mỗi con người cần phải hành động một
cách tự do. Khi hành động con người tạo ra lịch sử. Lịch sử là kết quả hoạt động thực

tiễn của con người; nhưng lịch sử còn là phương tiện để con người phát triển khả năng
hoàn thiện bản chất và thực hiện các mục đích, lý tưởng đạo đức của mình. Do vậy mà
lịch sử nhân loại không chỉ là sự tiếp tục của lịch sử tự nhiên mà nó còn là một quá
trình vận động theo xu hướng ngày càng tiến bộ và hoàn thiện. Đó là một quá trình
hoàn toàn do những quy luật nội tại chi phối, chứ không do Thượng đế hay thế lực
siêu nhiên gây ra. Như vậy, khi chỉ ra tiến trình phát triển biện chứng của lịch sử, Kant
đã nhìn thấy động lực phát triển của nó là xung đột giữa các giai tầng trong xã hội, mà
không thấy rõ nguồn gốc phát triển của nó là đời sống kinh tế - sản xuất ra của cải vật
chất trong xã hội. (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006)
Tóm lại, Kant là một trong những nhà triết học vĩ đại của nền triết học cổ điển
Đức nói riêng, của toàn nhân loại nói chung. Tư tưởng của ông hướng triết học từ
nghiên cứu tự nhiên tới nghiên cứu con người như một chủ thể, từ nghiên cứu sự tồn
tại tới nghiên cứu quá trình hoạt động. Triết học Kant không chỉ là cơ sở lý luận ban
đầu của nền triết học cổ điển Đức mà còn là tiền đề lý luận của triết học Mác - xít sau
này, khi hoạt động thực tiễn của con người được coi là nền tảng của đời sống xã hội.
Triết học Kant đặt nền móng cho một quan niệm biện chứng về giới tự nhiên và lịch
sử, đồng thời nó cũng đặt ra nhiều vấn đề sâu sắc cho sự phát triển của triết học
phương Tây hiện đại.
2.2. Johann Gottlieb Fichte:
xiv
Xuất phát từ triết học tiên nghiệm của Kant, Fichte
3
muốn xây dựng triết học
thành một khoa học luận hay khoa học về khoa học để nó thực hiện sứ mạng là mang
lại cho con người một cách nhìn mới và đúng đắn về chính bản thân mình, làm cho
con người sống với chính mình và cuối cùng là trở thành con người thật sự. Triết học
của ông được chia ra thành triết học lý luận và triết học thực tiễn.
Fichte phê phán nhị nguyên luận của Kant, và ông phát triển nó sang khuynh
hướng duy tâm chủ quan. Ông cho rằng, triết học mới phải là khoa học luận, nghĩa là
nó phải vạch ra cơ sở phương pháp luận và phương hướng phát triển khoa học, xác

định bản chất của khoa học, xây dựng những nguyên lý cơ bản của thế giới quan khoa
học cho con người. Để trở thành khoa học luận, triết học phải mang tính hệ thống.
Muốn là một hệ thống chặt chẽ, triết học phải dựa trên một luận đề - cơ sở của toàn bộ
hệ thống. Xuất phát điểm của Fichte chính là khái niệm cái tôi của con người, cái tôi
của ông là lý tính cũng là ý chí, là nhận thức và cũng là hành động.
− Tôi là Tôi (Tôi = Tôi) - luận đề xuất phát của khoa học luận. Luận đề 1 này
mang tính hiển nhiên. Nó giả định con người ngay từ đầu bằng hoạt động của mình,
sáng tạo ra chính mình một cách vô điều kiện. Nhưng luận đề: Tôi là Tôi cũng có
nghĩa: Tôi không phải là Không-Tôi (Tôi ≠ Không-Tôi). Luận đề 2 cũng hiển nhiên và
vô điều kiện như luận đề 1, nó vừa đối lập vừa được nảy sinh ra từ luận đề 1. Từ đây,
Fichte tiếp tục khẳng định: Bản thân mọi mặt đối lập chỉ tồn tại nhờ hoạt động của
Cái Tôi, nghĩa là bản thân các mặt đối lập nhau không thể tách rời nhau (Tôi 
Không-Tôi). Vậy theo Fichte, có ba luận đề hiển nhiên:
(1) Tôi = Tôi, (2) Tôi ≠ Không-Tôi, (3) Tôi  Không -Tôi
− Các luận đề trên không tách rời nhau mà chúng có mối quan hệ lẫn nhau. Mối
quan hệ này thể hiện đầy đủ theo cách hiểu của Fichte về Cái Tôi và cái Không-Tôi.
3
Johann Gottlieb Fichte (1762 – 1814): Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Đông Phổ. Sau khi tốt
nghiệp đại học, ông tìm đến Koenisberg và chịu sự ảnh hưởng sâu sắc bởi nhà triết học của thành phố này –
Kant. Ông là một trong những gương mặt rất quan trọng trong triết học Đức trong giai đoạn giữa Kant và Hegel.
Ông là người đề xuất hệ thống chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm. Hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển triết học sau Kant. Thông qua những tác phẩm triết học đầy tính chuyên môn, Fichte gieo ảnh hưởng
lớn lên những người cùng thời.Ảnh hưởng của ông mất dần cho đến tận cuối đời, và sự chi phối sau đó của
Hegel đã đẩy Fichte xuống địa vị của kẻ chuyển giao mà tư tưởng đã giúp giải thích sự phát triển của chủ nghĩa
duy tâm Đức từ triết học phê phán của Kant đến triết học tinh thần của Hegel. Tuy nhiên, ngày nay Fichte được
đánh giá đúng hơn như một triết gia quan trọng có tài năng độc lập và như một nhà tư tưởng tiếp tục truyền
thống của chủ nghĩa duy tân Đức trong dạng thức khá độc đáo.
xv
Theo Fichte: có 2 Cái Tôi: một là, Cái Tôi tuyệt đối có trước, vô hạn, sản sinh ra giới
tự nhiên và nhân loại; và hai là, Cái Tôi tương đối, hữu hạn, được sản sinh, là hình

thức tồn tại cụ thể của Cái Tôi tuyệt đối. Cái Tôi tương đối đối lập với cái Không-Tôi.
Tóm lại, triết học của Fichte thực chất là chủ nghĩa duy tâm chủ quan tuyệt đối
nên nó không thể tránh những mâu thuẫn nội tại. Bản thân Fichte nhận thấy điều đó
nên sau này, để khắc phục mâu thuẫn: Tại sao mệnh đề Tôi là Tôi lại chưa tới hai Cái
Tôi, cũng như để thỏa mãn quan niệm bấy giờ xem giới tự nhiên như thực thể duy nhất
mà Fichte đã chuyển sang lập trường duy tâm khách quan coi Cái Tôi tuyệt đối không
phải là một cá nhân tuyệt đối mà chỉ là tồn tại thuần túy hay ý thức thuần túy, tức là
cái tuyệt đối (Bùi Văn Mưa, 2011)
2.3. Friedrich Wilhelm Joep Schelling
4
:
Quan niệm về cái tuyệt đối là nội dung chủ đạo của triết học Schelling nói chung,
triết học đồng nhất của ông nói riêng.
Từ Cái Tôi tuyệt đối với tư cách là đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và nhân
loại (xã hội) của Fichte, Schelling cải tạo thành cái tuyệt đối. Bên cạnh ý nghĩa là đấng
sáng tạo như Fichte hiểu, cái tuyệt đối còn được coi là cái đồng nhất vật chất và tinh
thần, chủ thể và khách thể, cái khách quan và chủ quan,…
Dựa trên quan niệm về cái tuyệt đối, Schelling xây dựng triết học đồng nhất.
Xuất phát từ quan điểm, trong cái tuyệt đối thì tinh thần cũng là vật chất, vật chất cũng
là tinh thần, Schelling cho rằng, trong cái tuyệt đối mọi cái đối lập đều tan biến, vì vậy,
trong triết học đồng nhất, mọi hệ thống triết lý đối lập đều không còn.
Trong triết học đồng nhất của Schelling, cái tuyệt đối là một chỉnh thể thống
nhất, trong đó, mọi sự vật liên hệ với nhau, mọi mặt đối lập đấu tranh với nhau đưa
đến quá trình phát triển của cái tuyệt đối. Schelling chống lại quan niệm máy móc siêu
hình thời cận đại chia cắt cái tự nhiên và tinh thần, chia cắt cái vô cơ và hữu cơ, chia
cắt vạn vật và con người. Ông luôn khẳng định sự phát triển của giới tự nhiên cũng là
sự phát triển của cái tinh thần: Giới tự nhiên là tinh thần nhìn thấy; còn tinh thần là
giới tự nhiên không nhìn thấy.
4
Friedrich Wilhelm Joep Schelling (1775 – 1854): Sinh ra trong một gia đình mục sư Tin Lành tại thành phố

Leonberg, sớm nổi tiếng trong lĩnh vực triết học. Schelling là nhà triết học duy tâm khách quan, là người sáng
lập ra trường phái văn nghệ lãng mạn ở Châu Âu và Đức. Lúc đầu, ông và Hegel là đôi bạn thân, nhưng về sau,
do bất đồng quan điểm đối với việc xây dựng hệ thống triết học mà hai người xa nhau.
xvi
Tóm lại, trong triết học của Schelling, phương pháp biện chứng được tiến thêm
một bước nữa. Phương pháp mâu thuẫn của Schelling đã đi quá nội dung chủ quan và
bao gồm cả tự nhiên. Theo Schelling, mâu thuẫn giữa tinh thần và tự nhiên xuất phát là
từ cùng một nguồn gốc: đó là “cái tuyệt đối”. Tự nhiên không phụ thuộc vào tinh thần
nữa, khách quan không nằm trong chủ quan nữa, hai cái đó xuất phát từ cùng một cái
Tuyệt đối.
2.4. Friedrich Hegel
5
:
Tiếp thu tư tưởng biện chứng của triết học cổ đại, chịu ảnh hưởng tư tưởng của
một số triết gia đương thời, đồng thời phê phán tư tưởng của họ và một số hệ thống
triết học trước đó, Hegel đã xây dựng và phát triển phép biện chứng duy tâm lên đến
đỉnh cao với hình thức và nội dung phong phú với mong muốn xây dựng “một phương
pháp duy nhất đúng thật, một phương pháp hoàn toàn đồng nhất với nội dung của
nó”. (G.W.F. Hegel, 2008)
Theo Hegel, biện chứng là sự tự thủ tiêu của chính những quy định hữu hạn và là
sự chuyển hóa của chúng sang những cái đối lập của chúng. Hegel cho rằng: “Trong
tính quy định riêng có của nó, phép biện chứng thực ra là bản tính riêng, đúng thật
của những quy định của giác tính, của những sự vật và của cái hữu hạn nói chung. Sự
phản tưthoạt đầu là sự vượt ra khỏi tính quy định bị cô lập và là một sự đặt quan hệ
của tính quy định này, qua đó nó được thiết định vào trong mối quan hệ với những
tính quy định khác nhưng vẫn được bảo tồn trong giá trị hiệu lực bị cô lập của nó.
Ngược lại, phép biện chứng là việc vượt ra khỏi nội tại, trong đó tính phiến diện và
tính bị hạn chế của những quy định của giác tính tự phô bày đúng như nó trong sự
thật, nghĩa là, như là sự phủ định của chúng. Mọi cái hữu hạn là cái gì tự thủ tiêu
chính mình. Vì thế, cái biện chứng tạo nên linh hồn vận động của sự tiến lên của Khoa

học và là nguyên tắc chỉ qua đó sự nối kết mạch lạc giữa nội tại và sự tất yếu mới đi
vào trong nội dung của Khoa học, cũng như chỉ trong đó mới tìm thấy được việc nâng
lên khỏi cái hữu hạn một cách đúng thật, chứ không phải đơn thuần ngoại tại”. “Lĩnh
hội và nhìn nhận cái biện chứng một cách đúng đắn là điều quan trọng bậc nhất. Nói
chung, nó là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi sự hoạt hóa ở trong
5
Friedrich Hegel (1770 – 1831): Sinh ra trong một gia đình quan chức cao cấp ở thành phố Stuttgart. Do chịu
ảnh hưởng của Schelling, Hegel say sưa nghiên cứu triết học, và ông đã trở thành nhà triết học – bác học vĩ đại
nhất, người hoàn thành triết học duy tâm biện chứng cổ điển Đức, bậc tiền bối của triết học Mác.
xvii
thế giới hiện thực. Cũng thế, cái biện chứng cũng là linh hồn của mọi nhận thức khoa
học đích thực”. (G.W.F. Hegel, 2008)
Trước hết, Hegel xây dựng Hệ thống triết học mới của mình trên 4 nền tảng:
− Một là, thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối: Theo Hegel, ý niệm tuyệt đối chứ
không phải cái tuyệt đối (Schelling) là nền tảng của hiện thực. Ý niệm tuyệt đối là sự
hợp nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và tinh thần, là đấng tối cao sáng tạo ra
giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Bản thân con người là sản phẩm của quá
trình vận động phát triển tự thân của ý niệm tuyệt đối và hoạt động nhận thức. Hoạt
động nhận thức và cải tạo thế giới của con người, tức lịch sử nhân loại, chính là công
cụ để ý niệm tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình và trở về với chính bản thân
mình. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả những sản phẩm hoạt
động của con người chỉ là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
− Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối: Phát triển được Hegel
hiểu như một chuỗi các hành động phủ định biện chứng, trong đó, cái mới liên tục thay
thế cái cũ, nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Quá trình phát
triển của ý niệm tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức “chính đề - phản đề - hợp đề”.
− Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử: Ông coi lịch sử là
hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối trên trần
gian. Lịch sử nhân loại có được nhờ vào hoạt động có ý thức của những cá nhân cụ
thể, nhưng nó lại là nền tảng quy định ý thức của mỗi cá nhân. Ý thức cá nhân chỉ là sự

khái quát, sự “đi tắt” toàn bộ lịch sử mà ý thức nhân loại đã trải qua.
− Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối: Hegel thừa nhận có ba hình
thức thể hiện ý niệm tuyệt đối trên thế gian là nghệ thuật, tôn giáo và triết học, trong
đó, triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý niệm tuyệt đối.
Theo Hegel, triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng vai trò
nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng của con người. Nhưng mỗi thời đại lại
có một học thuyết triết học của riêng mình. Học thuyết này là tinh hoa, tinh thần của
thời đại đó, là thời đại được thể hiện dưới dạng tư tưởng. Triết học và lịch sử triết học
thống nhất với nhau như là sự thống nhất giữa cái logic và cái lịch sử, vì vậy triết học
phải bao trùm toàn bộ lịch sử phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo quan điểm này thì
triết học Hegel chia thành ba bộ phận ứng với ba giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt
đối là:
xviii
+ Khoa học logic: nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai, nhưng lại là
xuất phát điểm của hệ thống, trình bày các quy luật phổ biến của sự vận động và phát
triển (ý niệm tuyệt đối trong chính nó).
+ Triết học tự nhiên: triết học đem lại bức tranh về sự phát triển của giới tự
nhiên dưới hình thức duy tâm (ý niệm tuyệt đối trong sự tồn tại khác của nó – tự tha
hóa).
+ Triết học tinh thần: dưới hình thức triết học tinh thần, Hegel đã trình bày lịch
sử của con người và sự tự nhận thức của con người (ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tự
tha hóa quay về với nó).
Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của Hegel là tất cả những gì hiện
thực đều hợp lý, tất cả những gì hợp lý đều là hiện thực. Hiện thực là sự tồn tại trong
tính tất yếu. Đây là cách đánh giá của Marx: “Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện
chứng của Hegel: hiện thực không chỉ đơn giản là sự tồn tại mà là sự tồn tại trong tính
tất yếu, nghĩa là tất cả các sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ này vận động và phát triển
theo các quy luật vốn có” (Nguyễn Hữu Vui, 2002). Điều này được thể hiện qua hai
mặt:
Một là, trên bình diện triết học, luận điểm này tiếp tục khẳng định sự tồn tại của

ý niệm tuyệt đối, khẳng định các phạm trù logic không chỉ là hình thức chủ quan mà
còn thể hiện cả bản chất, nội dung khách quan, đồng thời sự thống nhất giữa tư tưởng
và hiện thực, tư duy và tồn tại là một quá trình phát triển biện chứng.
Hai là, theo Hegel không phải tất cả những gì hiện đang tồn tại cũng đều làhiện
thực, mà thuộc tính hiện thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu. Như vậy,
theo Hegel hiện thực không phải là cái tồn tại nói chung mà tồn tại trong tính tất yếu
của nó, là hiện thực trong sự phát triển.
Đằng sau vỏ duy tâm hợp lý đó, ông cho rằng tất cả sự vật trên thế giới, kể cả tư
duy của con người đều vận động, phát triển theo các quy luật, chính Hegel là người
đầu tiên xây dựng một hệ thống các phạm trù, các quy luật của phép biện chứng đó.
Toàn bộ ba quy luật cơ bản (lượng – chất, quy luật phủ định của phủ định và một phần
của quy luật mâu thuẫn), sáu phạm trù (chất lượng, mâu thuẫn, phủ định, cái chung và
cái riêng, nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tượng) được khái quát lên chính là
Hegel (Bùi Văn Mưa, 2011).
xix
Đối lập với tư duy siêu hình, Hegel là người đầu tiên trình bày giới tự nhiên, lịch
sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là nằm trong sự vận động, biến đổi và
phát triểnkhông ngừng, đồng thời ông hiểu sự phát triển của logic học nói chung, tư
duy – đối tượng của nó nói riêng, là quá trình phủ định biện chứng, trong đó cái mới ra
đời thay thế cái cũ nhưng vẫn kế thừa của cái cũ những mặt tích cực có thể thúc đẩy sự
phát triển. Tự nhiên, lịch sử và tư duy theo Hegel trình bày ở dạng quá trình, tức là
trong sự sinh thành, biến đổi và phát triển. Khác với siêu hình, siêu hình cho rằng phát
triển là sự tăng giảm đơn thuần về lượng, còn Hegel hiểu rằng phát triển là quá trình
phủ định từ thấp đến cao, đó là quá trình phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng có
hai đặc điểm: khách quan và kế thừa. Kế thừa có sự chọn lọc, phê phán, người đầu tiên
khái quát lên tư tưởng đó là Hegel. Học thuyết của Hegel chứng minh: con cái ra đời
từ cha mẹ sẽ kế thừa những mặt tích cực của cha mẹ, loại bỏ những mặt tiêu cực. Ví
dụ điển hình là chế độ tư bản ra đời dưới chế độ phong kiến, cũng là quá trình phủ
định biện chứng, nó không phủ định sạch trơn tất cả những chế độ, hệ tư tưởng mà chế
độ phong kiến đã tạo ra, không phải đạp đổ tất cả mọi thành quách, đền đài, lăng tẩm

mà cũng kế thừa những mặt tích cực, chọn lọc phát triển chủ nghĩa tư bản (Bùi Văn
Mưa, 2011)
Với tinh thần biện chứng, khi đánh giá bất kỳ sự vật nào đó phải thấy hai mặt:
tích cực và tiêu cực để từ đó loại bỏ những mặt tiêu cực và kế thừa những mặt tích
cực. Như vậy, tinh thần của biện chứng được người đầu tiên khái quát lên là Hegel.
Nếu thừa nhận phủ định biện chứng này thì đánh giá của các nhà chủ nghĩa tư bản đa
số đều khách quan. Đối với Hegel không có gì được gọi là tối hậu, là tuyệt đối, là
thiêng liêng cả mà nó chỉ tính chất quá độ của mọi sự vật, không có gì tồn tại ngoài
quá trình không ngừng của sự hình thành, của sự tiêu vong, của sự tiến triển vô cùng,
vô tận từ thấp đến cao.
Theo Hegel, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình, nhận
thức và tư duy của con người được hình thành trong chừng mực con người nhận thức
và cải tạo thế giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ ý thức mà nhân
loại đã trải qua. Quan điểm con người là sản phẩm, là chủ thể của chính bản thân mình
là quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Hegel đã thấy được vai trò của lao động đối với sự
hình thành và phát triển của ý thức. Lao động đã giải phóng hai tri thức của loài người,
đưa con người đi lên thẳng đứng, tách con người ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính
xx
lao động, con người đã tạo thức ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong lao động, con người
tác động vào thế giới xung quanh, bộc lộ những đặc điểm, tính chất để con người nhận
thức. Cũng chính trong quá trình lao động, con người tự hoàn thiện chính bản thân
mình. Vậy không có quá trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc con
người không hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới, không có ý
thức của con người. Hegel khẳng định ý thức và tư duy của con người hình thành trong
chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ rằng đã bắt đầu thấy vai
trò của lao động đối với sự hình thành, phát triển ý thức và tư duy. Từ đó Hegel cho
rằng: bằng cách đó, con người tác động vào giới tự nhiên, tạo ra giới tự nhiên thứ hai
cho mình và làm chủ giới tự nhiên. Chân lý là sự thống nhất của tinh thần và vật chất
là cả một quá trình. Chân lý là tri thức có nội dung phản ánh phù hợp với hiện thực
khách quan. (Lê Tuấn Huy, 2006)

Những quan điểm về chân lý sau này của Marx cũng chính là sự kế thừa quan
điểm của Hegel. Chân lý là cả một quá trình, nghĩa là toàn bộ tri thức của con người có
được đến thời điểm hiện tại là chân lý, có thể thực tiễn sau đó sẽ bác bỏ nó, không là
chân lý nữa. Có nhiều luận điểm cả ngàn năm là chân lý, thực tiễn sau đó bác bỏ nó,
nghĩa là thực tiễn kiểm tra chân lý.
Theo Hegel, con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế thừa. Vì
vậy, ý thức của mỗi cá nhân là khái quát toàn bộ lịch sử mà tư tưởng nhân loại đã trải
qua. Trong ý thức của con người có ý thức của nhân loại trong quá khứ và hiện tại.
Đây chính là quan điểm duy tâm của Hegel. Những quan điểm xã hội hình thành nên
bản chất không chỉ trong hiện tại mà còn trong cả quá khứ. Nếu tách con người hiện
tại ra khỏi liên hệ lịch sử thì con người trong hiện tại phát triển phiến diện và bề ngoài.
(Lê Tuấn Huy, 2008)
Mặc dù Hegel là một cái đầu bách khoa nhất của thời đại mình song ông vẫn bị
hạn chế:
- Những giới hạn không thể tránh được của sự hiểu biết.
- Những kiến thức và quan niệm thời đại ông cũng có tính chất hạn chế như thế
cả về khối lượng lẫn chiều sâu.
Những tư tưởng của Hegel không phải là những phản ánh ít trừu tượng của
những sự vật và quá trình hiện thực, mà ngược lại, đối với ông, những sự vật và phát
xxi
triển của chúng chỉ là những phản ánh vốn là hiện thân của một “ý niệm” tồn tại ở một
nơi nào đó ngay trước khi có thế giới. Như vậy, tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên
hệ hiện thực của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược.
Tóm lại, phép biện chứng của Hegel là hệ thống lý luận về quá trình tự vận động,
phát triển của ý niệm tuyệt đối [Ý niệm tuyệt đối tự vận động trong chính nó (tư duy
thuần túy), rồi nó tự tha hóa để biến nó thành cái khác nó (giới tự nhiên), sau đó nó tự
khắc phục sự tha hóa đó để quay về với nó trong tinh thần tuyệt đối (xã hội)]. Phép
biện chứng của Hegel bao gồm: Một là, lý luận về tồn tại (cái bên ngoài, trực tiếp của
ý niệm tuyệt đối, có thể nhận biết bằng cảm tính) thể hiện qua các phạm trù: chất,
lượng, độ; Hai là, lý luận về bản chất (cái bên trong, gián tiếp, đầy sự đối lập, mâu

thuẫn của ý niệm tuyệt đối, chỉ nhận biết bằng lý tính) thể hiện qua các phạm trù : hiện
tượng – bản chất, ngẫu nhiên – tất nhiên, nội dung – hình thức,…; Ba là, lý luận về
khái niệm (sự thống nhất giữa tồn tại và bản chất) thể hiện qua các phạm trù: cái đơn
nhất – cái đặc thù – cái phổ biến, cái trừu tượng – cái cụ thể… (Bùi Văn Mưa, 2011).
Tuy có những mâu thuẫn giữa phép biện chứng có tính cách mạng với hệ thống duy
tâm có tính chất bảo thủ nhưng triết học của Hegel thực sự là một hệ thống đồ sộ, kỳ vĩ
nhất trong lịch sử trước Marx nói chung và trong triết học cổ điển Đức nói riêng.
CHƯƠNG 3
  
TỔNG KẾT NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG TRONG NỀN TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
Như vậy, trong chương 1 và 2, chúng ta đã tìm hiểu hoàn cảnh ra đời, lịch sử
phát triển và các tư tưởng nổi bật trong nền triết học cổ điển Đức. Trong chương này,
những thành tựu và hạn chế chung nhất của phép biện chứng trong nền triết học cổ
xxii
điển Đức được khái quát, tóm tắt lại và một số đánh giá để làm rõ hơn giá trị của
những thành tựu và hạn chế này.
3.1. Những thành tựu đạt được:
Có thể nói phép biện chứng trong nền triết học cổ điển Đức là phép biện chứng
duy tâm, nó được hình thành từ trong triết học của Kant, trải qua triết học của Fichte
và Schelling, sau cùng nó được hoàn thiện trong triết học của Hegel. Trong triết học
của Kant chứa đựng tư tưởng biện chứng về sự thống nhất (thâm nhập) của các mặt
đối lập tạo thành động lực của sự vận động, phát triển; Trong triết học của Fichte chứa
đựng tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động, phát triển và là
bản tính của tư duy (tinh thần, nhận thức); Trong triết học của Schelling chứa đựng tư
tưởng biện chứng về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất, đấu tranh giữa các mặt
đối lập (các lực lượng tinh thần đối lập) trong giới tự nhiên; Trong triết học của Hegel
chứa đựng tư tưởng biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển của tinh
thần. (Bùi Văn Mưa, 2011)
Hegel là người có công nâng phép biện chứng từ trình độ tự phát lên trình độ lý

luận và là người đầu tiên trình bày phép biện chứng ở dạng nguyên lý, quy luật, phạm
trù. Toàn bộ hai nguyên lý, ba quy luật và sáu phạm trù được chính Marx kế thừa của
Hegel. Theo phép biện chứng của Hegel, các sự vật, hiện tượng trên thế giới không cô
lập, tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại với nhau và không ngừng chuyển hóa
cho nhau, nghĩa là vạn vật liên hệ với nhau và không ngừng chuyển hóa cho nhau,
nghĩa là vạn vật liên hệ với nhau một cách phổ biến. Điều này hiện nay đã được khoa
học chứng minh. Theo Hegel, vạn vật không những liên hệ, tác động qua lại với nhau
mà còn không ngừng vận động và phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện cho đến hoàn thiện hơn. Nguồn gốc của động lực và phát triển là sự
đấu tranh của những mặt đối lập. Đây là tư tưởng hoàn toàn bình đẳng hợp lý và là
quan điểm của triết học Marx sau này.
Nói đến phép biện chứng của Marx và Engels không thể không nói đến phép biện
chứng của Hegel. Marx không chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện chứng của
Hegel mà còn cải tạo phép biện chứng đó, xây dựng nên phép biện chứng duy vật duy
nhất và thực sự khoa học. Nhiệm vụ của Marx là dựng ngược lại, tìm hạt nhân hợp lý.
Marx và Engels đã loại bỏ chủ nghĩa duy tâm và kế thừa chủ nghĩa duy vật, đó chính
là phép biện chứng.
xxiii
Noi theo tấm gương của Marx và Engels, V.I. Lênin cũng kiên trì nhấn mạnh về
sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một cách duy vật đối với phép biện chứng
của Hegel. Trong bài viết “Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu” – tác phẩm
được coi là di chúc triết học của Lenin – ông kêu gọi thành lập “Hội những người bạn
duy vật của phép biện chứng Hegel” để tiến hành công tác nghiên cứu, giải thích và
tuyên truyền phép biện chứng của Hegel: “Dựa vào cách của Marx đã vận dụng phép
biện chứng của Hegel hiểu theo quan điểm duy vật, chúng ta có thể và cần phải nghiên
cứu phép biện chứng đó trên tất cả các mặt”.
Phép biện chứng của Hegel nói riêng và nền triết học cổ điển Đức nói chung là
một trong những cống hiến vĩ đại trong quá trình phát triển văn hóa khoa học của nhân
loại, đặc biệt là trong sự ra đời của triết học Marx. Từ đó cho thấy rằng hạt nhân phép
biện chứng của Hegel là tư tưởng về sự phát triển. Hegel đã mang lại phong cách tư

duy mới, đó là phong cách tư duy biện chứng.
Không có phép biện chứng của Hegel thì không có phép biện chứng của Marx và
Engels giữa thế kỉ 19. Marx tuyên bố rằng: “Hegel là người thầy vĩ đại nhất của tôi về
phép biện chứng”. Cha đẻ của thuyết tương đối là Einstein, một nhà bác học chính xác
đến cau có, nghiệt ngã từng nói: “Tiến sĩ Marx là một người thực sự nghiêm túc khoa
học, nghiêm túc đến nỗi ông ta suy tôn Hegel – kẻ thù của mình – là người thầy của
phép biện chứng. Cả cuộc đời của Marx có một người duy nhất Marx thừa nhận là
thầy, đó chính là Hegel”.
3.2. Các hạn chế còn tồn tại:
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức thể
hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng – khoa học về tư tương với tính bảo thủ về lập
trường chính trị - xã hội. Hầu hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây dựng được hệ
thống triết học chứa đựng những tư tưởng khoa học lớn có tính vạch thời đại, đặc biệt
là Kant và Hegel. Nhưng họ không dám tiến hành những cuộc cải cách, ngược lại bảo
vệ chính thể Nhà nước Phổ phong kiến.
xxiv
Phép biện chứng duy tâm là phép biện chứng tư duy, là phép biện chứng của khái
niệm; nó mang tính tư biện, thần bí: Phép biện chứng duy tâm là một hệ thống các
nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên hệ và sự vận
động, phát triển diễn ra trong thế giới tinh thần, trong tư duy. Phép biện chứng duy
tâm đã hoàn thành cuộc cách mạng về phương pháp, nhưng cuộc cách mạng đó xảy ra
ở tận trên trời, chứ không phải xảy ra dưới trần gian, trong cuộc sống hiện thực, do đó
nó “không tránh khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc” (Bùi Văn
Mưa, 2011). Theo Lênin, những kết luận của phép biện chứng duy tâm trong nền triết
học cổ điển Đức là những phỏng đoán tài tình về “biện chứng của sự vật trong biện
chứng của khái niệm” (V.I. Lênin, 2005). Tuy nhiên, Marx viết: “Tính chất thần bí mà
phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận
động chung. Phép biện chứng của Hegel bị lộn ngược đầu xuống đất, chỉ cần dựng
ngược lại là sẽ phát hiện được cái nhân hợp lý của nó đằng sau lớp vỏ thần bí đó. Phép

biện chứng của Hegel nếu đặt trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật giống như con
người đi bằng hai chân vậy, nhưng vì đặt trên nền tảng của chủ nghĩa duy tâm, bao bọc
bởi những lời thông thái thông thường giống một người lộn ngược đầu xuống đất, chân
chổng lên trời” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 1994)
KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy tâm thể hiện trong nền triết học cổ điển Đức; nó được hình
thành từ trong triết học của Kant, trải qua triết học của Fichte và Schelling, sau cùng
nó được hoàn thiện trong triết học của Hegel. Trong triết học của Kant chứa đựng tư
tưởng biện chứng về sự thống nhất giữa các mặt đối lập tạo thành động lực của sự vận
động, phát triển; Trong triết học của Fichte chứa đựng tư tưởng biện chứng về mâu
thuẫn là nguồn gốc của sự vận động, phát triển; và là bản tính của tư duy (tinh thần,
xxv

×