Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

VAI TRÒ CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.79 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
***
TIU LUN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH
MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Chuyên ngành:
Quản trị kinh doanh quốc tế & Tài chính quốc tế
VAI TRÒ CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhm:
Kha:
Người hướng dẫn khoa học:
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2014
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử kinh tế thế giới, sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường
chính là một thành quả vượt trội của nhân loại. Đó là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều
thế kỷ, qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau và đạt được sự hoàn thiện trong
phượng thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phải là thuộc
tính riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là kiểu tổ chức xã hội, là một thể chế kinh tế phổ
biến đối với tất cả các chế độ chính trị xã hội nào mà ở đó sản xuất hàng hóa còn là tất
yếu. Mặc dù phổ biến đối với tất cả các nền sản xuất hang hóa, nhưng dưới ảnh hưởng
của điều kiện lịch sử - văn hóa – xã hội- chính trị của các dân tộc khác nhau, kinh tế thị
trường được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau.
Xác định vấn đề cốt lõi ấy, Đảng và Nhà nước ta chủ động xây dựng nền kinh tế
Việt Nam theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ
đạo do nền kinh tế nhà nước nắm giữ. Vậy kinh tế Nhà nước là gì? Thế nào là vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Và
làm thế nào để kinh tế Nhà nước giữ được vai trò chủ đạo ấy? Đó là những câu hỏi được
đặt ra không chỉ cho các nhà lãnh đạo và quản lí kinh tế mà còn cho cả các nhà quản trị,


kinh doanh và bất cứ ai quan tâm đến những vấn đề kinh tế của nước ta.
Dưới sự hướng dẫn của giảng viên bộ môn cô cùng những tài liệu sưu tầm và kiến
thức thu được trong quá trình học tập môn “Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản
Việt Nam”, nhóm 5 sẽ tập trung trả lời các câu hỏi trên đồng thời đi sâu tìm hiểu, phân
tích thực trạng quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta từ đó có những giải pháp thích hợp.
Do hạn chế thời gian và vốn kiến thức có hạn, trong quá trình tìm hiểu không
tránh khỏi những sai sót. Vì vậy nhóm rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô
và bạn bè để bài thu hoạch được hoàn chỉnh hơn.
Mọi đóng góp xin vui lòng gửi qua email:
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với
nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch
vụ trên thị trường.
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó các quan hệ kinh tế,
phân phối sản phẩm , lợi ích đều do các quy luật của thị trường điều tiết, chi phối.
1.1.2. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường mà cơ chế
thị trường là tổng thể các nhân tố quan hệ cơ bản, vận động dưới sự chi phối của
quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục đích sinh lợi.
Trong cơ chế thị trường, những vấn đề có liên quan đến việc phân bổ và sử dụng
nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn,…về cơ bản được giải
quyết khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy
luật cung cầu.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp
biểu hiện qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của
từng thành viên tham gia thị trường là hướng tìm kiếm lợi ích của mình theo sự
dẫn dắt của giá cả thị trường.

Khách hàng giữ vị trí trung tâm trong nền kinh tế thị trường; quyết định sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tìm mọi cách để thu hút
thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền tệ trở thành
thước đo hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng năng
suất lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua các quy luật kinh tế đặc biệt là sự linh hoạt trong giá cả nền kinh tế thị
trường luôn duy trì sự cân bằng giữa cung- cầu của các loại hàng hoá, dịch vụ, hạn
chế xảy ra khan hiếm hàng hoá.
1.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường
• Ưu điểm:
Thúc đẩy sản xuất và gắn sản xuất với tiêu thụ, thực hiện mục tiêu của sản xuất.
Thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản suất năng động thích nghi với biến động của thị
trường bằng các cách như thay đổi mẫu mã, tìm mặt hàng mới, phá thế độc quyền,

Thúc đẩy khoa học – công nghệ, kích thích tăng năng suất lao động, nâng cao trình
độ xã hội hóa sản xuất và chất lượng sản phẩm, giá thành hạ, đáp ứng yêu cầu của
khách hàng và thị trường.
Tạo quá trình cạnh tranh kinh tế, thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất
Kích thích sản xuất, đề cao trách nhiệm của nhà kinh doanh đối với khách hàng,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội
• Nhược điểm:
Mang tính tự phát, tìm kiếm lợi nhuận bằng bất cứ giá nào, không cần theo hướng
của Nhà nước vì mục tiêu của nó là phát triển kinh tế vĩ mô. Điều đó gây ra độc
quyền, thủ tiêu cạnh tranh làm giảm hiệu quả chung của nền kinh tế
Các nhà kinh doanh luôn tìm mọi cách, thậm chí thủ đoạn để làm hàng giả, buôn
lậu, trốn thuế, để có thể thi về lợi nhuận tối đa.
- Tàn phá tài nguyên, hủy hoại môi trường
1.2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1.2.1. Sự tất yếu của việc hình thành nền kinh tế thị trường định hường xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp với những đặc điểm chủ yếu sau:
Nhà nước quản lí nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ
tiêu pháp lệnh được giao.
Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với
các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng
gây ra thì ngân sách nhà nước phải gắng chịu. Các doanh nghiệp không có quyền
tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị rang buộc trách nhiệm đối với kết quả
sản xuất, kinh doanh.
Quan hệ hang hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu.
Nhà nước quản lý kinh tế thong qua chế độ “cấp phát-giao nộp”.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh ra
đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được
hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hang hóa
thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực của chúng trên thị trường.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu : Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm
tiêu dung cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu với
mức giá khác xa so với mức giá thị trường.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế tài ràng buộc
trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.
Cơ chế này có những tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực
kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, xét
đến tình hình phát triển của đất nước ta lúc bấy giờ cũng như xu hướng phát triển kinh tế

trên thế giới, cơ chế quản lý này đã ngày càng bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Cơ chế này
không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử
dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất
lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và sinh ra nhiều hiện tượng tiêu
cực trong xã hội.
Trong khi đó, kinh tế thị trường là một thành quả chung của nhân loại với nhiều ưu điểm
vượt trội hơn hẳn. Mặc dù đạt trình độ cao nhất ở các nước chủ nghĩa tư bản nhưng việc
phát triển và xây dựng kinh tế thị trường không phải là đi theo con đường chủ nghĩa tư
bản. Nền kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ không đối
lập với các chế độ xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, rất cần thiết sử dụng nền kinh tế này làm cơ sở kinh tế của sự
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc áp dụng nền kinh tế thị
trường phải được nghiên cứu thật kĩ, nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn đọng trong
bản chất nền kinh tế này, đồng thời phải phù hợp với điều kiện chính trị, xã hội của đất
nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác định mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba
mặt: sở hữu, quản lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau,
nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời
sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát
triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc,
tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.

Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị
trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những
mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động của toàn thể nhân dân.
Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng
hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và thông qua phúc lợi xã hội" (Trích Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 77-
78).
Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực
hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể hiện ở
chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí,
giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Chủ
trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC:
2.1. Kinh tế nhà nước:
Kinh tế nhà nước (KTNN) là thành phần kinh tế giữ vai trò sở hữu công cộng (công
hữu) về tư liệu sản xuất, gồm sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước. Nói một cách dễ hiểu,
thành phần KTNN do nhà nước là người đại diện cho toàn dân để làm chủ sở hữu, tổ

chức quản lý, và thông qua doanh nghiệp, tham gia vào các hoạt động kinh tế. Mô hình
KTNN gồm 2 bộ phận cấu thành: doanh nghiệp nhà nước và thành phần KTNN phi
doanh nghiệp (đất đai, hệ thống đường xá, ngân sách quốc gia,…)
Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước thành lập, đầu tư vốn sản xuất kinh doanh, tổ
chức quản lý và hoạt động theo cơ chế thị trường như mọi thành phần kinh tế khác, được
chia thành hai lĩnh vực:
Doanh nghiệp hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận: là những doanh
nghiệp độc lập làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất, cung ứng dịch vụ
theo những quy định về khung giá và hình thức của nhà nước, không vì mục tiêu
lợi nhuận.
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận
Các doanh nghiệp nhà nước cần phải được hoàn thiện, phát triển, mở rộng, làm tốt
nhiệm vụ then chốt của mình, giúp nhà nước định hướng, điều tiết vĩ mô và tạo cơ
sở để KTNN hoàn thành tốt vai trò chủ đạo trong điều kiện nền kinh tế quốc gia và
gia nhập kinh tế thế giới.
2.2. Vai trò của kinh tế nhà nước
2.2.1. Vai trò kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở các nước tư
bản
Vai trò kinh tế của nhà nước tư bản hiện đại là điều chỉnh sự vận động của quá trình
tái sản xuất tư bản chủ nghĩa tức là thúc đẩy, điều tiết và quản lí nền kinh tế. Để thực hiện
được nhiệm vụ đó, ngoài việc sử dụng các nguồn lực và công cụ sẵn có, nhà nước còn
phải sử dụng công cụ điều chỉnh kinh tế. Kết cấu của hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà
nước tư bản độc quyền hiện đại là một hệ thống thiết chế tổ chức bộ máy nhà nước tư
bản, cùng với nó là hệ thông các công cụ và các giải pháp kinh tế được thể chế hóa thành
các chính sách kinh tế của nhà nước. Hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản
gồm:
Khu vực sản xuất thuộc sở hữu nhà nước: Với mục đích duy trì sự tồn tại của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng hướng hoạt động kinh tế vào việc
tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và cải thiện điều kiện để thúc đẩy quá trình
tái sản xuất xã hội mà không cần lợi nhuận cao hoặc không mang lại lợi nhuận như

xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, khai thác các nguồn nguyên liệu mới, xây dựng
các ngành kinh tế mũi nhọn gặp nhiều rủi ro, phát triển và ứng dụng khoa học-
công nghệ vào sản xuất…
Tài chính nhà nước: Nhà nước tư sản có tiềm lực kinh tế vô cùng to lớn và hiệu
quả để có thể điều chỉnh kinh tế. Công cụ chủ yếu của tài chính là thuế và tài trợ
Nhà nước, bằng các định ra mức thuế khác nhau và khoản tài trợ chủ yếu, Nhà
nước có thể điều chỉnh được vận động của dòng đầu tư tư bản, khoa học – công
nghệ, điều hòa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư…. Thông qua chính sách thuế
Nhà nước khuyến khích và nâng đỡ các ngành giữ vai trò quan trọng trong nền
kinh tế.
Tiền tệ và tín dụng: Nhà nước điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong lưu thông qua ba
công cụ hoạt động thị trưởng mở, thay đổi tỷ lệ chiết khấu và tỷ dự trữ pháp định.
Giá cả: Nhà nước điều chỉnh giá cả sao cho phù hợp với từng thời kì kinh tế, từng
sự biến đổi của cơ chế thị trường và điều chỉnh tiền lương sao cho tương xứng với
giá cả.
Kế hoạch hóa: Nhà nước dùng kế hoạch không chỉ để định hướng kinh doanh phát
triển theo cơ cấu kinh tế phù hợp mà còn nâng đỡ và hỗ trợ Tư bản tư nhân phát
triển
Các công cụ hành pháp: Các văn bản và sắc lệnh Nhà nước cùng với bộ máy thi
hành thanh tra, giám sát, xử lí tạo thành một hệ thống công cụ hành pháp mạnh để
Nhà nước điều chỉnh quá trình vận động của nền kinh tế theo mục tiêu định trước
của mình.
Các công cụ kĩ thuật
2.2.2Vai trò kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở các nước xã hội
chủ nghĩa
- Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ
pháp luật để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế vì ổn địn chính trị, xã hội là
điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn tạo ra hành lang pháp luật cho
hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt
động thị trường, đặt ra các quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp.

- Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt
động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
- Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì
lợi ích có thể lạm dụng tài nguyên gây ô nhiễm môi trường sống. Vì vậy, Nhà nước phãi
thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động này
- Đảm bảo cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của thị
trường.
- Khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, tiến bộ và công bằng xã hội.
2.2.3 Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thành phần KTNN, với những lợi thế về bản chất, cơ cấu tổ chức, có đủ điều kiện
cần thiết và cơ bản để dảm nhận vai trò chủ đạo trong việc đưa nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất: KTNN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất do nhà nước đại
diện cho toàn dân làm chủ sở hữu, phù hợp với xu hướng xã hội hóa của lực lượng
sản xuất. Chế độ công hữu góp phần xóa bỏ sự độc chiếm, không còn sự bóc lột và
kẻ bóc lột trong xã hội. Và trong thời đại xã hội chủ nghĩa, các đơn vị kinh tế công
hữu theo đuổi lợi ích kinh tế độc lập hoặc tương đối độc lập nên tồn tại quan hệ
cạnh tranh. Đồng thời, tư liệu sản xuất thuộc sở hữu chung của toàn thể người lao
động, do đó tồn tại quan hệ hợp tác lẫn nhau. Chính vì vậy, cần một bộ phận đứng
ra để điều phối chế độ công hữu này một cách phù hợp và công bằng, đó là kinh tế
nhà nước
Thứ hai: sở hữu vị trí then chốt, xương sống của nền kinh tế, KTNN có khả năng
chi phối, điều tiết hoạt động các thành phần kinh tế khác. Đồng thời, KTNN còn
định hướng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Mỗi
thành phần kinh tế không hề hoạt động đôc lập mà có sự tương quan, liên kết lẫn
nhau, do đó, để đảm bảo cho quá trình vận động vừa cạnh tranh, vừa tác động với
các thành phần kinh tế khác, KTNN cần tự mình vươn lên phát triển, khắc phục
những khuyết điểm, hoàn thiện hơn để tạo nền tảng trong nền kinh tế quốc dân.

Ngoài ra, KTNN còn đảm bảo cung ứng các dịch vụ về kinh tế và xã hội, tạo điều
kiện và định hướng cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển và ổn định
Thứ 3: ngoài các công cụ, đòn bẩy kinh tế, KTNN còn tận dụng những thiết chế và
hoạt động kiến trúc thượng tần gián tiếp tác động tới các thành phần kinh tế khác.
Đó là nhà nước, đảng phái, giáo hội, đoàn thể xã hội hay những quan điểm chính
trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật,…Những yếu tố này đóng góp quan
trọng trong việc bảo vệ, giữ vững chế độ kinh tế dưới sự ổn định của tư tưởng
chính trị
Thứ tư: KTNN sớm tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ, có
nhịp độ phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào ngân sách nhà nước. Với vai
trò chủ đạo của mình, KTNN luôn nhanh chóng lĩnh hội, nắm bắt và đưa những
tiến bộ khoa hoc-công nghệ vào nền kinh tế, tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức
sang tạo, nghiên cứu, đảm bảo quyền nghiên cứu và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ năm: KTNN là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, khu đô
thị mới, nắm giữ và đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng, nhưng đòi hỏi vốn lớn mà
thời gian thu hồi vốn chậm

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
NƯỚC TA
3.1. Thành tựu:
3.1.1. Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Trong vòng 20 năm (1991-2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam (VN) đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao của khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên
thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990.
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm
2011. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt
qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã
đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 trên thế giới. Vốn FDI tính từ năm 1988 đến tháng 7-
2012 đăng kí đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ

năm 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Sự phục hồi và tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện
kế hoặc 5 năm (2011-2015) trong những năm sau đạt kết quả vững vàng hơn.
3.1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn sản xuất với thị trường
Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2013 còn 18,4%; cơ cấu trồng trọt
và chăn nuôi dịch chuyển theo hướng tiến bộ, tăng tỉ trọng các sản phẩm có năng suất và
hiệu quả kinh tế cao, có giá trị xuất khẩu. Tỉ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh
và liên tục gắn với đối mới thiết bị, công nghệ: năm 1988 là 21,6%, năm 2013 lên 38,3%.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 43,3% năm 2013.
3.1.3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then. Cơ chế quản lí doanh nghiệp nhà nước được đổi
mới theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và
trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển ngành
càng mạnh, huy động ngày một tốt hơn tiềm lực trong nhân dân. Ước tính năm
2013, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 76955 doanh nghiệp, tăng
10,1% so với năm 2012 với tổng vốn đăng ký là 398,7 nghìn tỷ đồng, giảm 14,7%.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng
với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân
sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
3.1.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa
thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường
đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp

tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Với chủ trương tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, VN đang là thành viên của 63 tổ
chức quốc tế, trong đó có ASEAN, WTO, AFTA,… và có quan hệ với hơn 500 tổ
chức phi chính phủ trên thế giới.
3.2. Những tồn tại và bất cập
Trong khi dựa vào “kinh tế nhà nước là chủ đạo”, xây dựng các tập đoàn kinh tế
thành “quả đấm thép”, là “công cụ ổn định kinh tế vĩ mô” thì thực tế cho thấy tình
trạng kém hiệu quả, lãng phí, thua lỗ, thất thoát của các tập đoàn kinh tế nhà nước
là nguyên nhân dẫn đến đầu tư cao nhưng hiệu quả thấp, nợ công tăng lên, các tập
đoàn độc quyền tăng giá không kiểm soát được (giá điện, giá xăng), chi phí xây
cầu, đường cao tốc cao quá mức so với thế giới, chưa dùng đã hỏng, làm tăng chi
phí, giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Việc dùng các tập đoàn kinh tế, công ty nhà nước để bù lỗ, ổn định giá đều quá tốn
kém, không hiệu quả và bị chia chác trong “lợi ích nhóm”. Hoàn toàn có thể trả
chi phí vận tải cho các công ty tư nhân tham gia vận chuyển lên miền núi, vùng
sâu, vùng xa, chi trả chênh lệch tiền điện trực tiếp cho người dân thay vì bù lỗ và
chỉ sử dụng các công ty nhà nước.
Trên thực tế, còn nhiều chương trình, kế hoạch nhà nước hoạt động chưa thật sự
hiệu quả, có sự chồng chéo giữa các chương trình hoạt động thường xuyên của Bộ,
Ngành; sự quản lí của nhà nước còn sơ hở, công tác quy hoạch chất lượng thấp,
chưa phù hợp với tình hình phát triển của xã hội dẫn đến nhiều tồn hại về tiền của
vật chất mang tính liên hoàn,… điển hình là vụ PMU18, đã làm thất thoát nhiều tỉ
đồng. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều bất cập: quá nhiều người
trong một cơ quan, trình độ năng lực hạn chế, tình trạng quan liêu, tham nhũng còn
tồn tại,… dẫn đến sự yếu kém trong quản lí. Điển hình là việc lạm phát tăng cao
trong những năm vừa qua, đặc biệt là năm 2011, tỉ lệ lạm phát là 18,9%. Một mặt
do tác động của tình hình kinh tế thế giới, mặc khác do việc nới lỏng trong chính
sách tiền tệ, chi tiêu ngân sách lãng phí, đầu tư kém hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế yếu kém, buông lỏng quản lí thị trường, những hạn chế trong dự báo
biến động kinh tế thị trường và thế giới.

Bên cạnh đó, pháp luật tổ chức và quản lí kinh tế vẫn còn nhiều bất cập:
Thiếu pháp luật trong các lĩnh vực như kế toán, bất động sản.
Ý thức chấp hành pháp luật còn kém: kinh doanh trái phép, trốn thuế.,,,
Pháp luật kinh tế thiếu nhiều cơ chế tự kiểm soát thông qua thị trường, ít mang
tính chất của “luật tư”.
Hệ thống pháp luật về kinh tế của VN còn nhiều khác biệt so với hệ thống pháp
luật thế giới.
CHƯƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP Đ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA
KINH TẾ NHÀ NƯỚC
4.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước:
Nhà nước cần ban hành, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp
Nhà nước thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch,
nâng cao hiệu quả, các doanh nghiệp Nhà nước cần gắn trách nhiệm quyền hạn và
lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp;
chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi….
Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước để vừa sử dụng có hiệu quả
vốn, tài sản của Nhà nước vừa huy động thêm vốn của xã hội vào phát triển sản
xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả,
bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Nâng cao vai trò của kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu, quan
trọng.
4.2. Cần có sự đột phá trong cải cách hành chính và tài chính công:
Mở rộng phân cấp, phân quyền cho địa phương; nhưng đồng thời phải tạo cơ chế
để tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát của chính quyền Trung ương đối với
chính quyền địa phương. Cụ thể là Chính phủ cần tập trung vào 3 nhiệm vụ: (i)
hoạch định chính sách; (ii) ban hành các quy định và (iii) kiểm tra giám sát chế tài
vi phạm
Nhiệm vụ của cấp nào thì cấp đó chịu trách nhiệm toàn bộ, có thẩm quyền đầy đủ
(tự quyết, tự quản đối với công việc được giao; không trùng lặp giữa việc do
Trung ương làm với việc của địa phương làm).

Chuyển nền hành chính đang mang nặng mục tiêu quản lý, bao cấp trách nhiệm
dân sự của công dân sang nền hành chính mang tính chất phục vụ. Trong nền kinh
tế thị trường, Nhà nước không quản lý xã hội theo phương thức bao cấp trách
nhiệm dân sự của công dân mà Nhà nước cần nâng cao vai trò trách nhiệm của
công dân trong các quan hệ dân sự
4.3. Hoàn thiện cơ chế vận hành các loại thị trường:
4.3.1. Thị trường tài chính:
Trước hết cần chuyển từ sự can thiệp trực tiếp bằng các công cụ hành chính sang phương
thức can thiệp gián tiếp thông qua các công cụ thị trường. Tăng cường tính chất độc lập
tương đối của Ngân hàng Trung ương trong quản lý thị trường tiền tệ; xây dựng định chế
giám sát độc lập của Nhà nước đối với toàn bộ thị trường tài chính
4.3.2. Thị trường bất động sản:
Để lành mạnh hóa và phát triển thị trường bất động sản, cần phải, tìm ra những nhân tố
nào trực tiếp ảnh hưởng đến thị trường này để có chính sách tác động phù hợp. Rà soát lại
toàn bộ hệ thống pháp luật có liên quan đến thị trường bất động sản để sửa đổi đồng
bộ. Phải sử dụng công cụ tài chính và công cụ quy hoạch để định hướng thị trường và
chống đầu cơ.
4.3.3. Xây dựng thị trường hàng hóa tương lai và phát triển mạng lưới
thương mại hiện đại:
Thị trường hàng hóa nước ta có tốc độ phát triển tương đối khá cao trong những năm
qua. Tuy nhiên, cần tập trung hoàn thiện và phát triển 2 loại thị trường sau đây:
Xây dựng và phát triển thị trường hàng hóa tập trung, thực hiện theo hướng thị
trường tương lai. Xây dựng định chế thị trường hàng hóa,tập trung mua bán các
hợp đồng tương lai cần ưu tiên cho các loại nông sản và nguyên liệu cho sản xuất.
Ngay cả những sản phẩm tiêu dùng nhập khẩu cũng có thể chuyển sang hình thức
mua bán thị trường tương lai để tránh những biến động giá cả ảnh hưởng đến
người tiêu dùng. Ví dụ, các công ty kinh doanh xăng dầu, sắt thép, phân bón phải
tham gia vào thị trường hàng hóa tập trung mua bán các hợp đồng tương lai trên
thế giới và chịu trách nhiệm về rủi ro giá cả của thị trường, chứ không phải tất cả
biến động tiêu cực đều dồn cho người tiêu dùng.

Phát triển mạng lưới phân phối hàng hóa nội địa. Xu hướng chung của thị trường
hàng hóa, thì phương thức mua bán truyền thống của nước ta sẽ được thay thế dần
bằng các hình thức mua bán hiện đại như hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại
tập trung tổng hợp, trung tâm thương mại chuyên ngành. Hiện nay các phương
thức kinh doanh hiện đại mới chiếm khoảng 20% tổng giao dịch hàng hóa bán lẻ
của nước ta. Trong những năm gần đây, ở các đô thị lớn đang phát triển khá nhanh
các hình thức kinh doanh bán lẻ hiện đại; trong đó có vai trò của các tập đoàn kinh
doanh bán lẻ quốc tế. Trong cam kết gia nhập WTO của nước ta, tuy mở cửa có
hạn chế cho các tập đoàn bán lẻ nước ngoài kinh doanh tại thị trường nước ta (điều
kiện hạn chế là Chính phủ giữ quyền cấp phép kinh doanh từ điểm bán lẻ thứ hai
của các tập đoàn này trên thị trường Việt Nam), nhưng đối với các tập đoàn bán lẻ
nước ngoài thì họ luôn luôn hướng tới mục tiêu xây dựng cả hệ thống phân phối,
chứ không thể chỉ kinh doanh với một điểm bán lẻ. Do đó, nguy cơ các tập đoàn
bán lẻ nước ngoài từng bước nắm giữ thị trường bán lẻ trong nước đang là thách
thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy cần có chính sách ưu tiên cho các tổ
chức bán lẻ trong nước phát triển; đồng thời khuyến khích hình thành các tập đoàn
bán lẻ Việt Nam, xây dựng hệ thống bán lẻ hiện đại
4.3.4. Thị trường lao động:
Một trong các thế mạnh của nước ta là yếu tố nguồn nhân lực. Do đó cân phải hoàn thiện
và phát triển thị trường lao động đồng bộ với các loại thị trường khác, thông qua việc hoàn
thiện pháp luật về lao động, đổi mới chính sách đào tạo gắn với thị trường; tiến hành cải cách
cơ bản và toàn diện giáo dục đào tạo. Đặc biệt cần quan tâm đặc biệt đến 2 vấn đề:
Chất lượng lao động được đào tạo phải phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Phục vụ cho lộ trình chuyển đổi mô hình kinh tế sử dụng lao động rẻ sang lao
động có chất lượng cao.
4.3.5. Thị trường công nghệ:
Để hoàn thiện và phát triển thị trường công nghệ cần tập trung vào 4 nhóm chính sách và
biện pháp sau đây:
Các chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần đồng bộ với chính sách

phát triển khoa học và công nghệ theo từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Đặc biệt là
cần có cách chính sách, chủ trương tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ mới vào lĩnh vực sản xuất. Ví dụ, trong quá trình thực hiện những cam
kết gia nhập WTO, với lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu, vấn đề đầu tư nhằm tăng
hàm lượng khoa học và công nghệ trong giá trị sản phẩm hàng hóa dịch vụ, cần
thực hiện chính sách thuế ưu đãi đối với doanh nghiệp chấp nhận rủi ro ứng dụng
công nghệ trong nước để phát triển các sản phẩm mới hoặc chuyển từ giai đoạn gia
công sang giai đoạn sản xuất linh kiện, phụ kiện.
Nghiên cứu đổi mới cách sử dụng ngân sách Nhà nước đầu tư cho khoa học và
công nghệ theo hướng: nghiên cứu phải theo đơn đặt hàng cụ thể và có nghiệm thu
sản phẩm cuối cùng; kết quả nghiên cứu được thanh toán theo thực chi, chứ không
theo khung hành chính như hiện nay; nguồn kinh phí từ ngân sách nên được tập
trung vào một số lĩnh vực trọng điểm, tránh dàn trải làm giảm hiệu quả đầu tư.
Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ cho các hoạt động sáng tạo công nghệ đối
với cá nhân các nhà khoa học, đồng thời khuyến khích hình thành các vườn ươm
doanh nghiệp công nghệ, vườn ươm công nghệ cao thương mại điện tử, v.v… và
khuyến khích hình thành nhiều doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
LỜI KẾT
Việc xác định vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ớ nước ta là một chiến lược đúng đắn và quan trọng
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay. Trong những năm qua,
chúng ta đã từng bước xây dựng và đưa vào hoạt động cũng như hoàn thiện mô hình
kinh tế trên. Những thành tựu mới trong kinh tế, chính trị, xã hội đã ngày càng góp phần
thay đổi diện mạo của đất nước.Điều này càng làm tăng thêm uy tín cho vai trò chủ đạo
của nền kinh tế Nhà nước. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều mục tiêu chưa hoàn thành, cũng như gặp
không ít khó khăn, trở ngại và thách thức đòi hỏi chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn
trong việc trau dồi tư duy kinh tế, tư duy phát triển, không ngừng phân tích, đánh giá, rút
ra bài học thành công, thất bại trong suốt quá trình. Đó không chỉ là vai trò, trách nhiệm
riêng của Nhà nước mà còn là nhiệm vụ của mỗi công dân Việt Nam trước yêu cầu bức

thiết của thời đại.
.

×