1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM
HOÀNG VĂN THÁI
NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ HỌC
NGOẠI NGỮ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO
ĐẲNG DU LỊCH HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2007
5
MC LC
Trang
M U
1
1. Lý do chn ti
1
2. Mc ớch nghiờn cu
4
3. Nhim v nghiờn cu
4
4. Khỏch th v i tng nghiờn cu
5
5. Gi thuyt khoa hc
5
6. Phm vi nghiờn cu
5
7. Phng phỏp nghiờn cu
5
8. Cu trỳc ca lun vn
5
Chng 1: Cơ sở lý luận về tự học và quản lý tự học
ngoại ngữ
7
1.1. Lch s nghiờn cu vn
7
1.1.1. Quan im v t tng v t hc trờn th gii
7
1.1.2. Quan im v t tng v t hc Vit Nam
9
1.1.3. Nghiờn cu t hc ngoi ng Vit Nam v trng Cao ng Du lch
H Ni
10
1.2. Mt s khỏi nim c bn ca ti
10
1.2.1. Qun lý, chc nng ca qun lý, bin phỏp qun lý
10
1.2.2. Qun lý giỏo dc, qun lý nh trng, qun lý quỏ trỡnh dy hc
16
1.2.3. T hc, qun lý t hc
19
1.2.4. Hiu qu
21
1.3. T hc ngoi ng v qun lý t hc ngoi ng
24
1.3.1. c trng t hc ngoi ng
24
1.3.2.V trớ v vai trũ ca t hc trong dy - hc ngoi ng
26
1.3.3. Qun lý t hc ngoi ng ca sinh viờn
28
1.3.4. Ni dung, bin phỏp qun lý t hc ngoi ng ca sinh viờn
29
Chng 2: THC TRNG QUN Lí T HC NGOI NG CA SINH
VIấN TRNG CAO NG DU LCH H NI
32
2.1. Khỏi quỏt v trng Cao ng Du lch H Ni
32
2.1.1. Quỏ trỡnh xõy dng v phỏt trin ca trng Cao ng Du lch H Ni
32
2.1.2. c im i tng o to ca trng Cao ng Du lch H Ni
34
6
2.1.3. Mc tiờu o to ca trng Cao ng Du lch H Ni
37
2.1.4. T chc b mỏy qun lý trng Cao ng Du lch H Ni
38
2.2. Thc trng qun lý t hc ngoi ng ca sinh viờn trng Cao ng Du lch
H Ni
40
2.2.1.Tỡnh hỡnh dy v hc ngoi ng - ting Anh trng Cao ng Du lch
H Ni
40
2.2.2.Thc trng t hc ngoi ng ca sinh viờn trng Cao ng Du lch H Ni
45
2.2.3.Thc trng qun lý t hc ngoi ng ca sinh viờn trng Cao ng Du lch
H Ni
46
2.3. Nhn xột, ỏnh giỏ chung v thc trng qun lý t hc ngoi ng ca sinh viờn
trng Cao ng Du lch H Ni
62
2.3.1. Nhng im mnh trong cụng tỏc qun lý t hc ngoi ng ca sinh viờn
trng Cao ng Du lch H Ni
62
2.3.2. Nhng hn ch trong cụng tỏc qun lý t hc ngoi ng ca sinh viờn
trng Cao ng Du lch H Ni
63
2.3.3. Nhng nguyờn nhõn ca thc trng cụng tỏc qun lý t hc ngoi ng ca
sinh viờn trng Cao ng Du lch H Ni
64
2.3.4. Nhng vn t ra cho cụng tỏc qun lý t hc ngoi ng ca sinh viờn
trng Cao ng Du lch H Ni
64
Chng 3: Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả tự học ngoại ngữ của sinh viên tr-ờng
Cao đẳng Du lịch Hà nội
66
3.1. Nhng cn c xõy dng cỏc bin phỏp qun lý t hc ngoi ng ca
sinh viờn trng Cao ng Du lch H Ni.
66
3.1.1. Ch trng ca ng v Nh nc
66
3.1.2. Yờu cu ca ngnh Du lch trong giai on mi
67
3.1.3. nh hng phỏt trin ca trng Cao ng Du lch H Ni
68
3.2. Nhng bin phỏp qun lý nhm nõng cao hiu qu t hc ngoi ng ca
sinh viờn trng Cao ng Du lch H Ni
69
3.2.1. Nhúm bin phỏp xõy dng ng c t hc ngoi ng cho sinh viờn
69
3.2.2. Nhúm bin phỏp xõy dng v ph bin ni quy, quy nh t hc ngoi ng
73
3.2.3. Nhúm bin phỏp hng dn xõy dng v t chc thc hin k hoch t hc
ngoi ng cho sinh viờn
74
3.2.4. Nhúm bin phỏp qun lý ni dung v phng phỏp t hc ngoi ng
76
7
của sinh viên
3.2.5. Nhóm biện pháp đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tự học ngoại ngữ của
sinh viên
78
3.2.6. Nhóm biện pháp tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học ngoại ngữ
của sinh viên
81
3.3. Khảo nghiệm tính cấp thiết, tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp
83
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
92
1. KÕt luËn
92
2. Khuyến Nghị
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
PHỤ LỤC
4
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ĐVHT
Đơn vị học trình
BGH
Ban giám hiệu
CĐ - ĐH
Cao đẳng - Đại học
CĐDLHN
Cao đẳng Du lịch Hà nội
CBQL
Cán bộ quản lý
CNH
Công nghiệp hoá
DL
Du lịch
GD - ĐT
Giáo dục - Đào tạo
GV
Giảng viên
HĐH
Hiện đại hoá
HĐTH
Hoạt động tự học
HSSV
Học sinh, sinh viên
KS
Khác sạn
PTTH
Phổ thông trung học
QL
Quản lý
QLGD
Quản lý Giáo dục
QLNT
Quản lý Nhà trường
QTCBMA
Quản trị Chế biến món ăn
QTKDKS
Quản trị kinh doanh Khách sạn
SV
Sinh viên
VTCB
Chứng chỉ nghiệp vụ Du lịch của Tổng cục Du lịch
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam chúng ta, cùng với toàn thế giới đang bước những bước đi đầu
tiên trong thế kỉ 21. Thế kỉ của bùng nổ thông tin, của khoa học công nghệ và
hợp tác phát triển. Đồng thời, nước ta cũng đang đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp (CNH), hoá hiện đại hoá đất nước (HĐH), nhằm đưa Việt Nam trở thành
một nước công nghiệp, văn minh hiện đại và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra
nhiệm vụ cho ngành Giáo dục - Đào (GD - ĐT) tạo là phải “…đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.”[21, tr.8]. Để làm được điều đó và
“để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới, giáo dục
đại học nước ta phải đổi mới một cách mạnh mẽ, cơ bản và toàn diện.”(nghị
quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ) sao cho phù hợp với chủ trương của
Đảng thể hiện trong các văn kiện: Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII chỉ rõ
nhiệm vụ quan trọng của ngành Giáo dục - Đào tạo là phải “khuyến khích tự
học”, Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII tiếp tục khẳng định “đổi mới mạnh
mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thói quen, nề nếp tư duy sáng tạo của người học , đảm bảo thời gian tự học
tự nghiên cứu của học sinh”. Văn kiện Đại hội Đảng IX cũng nhấn mạnh:
“ đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học Phát huy tinh thần độc lập suy
nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện
học vấn và tay nghề ”. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX
về các văn kiện Đại hội X của Đảng do Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trình bày
ngày 18/4/2006 đã nhấn mạnh : “ đổi mới phương pháp dạy và học theo
hướng „chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá‟. Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận
dụng, thực hành của người học.” Điều 5 khoản 2 Luật giáo dục nước Cộng hoà
xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 có ghi: “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng
9
cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên”.
Chúng ta có thể nói rằng Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề tự
học và tự học đã trở thành vấn đề cấp thiết đối với Giáo dục và Đào tạo nước ta.
Tự học có ý nghĩa quyết định biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Đất nước chúng ta đang mở cửa và hội nhập, chúng ta cần ngoại ngữ để
tự chủ trong giao tiếp, kinh doanh, sản xuất. Ngoại ngữ chính là một công cụ tạo
điều kiện cho nước ta hoà nhập, hội nhập với khu vực và cộng đồng quốc tế;
tiếp cận những thông tin khoa học của thế giới và các nền văn hoá khác, cũng
như giới thiệu nền văn hoá Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Thấy rõ tầm quan
trọng của ngoại ngữ (tiếng Anh nói riêng) với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và phát triển đất nước, đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước và hội nhập quốc tế hiện nay, ngay từ những năm 60, Nhà nước chúng ta
đã có nhiều chỉ thị, thông tư về dạy – học ngoại ngữ trong nhà trường, theo đó
môn ngoại ngữ được coi là bộ môn “văn hoá giáo dục phổ thông”. Cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng khi đánh giá việc dạy – học ngoại ngữ của những năm 60 đã
chỉ rõ: “ Các cơ quan giáo dục chưa làm cho mọi người thấy rõ ngoại ngữ là một
phần không thể thiếu được trong giáo dục phổ thông” (chỉ thị 43 – TTg/VG
ngày 11/4/1968). Ngày 7/9/1972, trong quyết định số 251/TTg về cải tiến và
tăng cường công tác dạy và học ngoại ngữ trong các trường phổ thông, Thủ
tướng chính phủ nhấn mạnh: “Môn ngoại ngữ phải được coi là môn học phổ
thông cơ bản trong hệ thống chương trình học của các trường phổ thông từ cấp 3
trở lên”. Sau đó Bộ trưởng Bộ Giáo dục có thông tư chỉ đạo thi hành quyết định
trên của Chính phủ nêu rõ: “ Ngoại ngữ là môn cần được coi trọng cũng như
Toán học và Văn học…” ( Thông tư số 30/TT ngày 28/10/1972 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục). Ngày 15/8/1994, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 422/TTg nêu
rõ: “ … triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh)
cho đội ngũ cán bộ quản lý và công chức… ”; “Bộ Giáo dục và Đào
tạo ……xây dựng đề án đưa việc giảng dạy ngoại ngữ vào chương trình bắt
buộc ….”. Liên quan đến công tác đào tạo ngoại ngữ còn có quyết định số
10
874/TTg ngày 20 tháng 11 năm 1996 của Thủ tướng ghi rõ: “Đào tạo, bồi dưỡng
ngoại ngữ cho cán bộ, công chức nhà nước để tăng cường khả năng giao tiếp,
nghiên cứu tài liệu nước ngoài trong lĩnh vực chuyên môn” và các thông tư chỉ
thị khác như: Thông tư liên tịch số 79/TTLT ngày 19/9/1997… và gần đây
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Đại học
Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 ghi rõ: “ Triển khai việc dạy và học bằng tiếng
nước ngoài , trước mắt là bằng Tiếng Anh…” và nghị quyết phiên họp chính
phủ thường kỳ tháng 3 năm 2006 số 03/2006/NQ-CP ngày 03/4/2006, sau khi
nghe Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Đề án dạy và học ngoại ngữ trong
hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2006 – 2015, ghi rõ: „….yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang đặt ra những đòi hỏi bức xúc phải đổi mới căn bản quá trình dạy và
học ngoại ngữ cho thế hệ trẻ. …….lựa chọn một môn ngoại ngữ là môn học
chính thức cho học sinh tiểu học bắt đầu từ độ tuổi nhất định và khuyến khích
học thêm một ngoại ngữ khác trong các cấp học cao hơn …”. Chưa bao giờ việc
dạy - học ngoại ngữ lại có nhiều văn bản pháp lệnh như thế. Điều đó chứng tỏ
ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, không còn là sự thích thú mà là thực tế khách quan
cần thiết và ngoại ngữ là một công cụ chiến lược phục vụ đắc lực sự nghiệp phát
triển Kinh tế – Xã hội của nước ta trong thế kỷ XXI này.
Đối với những người làm trong lĩnh vực Du lịch, ngoại ngữ là công cụ
không thể thiếu được trong hành trang của mỗi người. Cùng với tin học nó đã
trở thành một trong những tiêu chuẩn “cần” khi tuyển chọn nhân viên với mục
đích góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ Du lịch. Đây cũng là động lực để
“phát triển Du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn” của đất Nước
như đã được xác định trong chiến lược Phát triển Kinh tế – Xã hội 2001 – 2010;
và “từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm Du lịch có tầm cỡ của khu
vực, phấn đấu sau năm 2010 Du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có
ngành Du lịch phát triển trong khu vực” – chiến lược phát triển Du lịch Việt
Nam 2001- 2010.
11
Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội, với trách nhiệm đào tạo nghiệp vụ Du
lịch – Khách sạn và các lĩnh vực liên quan ở trình độ Cao đẳng và các trình độ
thấp hơn cho ngành Du lịch, luôn luôn quan tâm đến chất lượng đào tạo và đảm
bảo phương châm đào tạo của Nhà trường là đào tạo ra đội ngũ nhân viên
Khách sạn - Du lịch “thành thạo nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ”. Ngoại ngữ, nhất
là tiếng Anh, là ngôn ngữ của người làm Du lịch. Học tốt ngoại ngữ không
những sẽ giúp học sinh, sinh viên tự học, tự nghiên cứu chuyên môn nghiệp vụ
trong lĩnh vực Du lịch – Khách sạn mà còn giúp họ công tác tốt sau khi ra
trường.
Tuy nhiên, với thời gian học ngoại ngữ trên lớp có hạn theo chương trình
quy định đang áp dụng tại nhà trường, thì chỉ bằng cách tự học ngoại ngữ mới
giúp học sinh, sinh viên có đủ trình độ để học tập tốt các môn chuyên ngành
khác, nhất là khi Nhà trường đang thực hiện chủ trương đào tạo nghiệp vụ bằng
ngoại ngữ. Do đó, trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội rất quan tâm đến việc học
ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh) của học sinh, sinh viên. Việc phát triển năng lực
tự học ngoại ngữ, quản lý tự học ngoại ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ nói riêng, chất lượng đào tạo của Nhà
trường nói chung.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Những biện pháp quản lý
nhằm nâng cao hiệu quả tự học ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Du
lịch Hà Nội” với mong muốn xây dựng được những biện pháp khả thi trên cơ sở
lý luận khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động tự học ngoại
ngữ của sinh viên; hoạt động giảng dạy của giáo viên ngoại ngữ ; hoạt động
quản lý, chỉ đạo của các nhà quản lý về việc nâng cao kết quả tự học ngoại ngữ
cho sinh viên; góp phần đắc lực vào việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực cho ngành Du lịch của nhà trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn về quản lý tự học và đề xuất những biện
pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả tự học ngoại ngữ của sinh viên trường
CĐDLHN.
12
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và hệ thống hoá cở sở lý luận về tự học và quản lý tự học ngoại
ngữ.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý tự học ngoại ngữ của sinh
viên trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội .
- Đề xuất một số ý kiến về những biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả tự
học ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội .
4.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Những biện pháp quản lý hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên
trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội
5. Giả thuyết khoa học
Trong những năm qua, việc học ngoại ngữ trong trường Cao đẳng Du lịch
Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định. Nếu đề xuất được một số nhóm
biện pháp quản lý có tính hiện thực và hợp lý thì sẽ nâng cao hiệu quả tự học
ngoại ngữ của sinh viên.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những biện pháp quản lý hoạt động tự học
ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội .
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Sưu tầm, phân tích, nghiên cứu các văn kiện, văn bản, nghị quyết của
Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, và các tài liệu liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
+ Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, thông qua trò chuyện, trao đổi,
phỏng vấn với sinh viên, giáo viên, cán bộ quản lý để tìm hiểu về nhận thức, thái
13
độ của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và sinh viên đối với các vấn đề có liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp thống kê và phân tích số liệu: Để xử lý những số liệu thu
được từ khảo sát thực trạng hoạt động tự học ngoại ngữ của học sinh, sinh viên
và thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học ngoại ngữ.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được chia làm 3 chương:
+ Chương 1. Cơ sở lý luận về tự học và quản lý tự học ngoại ngữ
+ Chương 2. Thực trạng quản lý tự học ngoại ngữ của sinh viên
trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội .
+ Chương 3. Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả tự học
ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội .
14
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ HỌC VÀ QUẢN LÝ TỰ HỌC
NGOẠI NGỮ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Quan điểm và tư tưởng về tự học trên thế giới
Trong tiến trình lịch sử phát triển của Giáo dục, tự học luôn luôn nhận
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên, trong mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau, trong từng bối cảnh của xã hội khác nhau, điều kiện
phát triển khác nhau, vấn đề tự học lại được nhìn dưới những “lăng kính” khác
nhau, hay nói cách khác là dưới những khía cạnh, và góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, Các nhà nghiên cứu đã đều khẳng định vai trò quan trọng của tự học, tự
nghiên cứu, tự khám phá của bản thân người học trong công tác học tập, nó là cơ
sở cho mọi sự thành công của mỗi cá nhân.
Khổng tử (551 – 479 trước công nguyên) là một người rất ham học. Với
ông, học là một hứng thú, một đam mê, không chỉ là chuyện nhất thời mà là suốt
đời. Ông là một con người “say sưa học tập và nghiên cứu tới mức quên cả ăn
uống; mỗi khi khám phá được điều hay thì quên hết cả ưu sầu, không biết tuổi
già đang sầm sập tới” (Phát phẫn vong thực, lạc dĩ vong ưu, bất tri lão chi tương
chí) (Luận ngữ - Thuật nhi)[37, tr.183]. Việc học và tự học của ông gắn liền với
đào tạo thế hệ trẻ mà ông đặt nhiều hi vọng. Khổng tử luôn quan tâm đến việc
kích thích suy nghĩ, sáng tao của người học. Với ông, người thầy chỉ tìm ra cho
học trò cái mấu chốt nhất, còn những vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra,
thầy giáo không được làm thay học trò “Không giận vì muốn biết thì không gợi
mở cho, không bực vì không rõ thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc bảo cho
biết một góc mà không suy ra ba góc thì không dạy nữa” (Bất phẫn, bất phải, bất
phi, bát phát. Cứ bất ngu, bất dĩ, tam ngung phản, tác bất phục dã) (Luận
ngữ ).[13, tr.55]
Socrat (469 – 390 trước công nguyên) đã từng nêu khẩu hiệu “ Anh hãy tự
biết lấy anh” qua đó ông muốn học trò phát hiện ra “chân lý” bằng cách đặt câu
hỏi để dần dần tìm ra kết luận. [13, tr.55]
15
J.A.Comenxki (1592 – 1670), ông tổ của nền giáo dục cận đại, người đặt
nền móng cho sự ra đời của Nhà trường hiện nay, nhà giáo dục lỗi lạc của
Slovakia và nhân loại cũng đã nêu ra các nguyên tắc, phương pháp giảng dạy
trong tác phẩm “Phép giảng dạy vĩ đại” nhằm phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh và ông cương quyết phản đối lối dạy học áp đặt làm cho học sinh
có thói quen không tự giác trong học tập. Comenxki nói: “Tôi thường bồi dưỡng
cho học sinh của tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong
việc ứng dụng các tri thức vào thực tiễn”. [13, tr.56]
Thế kỷ XVIII – XIX, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng như J.J. Rousseau
(1712 – 1778); Pestalogie (1746 – 1827); Distecvec (1790 -1866); Usinxki
(1824 -1873) đều có chung quan điểm cần hướng cho học sinh tự nắm bắt
kiến thức bằng cách tự tìm tòi và sáng tạo.
Những năm gần đây, trên cơ sở kế thừa có phê phán các tư tưởng của các
tác giả đi trước, các nước phương tây nổi nên cuộc cách mạng để tìm phương
pháp giáo dục mới dựa trên tiếp cận “ lấy người học làm trung tâm” để phát huy
năng lực nội sinh của con người. Đại diện cho tư tưởng này là John Dewey
(1859 – 1952), ông phát biểu “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi
phương tiện giáo dục”. Một loạt các phương pháp dạy học theo quan điểm tư
tưởng này đã được đưa vào thực nghiệm: “Phương pháp tích cực”, “Phương
pháp hợp tác”, “Phương pháp cá thể hoá”. Nói chung đây là các phương pháp
mà người học không chỉ lĩnh hội kiến thức bằng nghe thầy giảng, học thuộc mà
còn từ HĐTH, tự tìm tòi lĩnh hội tri thức. Giáo viên là người trọng tài, đạo diễn
thiết kế tổ chức giúp học sinh biết cách làm, cách học. [13, tr.59]
T.Makiguchi, nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật Bản, trong những năm
30 của thế kỷ XX đã cho rằng “Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình
học tập và đặt trách nhiệm học tập vào tay mỗi học sinh. Giáo dục xét như là
một quá trình hướng dẫn học sinh tự học”. [19, tr.7]
Raja Roy Singh, nhà giáo dục Ấn độ trong tác phẩm “Giáo dục cho thế kỷ
XXI, những triển vọng của châu Á Thái Bình Dương” đã đưa ra quan điểm về
quá trình “Nhận biết dạy – học” và ông chủ trương rằng người học phải là người
16
tham gia tích cực vào quá trình “Nhận biết dạy – học”. Theo ông “Sự học tập do
người học chủ đạo.” [29, tr.110]
Như vậy, vấn đề tự học đã được nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử giáo
dục ở trên thế giới. Nó vẫn còn là vấn đề nóng bỏng cho các nhà nghiên cứu
giáo dục hiện tại và tương lai bởi vì tự học có vai trò rất quan trọng, quyết định
mọi sự thành công trong học tập, là điều kiện đảm bảo cho hiệu quả, chất lượng
của mọi quá trình giáo dục, đào tạo.
1.1.2. Quan điểm và tư tưởng về tự học ở Việt Nam
Trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, nhất là khi nước ta đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại
thế giới (WTO), đã đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục và đào tạo. Đòi hỏi
GD - ĐT phải tự đổi mới. Một trong những nội dung đổi mới giáo dục được đề
cập nhiều hơn cả là đổi mới phương pháp dạy – học, nhất là phương pháp học
tập – tự học.
Tự học – tự đào tạo là một vấn đề được nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII và Trung ương II (khoá VIII) đề cập đến rất đậm nét: “Tập
trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của
học sinh” (NQĐH VIII), “bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh, phát triển mạnh phong trào tự học – tự đào tạo thường xuyên và
rộng khắp trong toàn dân ”. Nghị quyết của Đảng cũng chính là tư tưởng “Cách
học tập lấy tự học làm cốt”[24, tr.18] của chủ tịch Hồ Chí Minh. Người còn
nhấn mạnh: “ Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”[30, tr.79], và khuyên
“không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học
tập”.[30, tr.79]
Trong khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về vấn đề tự
học như: “Quá trình dạy – tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, giáo sư Vũ
Văn Tảo; “Luận bàn về kinh nghiệm tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn,
“Tự học – chìa khoá vàng của giáo dục” của GS. Phan Trọng Luận, và nhiều
công trình nghiên cứu về tự học của các giáo sư, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu giáo
dục như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức, Thái
17
Duy Tuyên và rất nhiều luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục trong những năm gần
đây đề cập đến nhiều khía cạnh về hoạt động tự học và các biện pháp quản lý, tổ
chức hoạt động tự học với mục đích nâng cao hiệu quả tự học của sinh viên, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
1.1.3. Nghiên cứu tự học ngoại ngữ ở Việt Nam và trường Cao đẳng Du lịch
Hà Nội
Môn ngoại ngữ đã được coi là một môn văn hoá cơ bản trong các trường
phổ thông và là môn học bắt buộc trong các trường Cao đẳng, Đại học, Trung
học chuyên nghiệp và các trường đào tạo nghề. Do đó, việc nghiên cứu ứng
dụng phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập ngoại ngữ luôn nhận dược sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, các trung tâm đào tạo ngoại ngữ trong và
ngoài nước.
Ở Việt Nam, Bộ Giáo dục đào tạo đã phối hợp với các trung tâm ngoại
ngữ có uy tín như Hội đồng Anh, Trung tâm giáo dục Appollo tổ chức các
cuộc hội thảo về dạy và học ngoại ngữ. Đã có nhiều bài viết được đăng trên các
tờ báo, tạp chí, Website chính thức nhằm chia sẻ kinh nghiệm tự học ngoại ngữ
và cách học hoại ngữ thành công. Trong đó có tác giả Nguyễn Huy Côn với
cuấn sách “Tự học và sử dụng ngoại ngữ”, nhóm tác giả gồm Giáo sư nhà giáo
nhân dân Vũ Văn Chuyên, Tiến sĩ Ngữ văn Nguyễn Quang và Thach sĩ Nguyễn
Hải Nam với cuấn sách “Phương pháp tự học ngoại ngữ nhanh – hiệu quả” và
nhiều tác giả khác.
Những năm qua, tuy đã có nhiều luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục nghiên
cứu về vấn đề tự học và quản lý hoạt động tự học ngoại ngữ, song hoạt động tự
học, đặc biệt hoạt động tự học ngoại ngữ của sinh viên trường Cao đẳng Du lịch
Hà Nội vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ, chưa có một công trình nào nghiên cứu.
Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi tập trung vào việc xây dựng các biện pháp
quản lý nhằm nâng cao hiệu quả tự học ngoại ngữ của sinh viên Trường
CĐDLHN để góp phần nâng chất lượng giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ và
nhân viên Du lịch của Nhà trường trong giai đoạn hiện nay và sau này.
18
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, chức năng của quản lý, biện pháp quản lý
1.2.1.1. Quản lý
Ngày nay, ai cũng biết rằng quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong
bất cứ hoạt động nào của con người, dù là sản xuất hay kinh doanh, dù trong
hoạt động giáo dục đào tạo, dù trong hoạt động văn hoá hay trong hoạt động xã
hội. Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong điều khiển hệ thống xã hội
ở tầm vĩ mô và vi mô. Có tập thể, tổ chức là có quản lý. Quản lý xuất hiện như
một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới mục tiêu
chung. Theo C. Mác, quản lý là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hoá
lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều
thông qua hoạt động của con người và thông qua quản lý. Mác viết: “Tất cả mọi
lao động trong xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên qui mô
tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần có một sự chỉ đạo để điều hoà những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận
động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc
lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn
nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.[38, tr.10]
Thuật ngữ “quản lý" (theo tiếng Việt gốc Hán) gồm hai quá trình tích hợp
nhau: Quá trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hiện trạng ở trạng thái “ổn
định”, quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp đổi mới hệ vào thế “phát triển”.
Nếu người quản lý chỉ lo việc “quản” thì tổ chức dễ trì trệ, và nếu chỉ quan tâm
đến “lý” thì sự phát triển của tổ chức không bền vững. Do đó, trong “quản” phải
có “lý‟, trong “lý” phải có “quản” để động thái của hệ ở trạng thái cân bằng
động: hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong môi trường tương
tác giữa các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.[theo giải thích của
PGS.TS Đặng Quốc Bảo]
Thuật ngữ quản lý trong tiếng Anh gọi là “management”. Nhưng khi được
dịch sang tiếng Việt có nhiều người hiểu và sử dụng với nghĩa là quản trị. Tuy
19
nhiên, người ta hay sử dụng “management” với ý nghĩa là quản lý hơn cả vì
quản lý là thuật ngữ được dùng chỉ việc điều khiển nói chung.
Khi xem xét thuật ngữ quản lý, chúng ta cần phải xem xét nó trên cả hai
phương diện: chính trị – xã hội và hành động.
Trên phương diện chính trị – xã hội, quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa
tri thức với lao động. Để vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù
hợp. Cơ chế đúng, hợp lý thì xã hội phát triển. Ngược lại, thì xã hội phát triển
chậm hoặc không ổn định.
Trên phương diện hành động, quản lý được hiểu là sự chỉ huy, điều khiển,
điều hành.
Vậy quản lý là gì? Từ trước tới nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về
quản lý:
- Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó
hiểu rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất. – Taylor đã
đưa ra định nghĩa này về quản lý trong thuyết quản lý khoa học. [28, tr.49]
- Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra. –
Henry Fayol. [4, tr.59]
- Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.[5, tr.1]
- Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân
làm nhiệm vụ và các mục tiêu đã định[19, tr.11]
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng bị
quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá xã hội, kinh tế…bằng một hệ thống các
luật lệ , các chính sách, nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể
nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. [19, tr.11]
- Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá
20
nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.
[40, tr.40]
Nghiên cứu các định nghĩa quản lý, chúng ta có thể thấy mặc dù các tác
giả có các quan niệm khác nhau về quản lý nhưng họ đều thống nhất:
Quản lý luôn luôn tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm các yếu tố chủ
thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý); khách thể quản lý (người bị quản lý,
đối tượng quản lý) gồm con người, trang thiết bị kỹ thuật, vật nuôi, cây trồng và
mục đích mục tiêu chung của công tác quản lý do chủ thể quản lý áp đặt hay do
yêu cầu khách quan của xã hội hoặc do sự cam kết, thoả thuận giữa chủ thể quản
lý và khách thể quản lý, từ đó nảy sinh các mối quan hệ tương tác với nhau giữa
chủ thể và khách thể quản lý.
Như vậy, Quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu và không thể thiếu
được trong xã hội, đời sống xã hội, đời sống của mỗi cá nhân. Hiện nay, hoạt
động quản lý được người ta định nghĩa rõ hơn, cụ thể hơn: “ Quản lý là quá trình
đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động chức năng như:
kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”. [5, tr.1]
1.2.1.2. Các chức năng của quản lý
Quản lý phải thực hiện nhiều chức năng khác nhau và cũng có nhiều quan
điểm khác nhau về việc phân chia các chức năng quản lý. Tuy nhiên, ngày nay
người ta đều thống nhất hoạt động quản lý có bốn chức năng cơ bản sau: Kế
hoạch hoá, Tổ chức, Chỉ đạo, và Kiểm tra.
*Kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá là một chức năng của quản lý. Kế hoạch hoá có nghĩa là xác
định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và các con
đường biện pháp, cách thức để đạt mục tiêu, mục đích đó. Chức năng kế hoạch
hoá có ba nội dung cơ bản:
- Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức;
- Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn
lực của tổ chức để đạt được các mục tiêu này.
21
- Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục
tiêu, xác định các hoạt động ưu tiên.
*Tổ chức
Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành
viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công
kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Chính nhờ sự tổ chức có
hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và
nhân lực. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào người quản lý sử
dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và có kết quả.
Theo Ernest Dale, chức năng tổ chức gồm năm bước:
Bước một: Lập danh sách các công việc cần phải hoàn thành để đạt được
mục tiêu của tổ chức.
Bước hai: Phân chia toàn bộ công việc thành những nhiệm vụ để các
thành viên hay các bộ phận (nhóm) trong tổ chức thực hiện một cách thuận lợi
và hợp lôgích. Đây gọi là bước phân công lao động.
Bước ba: Kết hợp các nhiệm vụ một cách lôgích và hiệu quả. Đây là bước
phân chia bộ phận.
Bước bốn: Thiết lập một cơ chế điều phối. Sự liên kết hoạt động của các
cá nhân, các nhóm, các bộ phận một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện để đạt được
các mục tiêu của tổ chức một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.
Bước năm: Theo dõi đánh giá tính hiệu nghiệm của cấu trúc tổ chức và
tiến hành những điều chỉnh cần thiết.
* Chỉ đạo
Chỉ đạo hay lãnh đạo bao gồm việc liên kết, liên hệ với người khác và
động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ
chức. Hiển nhiên, việc chỉ đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và
thiết kế bộ máy đã hoàn tất mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức
năng trên.
Chỉ đạo tập trung vào các ưu tiên sau:
22
- Nhận thức lãnh hội quan điểm, xây dựng tầm nhìn, lý tưởng, sứ mệnh
của hệ thống.
- Làm sáng tỏ được thực trạng vận động của hệ thống, phân tích các mâu
thuẫn trong quá trình phát triển, phát hiện ra nhân tố mới.
- Tổng kết được quy luật, xu thế phát triển của hệ thống.
- Đề xuất các phương án chiến lược phát triển hệ thống.
*Kiểm tra
Kiểm tra là chức năng cuối cùng trong bốn chức năng cơ bản của quản lý.
Kiểm tra đề cập đến các phương pháp và cơ chế được sử dụng để đảm bảo rằng
các hành vi/ hoạt động và thành tựu phải tuân thủ, phù hợp với mục tiêu, kế
hoạch và chuẩn mực của tổ chức. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “
Quản lý mà không kiểm tra thì coi như không quản lý”. Thông qua kiểm tra một
cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động
và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uấn nắn nếu cần thiết. Một kết quả hoạt
động phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì phải tiến
hành những hành động điều chỉnh, uấn nắn.
Kiểm tra trong hoạt động quản lý là một nỗ lực có hệ thống nhằm xác
định những chuẩn mực (tiêu chuẩn) thành tựu khi đối chiếu với các mục tiêu đã
được kế hoạch hoá; thiết kế một hệ thống thông tin phản hồi; so sánh thành tựu
hiện thực với các chuẩn mực đã định; xác định những lệch lạc có và đo lường
mức độ của chúng; tiến hành những hành động cần thiết để đảm bảo rằng những
nguồn lực của tổ chức được sử dụng một cách hiệu quả để đạt được mục tiêu của
tổ chức.
Theo Rorbert J.Mockler, kiểm tra có bốn bước:
Bước một: Xác định mục tiêu chuẩn (chuẩn mực) và phương pháp đo
lường thành tựu. Các tiêu chuẩn thành tựu phải đủ tường minh để các thành viên
liên quan lĩnh hội được một cách dễ dàng, thống nhất. Phương pháp đo lường
chuẩn mực phải đảm bảo so sánh chính xác và công bằng giữa các thành tựu với
chuẩn mực đặt ra.
23
Bước hai: Đo lường thành tựu, là một quá trình lặp đi lặp lại và diễn biến
liên tục, với tần suất thực hiện phụ thuộc vào các dạng hoạt động và các cấp độ
quản lý khác nhau.
Bước ba: Xác định mức độ đáp ứng phù hợp của thành tựu so với tiêu
chuẩn (chuẩn mực).
Bước bốn: Tiến hành những hoạt động uấn nắn, sửa chữa khi phát hiện
thấy những sai lệch thành tựu so với chuẩn mực (tiêu chuẩn) đề ra. Các nhà quản
lý có thể điều chỉnh các sai lệch bằng cách thay đổi các hoạt động của các cá
nhân thành viên hay các nhiệm vụ hoạt động của một bộ phận trong tổ chức,
hoặc là sửa đổi lại các chuẩn mực thành tựu nếu thấy chúng không thể thực hiện
được.
Tóm lại, bốn chức năng của quản lý trong định nghĩa về quản lý theo quan
điểm hiện nay được phân tích trên đây có quan hệ hữu cơ, biện chứng với nhau.
Cả bốn chức năng trên đều được triển khai đồng khi tiến hành hoạt động quản
lý. Bất cứ người quản lý nào cũng phải làm công việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra.
1.2.1.3. Biện pháp quản lý
* Biện pháp
Theo từ điển tiếng Việt: “Biện pháp là cách làm, giải quyết một vấn đề cụ
thể”. Tiếng Anh gọi là “Measure” : hành động để thực hiện một mục đích.
Biện pháp là một bộ phận của phương pháp, điều đó có nghĩa là để sử
dụng một phương pháp nào đó phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Cùng
một biện pháp có thể sử dụng trong nhiều phương pháp khác nhau. Ví dụ: Biện
pháp so sánh có thể dùng trong phương pháp thuyết trình và phương pháp vấn
đáp.
* Biện pháp quản lý
Biện pháp quản lý (managerial measure) là cách quản lý, cách giải quyết
những vấn đề có liên quan đến quản lý.
24
Như vậy, biện pháp quản lý có tác động đến hoạt động tự học ngoại ngữ
là cách làm, giải quyết liên quan đến việc kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và
kiểm tra công việc tự học ngoại ngữ nhằm đạt được mục tiêu của tự học ngoại
ngữ và góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
1.2.2. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường, quản lý quá trình dạy - học
1.2.2.1. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục, là một loại hình của quản lý xã hội, là quá trình vận
dụng những nguyên lý, phương pháp, khái niệm của khoa học quản lý vào
một lĩnh vực hoạt động cụ thể, một ngành chuyên biệt, đó là ngành giáo dục.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý giáo dục:
- Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách
thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả
mong muốn bằng cách hiệu quả nhất. [19, tr.12]
- Quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức, được định hướng của
chủ thể quản lý lên các thành tố của các hoạt động giáo dục nhằm thực hiện mục
tiêu của giáo dục một cách hiệu quả.[19, tr.12]
- Quản lý GD nói chung và quản lý nhà trường nói riêng có ba đối tượng
quản lý cơ bản là quản lý con người và các mối quan hệ liên nhân cách; quản lý
toàn bộ quá trình GD và dạy học diễn ra trong nhà trường cùng các mối quan hệ
giữa nhà trường với gia đình học sinh và cộng đồng xã hội nơi trường đóng;
quản lý các điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện, nguồn nhân lực cho dạy và
học.[15, tr.1]
Nói chung, quản lý giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý trong lĩnh vực hoạt động giáo dục. Nói đầy đủ hơn của định nghĩa
này, QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật
của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo dục
quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
25
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực
lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.
Hệ thống giáo dục là một hệ thống xã hội. QLGD cũng chịu sự chi phối
của các quy luật xã hội và tác động của QL xã hội. QLGD có những đặc trưng
chủ yếu sau:
+ Sản phẩm giáo dục là nhân cách, là sản phẩm có tính đặc thù nên
QLGD phải ngăn ngừa sự dập khuôn, máy móc trong việc tạo ra sản phẩm cũng
như không được phép tạo ra phế phẩm.
+ QLGD nói chung, quản lý nhà trường nói riêng phải chú ý đến sự khác
biệt giữa đặc điểm lao động sư phạm so với lao động xã hội nói chung.
+ Trong QLGD, các hoạt động quản lý hành chính nhà nước và quản lý sự
nghiệp chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau không thể tách rời,
tạo thành hoạt động QLGD thống nhất.
+ QLGD đòi hỏi những yêu cầu cao về tính toàn diện, tính thống nhất,
tính liên tục, tính kế thừa, tính phát triển
+ QLGD phải thấm nhuần quan điểm quần chúng vì giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng.
Dựa trên phạm vi quản lý, người ta chia quản lý giáo dục ra hai loại, đó là:
+ Quản lý hệ thống giáo dục: QLGD được diễn ra ở tầm vĩ mô, trong
phạm vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ địa phương (tỉnh, thành phố).
+ Quản lý nhà trường: QLGD ở tầm vi mô, trong phạm vi một đơn vị, một
cơ sở giáo dục.
1.2.2.2. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường (QLNT ) là hệ thống những tác động có mục đích, có
kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (các cấp quản lý của hệ thống giáo
dục) nhằm làm cho nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để đạt tới mục
tiêu giáo dục đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của đất nước. QLNT thực chất
là quản lý trên tất cả các mặt, các khía cạnh liên quan đến hoạt động giáo dục và
đào tạo trong phạm vi một nhà trường. Quản lý nhà trường bao gồm các hoạt
động :
26
+ QL chương trình dạy – học (đào tạo) và giáo dục của nhà trường
+ Quản lý học sinh (QL các hoạt động của học sinh)
+ QL cán bộ, giáo viên, phát triển nghề nghiệp của nhà giáo
+ QL cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, thư viện của nhà trường, đảm bảo
cho nhà trường hoạt động để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
+ QL quá trình dạy học
+ QL tài chính nhà trường
+ QL quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng
Tóm lại, “QLNT là thực hiện đường lối của Đảng chính sách của Nhà
nước trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục đặt ra đối với ngành giáo dục,
với thế hệ trẻ và từng học sinh”.[19, tr.24]
1.2.2.3. Quản lý quá trình dạy – học
Quản lý quá trình dạy – học là một trong những nội dung chính của quản
lý nhà trường. Quản lý quá trình dạy học là quản lý việc chấp hành những quy
định, quy chế về hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của
học sinh, sinh viên nhằm đảm bảo cho các hoạt động đó được thực hiện một
cách nghiêm túc, tự giác có chất lượng và có hiệu quả. Trong quản lý quá trình
dạy học giảng viên vừa là khách thể quản lý nhưng cũng vừa là chủ thể quản lý
của quá trình dạy học vì giảng viên vừa có nhiệm vụ giảng dạy – giáo dục sinh
viên, đồng thời họ phải học tập, rèn luyện, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng
cao trình độ về mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động giảng
dạy- giáo dục của mình; Sinh viên vừa đối tượng vừa là chủ thể của quá trình
đào tạo đó. Quản lý quá trình dạy – học gồm:
- Quản lý các hoạt động dạy học trên lớp
- Quản lý hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp.
1.2.3. Tự học, quản lý tự học
1.2.3.1. Tự học
27
Thông thường, tự học được hiểu là tự mình học lấy cho mình. Tuy nhiên,
chuyện tự học không phải chỉ hiểu một cách đơn giản như vậy.
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp v.v )
và có khi cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả
động cơ tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan,
có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa
học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi v.v ) để chiếm lĩnh một
lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của
mình.” [31, tr.59 - 60]
Theo giáo sư Vũ Văn Tảo: “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển
nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị
con người mình bằng cách thu nhận, xử lý và điều chỉnh thông tin từ môi trường
sống của chủ thể”. [19, tr.19]
Tự học là nội lực của người học, nhân tố quyết định sự phát triển bản thân
người học. Có tự học mới phát triển được tư duy độc lập, từ chỗ có tư duy độc
lập mới có tư duy phê phán, có khả năng phát hiện vấn đề và nhờ đó mới có tư
duy sáng tạo.
Tóm lại, Tự học là quá trình tích cực, tự giác chiếm lĩnh tri thức, hình
thành kỹ năng kỹ xảo của chính bản thân người học. Nhờ có tự học người học
mới thực sự nắm vững tri thức, làm chủ tri thức và mới có thể vận dụng những
tri thức đó vào cuộc sống thực tiễn.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Hình thức thứ nhất: Có sách, có tài liệu người học tự tìm kiếm tri thức
để thoả mãn nhu cầu nâng cao, mở rộng hiểu biết của riêng mình, bổ sung, mở
rộng kiến thức ngoài chương trình đào tạo của nhà trường. Đây là tự học ở mức
độ cao.
- Hình thức thứ hai: Có sách, tài liệu và có thêm thầy ở xa hướng dẫn tự
học bằng tài liệu hoặc bằng các phương tiện thông tin viễn thông khác. Hướng