Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Dự báo nhu cầu giáo viên trung học cơ sở thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM








KIM THÀNH NAM






DỰ BÁO NHU CẦU GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ SỞ THỊ
XÃ PHÚC YÊN TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2015








LUẬN VĂN THẠC SỸ GIÁO DỤC HỌC











Hà Nội - Năm 2009


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Khi xây dựng một phương án phát triển KT–XH ở một địa phương, một
quốc gia trong một thời kỳ nhất định nói chung, hay xây dựng một phương án
phát triển một ngành, một đơn vị nói riêng, chúng ta đều cần phải làm theo
đúng quy trình: Chiến lược  Quy hoạch  Kế hoạch. Muốn lập chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch một cách khoa học, khả thi thì cần phải sử dụng dự báo
như một công cụ không thể thiếu được và vô cùng đắc lực, hiệu quả.
Chúng ta bước vào thế kỷ XXI trong bối cảnh thế giới với xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ; nhân loại bước vào nền kinh tế tri thức, hơn
bao giờ hết tri thức, GD-ĐT có vai trò to lớn, quyết định đến sự tồn tại, phát triển
hay suy tàn, diệt vong của một quốc gia, một dân tộc. GD-ĐT trở thành “quốc
sách hàng đầu” [3] của tất cả các quốc gia muốn hội nhập, phát triển.
Dự báo GD cho ta những phán đoán khoa học về tương lai của một nền
GD, tìm kiếm những mục tiêu mới, những viễn cảnh mới và chỉ ra các giải
pháp khả thi nhằm đem lại tương lai phát triển hơn cho nền GD.
Ở Việt Nam đã có nhiều nhà khoa học đưa ra vấn đề tầm quan trọng
của công tác dự báo giáo dục: “Nền giáo dục của một nước, một địa phương

nhất thiết phải lấy công tác dự báo làm tiền đề” [41]. “Dự báo không thể cho
biết chính xác về tương lai nhưng có thể giúp các nhà làm chính sách đương
đầu với tính không chính xác và biến động để khai thác ý nghĩa của các lựa
chọn chính sách”. Chính vì vậy, Đảng ta cũng đã xác định rõ vai trò, tầm
quan trọng của GD-ĐT và công tác dự báo giáo dục trong nhiều văn kiện như:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương IV (Khóa VII), Nghị quyết Hội nghị Trung
ương II (Khóa VIII), Kết luận Hội nghị Trung ương VI (Khóa IX), Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X. Đặc biệt Đảng ta nhấn


2
mạnh: “Tăng cường công tác dự báo, đổi mới công tác xây dựng kế hoạch và
quy hoạch phát triển giáo dục” [5].
1.2. Cơ sở thực tiễn
Đổi mới giáo dục đang diễn ra khắp nơi trên thế giới để đáp ứng yêu
cầu của bối cảnh quốc tế mới. Trong xu thế chung đó là không ngừng tăng về
số lượng, hoàn chỉnh về cơ cấu, ngày một nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên; giảm tỷ lệ học sinh/ lớp, tăng tỷ lệ giáo viên/ lớp…
Thị xã Phúc Yên là đơn vị hành chính được thành lập theo Nghị định số
153/2003/NĐ-CP ngày 09/12/2003 của Chính Phủ, chính thức đi vào hoạt
động từ ngày 01/01/2004. Phúc Yên là trọng điểm phát triển kinh tế của tỉnh,
có đóng góp lớn cho ngân sách của tỉnh. Tỉnh Vĩnh Phúc sau 10 năm tái lập
(1997-2007) đã có những bước phát triển vượt bậc, từ một tỉnh nghèo, kém
phát triển, tổng thu ngân sách thấp, không tự cân đối được thu chi, phải nhờ
điều tiết ngân sách của Trung ương, nhưng từ năm 2004 tỉnh đã tự đáp ứng
được nhu cầu chi của mình, có đóng góp cho ngân sách của Trung ương. Vĩnh
Phúc hiện nay đã nằm trong tốp 10 tỉnh, thành có tổng thu ngân sách lớn nhất
toàn quốc, là địa phương có môi trường đầu tư hấp dẫn, có sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế mạnh mẽ. GD-ĐT Vĩnh Phúc cũng có những bước phát triển vượt
bậc về mọi mặt, chính vì vậy 5 năm liên tục gần đây được Bộ GD-ĐT tặng Cờ

thi đua đơn vị xuất sắc, năm 2005 vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Lao động hạng III.
Tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong vùng tam giác kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
thị xã Phúc Yên là đơn vị hành chính mới, mặc dù GD-ĐT có nhiều tiến bộ
nhưng hiện đang còn bất cập với nhu cầu phát triển KT-XH của địa phương
đang có những chuyển biến mạnh mẽ. Những bất cập về đội ngũ giáo viên,
lực lượng quyết định chất lượng giáo dục, cũng có nguyên nhân từ công tác
dự báo giáo dục còn yếu kém. Hiện ngành GD-ĐT thị xã Phúc Yên chưa có
một nghiên cứu nào về dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở,


3
nên nhu cầu dự báo về giáo dục cho địa phương ngày càng cấp thiết.
Và thực tiễn: “Cái lạc hậu trong kế hoạch hoá giáo dục của chúng ta
trong một thời gian dài là việc lập kế hoạch giáo dục thiếu tính đa chiều,
thiếu tính viễn cảnh, thiếu tính mềm dẻo và phương án thực hiện” [26].
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Dự báo nhu cầu giáo
viên Trung học cơ sở thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2015”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng giáo dục - đào tạo thị xã Phúc
Yên, đưa ra dự báo nhu cầu giáo viên Trung học cơ sở thị xã Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc đến năm 2015 và đề xuất một số biện pháp thực hiện.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở thị xã Phúc
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Dự báo nhu cầu giáo viên Trung học cơ sở thị xã
Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2015.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc dự báo nhu cầu giáo viên
Trung học cơ sở thị xã Phúc Yên.

4.2. Nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng,
chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở thị xã Phúc Yên.
4.3. Dự báo nhu cầu giáo viên Trung học cơ sở thị xã Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc đến năm 2015 và đề xuất một số biện pháp thực hiện.
5. Giả thuyết khoa học
Các dự báo và biện pháp được đề xuất trong Luận văn được triển khai
đồng bộ sẽ góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên Trung học cơ sở về số lượng, chất lượng, cơ cấu và đáp ứng tốt được
yêu cầu nhiệm vụ phát triển giáo dục trung học cơ sở thị xã Phúc Yên.


4
6. Phạm vi nghiên cứu
Dự báo nhu cầu giáo viên Trung học cơ sở thị xã Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc đến năm 2015.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những tư liệu như: Các văn bản về chủ
trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, của ngành
và của địa phương về GD-ĐT; Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá
những thông tin khoa học từ những tư liệu về công tác đào tạo nguồn nhân
lực, công tác dự báo giáo dục…
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp tổng kết
kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia.
7.3. Nhóm phương pháp dự báo
Luận văn sử dụng một số phương pháp dự báo như:
- Phương pháp hàm ngoại suy xu thế.
- Phương pháp sơ đồ luồng.
- Phương pháp chuyên gia.

- Phương pháp xác định quan hệ tỷ lệ.
- Phương pháp định mức.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu; kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dự báo nhu cầu giáo viên.
Chương 2: Thực trạng giáo dục và đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở
thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Dự báo nhu cầu giáo viên Trung học cơ sở thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2015.


5
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ BÁO NHU CẦU GIÁO VIÊN
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Quốc tế
Thời Phục hưng những yếu tố dự báo sư phạm, dự báo giáo dục đã
được xác định trong nhiều tài liệu của các tác giả như Campnella, Thoms
Moro, rồi đến thời cận – hiện đại cũng được các nhà sư phạm đề cập đến như
Komensky, Usinsky, Disteveg và các nhà xã hội học không tưởng. Đó là
những quan niệm về nền giáo dục và nhà trường trong tương lai gắn liền với
những mong muốn về một xã hội tốt đẹp.
Với phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, những ý
tưởng về nền giáo dục và nhà trường tương lai đầu tiên được khẳng định trên
cơ sở những quy luật khách quan phù hợp với sự phát triển của xã hội và con
người. Vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX ở Liên Xô đã có một số công trình
dự báo giáo dục có ý nghĩa to lớn, đóng góp không nhỏ vào công cuộc xây
dựng đất nước nói chung và xây dựng nền giáo dục tiến bộ nói riêng; đó là
các công trình dự báo về nền kinh tế của các nhà kinh tế học, công trình dự

báo giáo dục của các nhà giáo dục học như Usinxky, Macarenkô…
Ngày nay tổ chức giáo dục, khoa học, văn hóa UNESCO đã tổ chức
nhiều cuộc hội thảo, công bố nhiều công trình dự báo giáo dục với quy mô
toàn cầu hoặc từng khu vực như: Hội thảo về “Tương lai giáo dục và giáo dục
của tương lai” do Viện quốc tế kế hoạch hoá giáo dục của UNESCO tổ chức
năm 1978.
Công trình nghiên cứu “Suy nghĩ về sự phát triển tương lai của giáo
dục”, UNESCO – Paris 1984. Gần đây là chuyên luận “Nền giáo dục thế kỷ
XXI. Những triển vọng của Châu Á - Thái Bình Dương” của Raja Roy Singh
– nguyên trợ lý Tổng giám đốc UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, chuyên luận này đã nêu lên những dự đoán về nền giáo dục, vai trò


6
của giáo dục ở khu vực Châu Á -Thái Bình Dương và khả năng phát triển
mạnh mẽ của giáo dục ở khu vực này trong thế kỷ XXI.
1.1.2. Việt Nam
Dự báo giáo dục là một ngành còn non trẻ, trong những năm gần đây
nó mới được các nhà khoa học tìm hiểu và nghiên cứu, như tác giả Hà Thế
Ngữ đã viết: “Việc dự báo giáo dục với tư cách là một hướng hoạt động
nghiên cứu chuyên biệt, mới được bắt đầu ở Viện khoa học giáo dục từ những
năm 1985-1986…” [39].
Trong quá trình chuẩn bị cho việc cải cách giáo dục và xây dựng chiến
lược giáo dục, đã có những ý kiến có tính dự báo giáo dục được đề xuất và
chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Phát triển quy mô giáo dục, mục tiêu đào
tạo, loại hình trường, lớp… Các công trình nghiên cứu dự báo của các nhà
khoa học đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng chiến lược, chính sách,
kế hoạch phát triển giáo dục, đó là các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học giáo dục do tác giả Hà Thế Ngữ (chủ biên) với tựa đề “Dự báo giáo
dục - Vấn đề và xu hướng” (Viện khoa học giáo dục Việt Nam – 1989), công

trình khoa học này đã đề cập đến nhiều vấn đề trông đó có vấn đề dự báo giáo
dục và xu hướng phát triển của nó.
Tác giả Đặng Quốc Bảo với bài “Về phương hướng phát triển sự
nghiệp giáo dục phổ thông” (Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 10-1987). Bài
viết đã đề cập đến những khả năng và phương hướng phát triển của sự nghiệp
giáo dục.
Cuốn “Dự báo giáo dục và một số vấn đề có liên quan đến công tác dự
báo giáo dục”, Hà Nội-2001 (nhiều tác giả), đã đề cập rất nhiều đến công tác
dự báo giáo dục, những vấn đề cần thiết cho công tác này và vai trò của vấn
đề dự báo giáo dục.
Tác giả Đỗ Văn Chấn “Dự báo phát triển”, Hà Nội-2001, đó là những
dự báo về tình hình, khả năng của công tác dự báo theo xu hướng phát triển


7
của các sự vật hiện tượng theo các quy luật vốn có của nó.
“Dự báo dân số, học sinh đến trường và lực lượng lao động Việt Nam”
(1995-2005) của Tổng cục thống kê đó là những dự báo về tình hình phát
triển dân số nước ta, theo đó là sự thay đổi về cơ cấu và chất lượng lao động ở
Việt Nam.
GS. VS Phạm Minh Hạc với “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa
của thế kỷ XXI”, Nhà xuất bản CTQG, 1999. Tác giả đã phân tích đánh giá
những yêu cầu thách thức, những khó khăn và triển vọng của giáo dục
Việt Nam thế kỷ XXI.
Những công trình nghiên cứu dự báo giáo dục hầu hết tập trung ở tầm
vĩ mô. Song những năm gần đây các công trình nghiên cứu dự báo giáo dục ở
các địa phương cũng đã bắt đầu được quan tâm.
Một số Luận văn học vị Thạc sĩ đã nghiên cứu về dự báo và quy hoạch
phát triển giáo dục :
- Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục Tiểu học và Trung học cơ sở

huyện Nghĩa Đàn đến năm 2010. Thái Thị Lan, 2000.
- Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục Tiểu học và Trung học cơ sở
huyện Cẩm Xuyên đến năm 2010. Đặng Quốc Hiền, 2002.
- Dự báo nhu cầu giáo viên Trung học phổ thông tỉnh Nghệ An đến
năm 2010. Ngô Minh Thanh, 2004.
- Dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên Tiểu học huyện Mê Linh, tỉnh
Vĩnh Phúc đến năm 2015. Vũ Thanh, 2005.
- Quy hoạch phát triển giáo dục Trung học phổ thông huyện Triệu Sơn
tỉnh Thanh Hóa đến năm 2015. Nguyễn Quang Huy, 2007.
Tuy nhiên, các đề tài trên nghiên cứu cho dự báo và quy hoạch giáo dục
cho một địa phương cụ thể, riêng dự báo nhu cầu phát triển đội ngũ giáo viên
THCS Thị xã Phúc Yên thì chưa có đề tài nào được nghiên cứu.
Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đặc biệt quan tâm chú ý việc định hướng quy hoạch


8
phát triển sự nghiệp GD-ĐT bằng Nghị quyết số 06-NQ/TU về phát triển
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2007–2015, định hướng đến 2020.
Thị xã Phúc Yên đã triển khai tổ chức đánh giá và dự kiến kế hoạch về
quy mô trường, lớp; kế hoạch này đã giúp UBND thị xã xây dựng được Đề án
chiến lược phát triển giáo dục thị xã Phúc Yên đến năm 2010 và những năm
tiếp theo. Song có thể nói việc đi sâu vào nghiên cứu về nhu cầu giáo viên
THCS và các biện pháp nâng cao chất lượng giáo viên nhằm đáp ứng với nhu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp GD-ĐT còn chưa thường xuyên, chưa cụ thể
và tính khoa học thấp.
Qua việc khái quát về dự báo, kết quả của công tác dự báo nói chung và
dự báo giáo dục nói riêng, của Quốc tế cũng như Việt Nam chúng ta thấy: Dự
báo và dự báo giáo dục đã được nhiều nước quan tâm. ở nước ta đây là lĩnh
vực còn mới mẻ và ít được quan tâm nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn, có

lẽ do chưa nhận thấy được tầm quan trọng của công tác dự báo trong việc lập
kế hoạch, quy hoạch các vấn đề kinh tế, xã hội, giáo dục… nên chưa có sự
đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu lý luận và triển khai nghiên cứu ứng
dụng cụ thể trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm về dự báo
1.2.1.1. Khái niệm dự báo
Theo từ điển Tiếng Việt, dự báo là “Báo trước về tình hình có nhiều khả
năng sẽ xảy ra, dựa trên cơ sở những số liệu, những thông tin đã có” [45].
Dự báo là những kiến giải có căn cứ khoa học về các trạng thái khả dĩ
của đối tượng dự báo trong tương lai, về các con đường khác nhau, thời hạn
khác nhau để đạt tới trạng thái tương lai ở các thời điểm khác nhau.
Dự báo dựa trên sơ sở nhận thức những quy luật vận động, phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Dự báo là khâu quan trọng nối liền giữa lý luận


9
và thực tiễn. Dự báo gắn liền với một khái niệm quan trọng là sự tiên đoán.
Với nghĩa hẹp, sự tiên đoán là nói lên cái gì có thể xảy ra, trong khi dự báo là
nói lên cái gì có thể xảy ra với những điều kiện nhất định. Nếu các điều kiện
thay đổi thì sự dự báo cũng thay đổi theo.
Căn cứ vào mức độ cụ thể và đặc điểm tác động của dự báo đến sự phát
triển của hiện tượng hoặc quá trình được nghiên cứu, ta có thể chia làm ba cấp
độ tiên đoán sau:
Giả thuyết: Là sự tiên đoán khoa học ở cấp độ lý luận chung. Cơ sở để
xây dựng các giả thuyết là lí luận về một lĩnh vực nào đó có hàm chứa đối
tượng được nghiên cứu và các tính quy luật được phát hiện trên cơ sở lí luận
này, cũng như các mối quan hệ nhân quả qui định hoạt động và phát triển của
đối tượng đó. Như vậy, trên bình diện giả thuyết, chúng ta có được các đặc
tính, biểu thị tính quy luật của hành vi đối tượng được nghiên cứu.

Dự báo: So với giả thuyết, dự báo có tính xác định cao hơn, vì nó dựa
trên không chỉ những tham số định tính mà cả các tham số định lượng. Vì
vậy, dự báo cho phép xác định các trạng thái tương lai của đối tượng cả về
mặt định lượng. Dự báo là sự tiên đoán ở cấp độ lí luận ứng dụng cụ thể. Như
vậy, dự báo khác biệt với giả thuyết ở mức độ bất định thấp, ở mức độ khả
dụng trực tiếp. Nhưng mặt khác, dự báo không xác lập những liên hệ chặt,
đơn trị cho đối tượng dự báo. Dự báo có đặc trưng xác suất.
Kế hoạch: Là việc xác định những mục tiêu cụ thể và chính xác, là sự
tiên đoán những sự kiện cụ thể chi tiết của trạng thái tương lai. Đó chính là hệ
thống nhiệm vụ cần thực hiện để đạt được những mục đích nhất định. Kế
hoạch chỉ rõ con đường, phương tiện, phương pháp phát triển phù hợp với
những nhiệm vụ đề ra. Kế hoạch có kế hoạch chiến lược (chiến lược phát
triển – kế hoạch dài hạn) và kế hoạch hành động (kế hoạch ngắn hạn).
Khác với dự báo, kế hoạch là sự tổ chức sắp xếp theo một mô hình nhất
định. Còn dự báo là phải đưa ra được những tiên đoán về khả năng vận động và


10
phát triển trong tương lai của cả sự vật hiện tượng, trên cơ sở khoa học và
thực tiễn.
Dự báo là một trong những cơ sở khoa học cho việc ra quyết định, vạch ra
các chiến lược phát triển và là công cụ có hiệu quả của công tác kế hoạch hoá.
Dự báo và kế hoạch là một chức năng quan trọng của công tác quản lý, không có
dự báo công tác quản lý sẽ thiếu đi sự định hướng. Không có kế hoạch thì công
tác quản lý chỉ còn là những hoạt động tuỳ tiện, không có hệ thống, làm cho nhà
quản lý có thể phạm những sai lầm và kém hiệu quả. Dự báo là cơ sở giúp nhà
quản lý xây dựng kế hoạch chỉ đạo, điều khiển, điều chỉnh công tác quản lý một
cách khoa học và hệ thống nhằm đạt được hiệu quả cao.
1.2.1.2. Phân loại dự báo
Để hiểu hơn về dự báo, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều cách phân

loại khác nhau về dự báo, đó là:
- Phân loại theo phạm vi đối tượng dự báo: Theo cách phân loại này,
chúng ta có dự báo vĩ mô, dự báo ngành, dự báo khu vực, dự báo theo đơn vị.
- Phân loại theo thời gian của đối tượng dự báo: căn cứ vào thời hạn
lập dự báo, có thể chia ra dự báo tác nghiệp, dự báo ngắn hạn, dự báo trung
hạn và dự báo dài hạn.
- Phân loại theo đặc trưng của đối tượng: Căn cứ vào đối tượng dự
báo, có thể có thể có các loại dự báo như: Dự báo tiến bộ khoa học kỹ thuật,
tiến bộ xã hội, đào tạo nguồn nhân lực, dân số, quy mô trường lớp, quy mô
học sinh, nhu cầu đội ngũ giáo viên.
- Phân loại theo chức năng của đối tượng: Theo chức năng của dự báo
có thể có dự báo tìm kiếm và dự báo định chuẩn.
1.2.1.3. Cách tiếp cận khi lập dự báo
Khi lập dự báo có các cách tiếp cận đó là:
- Tiếp cận lịch sử: Lênin đã nói “Bất cứ hiện tượng xã hội nào, nếu xét
trong quá trình phát triển của nó đều có tàn dư của quá khứ, cơ sở của hiện


11
tại và mầm mống của tương lai”. Như vậy, cần phải xem xét đối tượng dự
báo là một khả năng, tồn tại, tiếp diễn với những thuộc tính của quá khứ và
hiện tại. Hay nói cách khác, việc lập dự báo phải tuân theo các quy luật vận
động, phát triển của sự vật hiện tượng. Một yếu tố khác của cách tiếp cận này
đó là liên hệ giữa dự báo và thực tiễn. Mà thực tiễn chính là một trong những
cơ sở quan trọng của việc lập dự báo. Chính vì vậy cách tiếp cận này là tiếp
cận khảo sát một hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với các hình thức tồn tại
lịch sử và hiện tại.
- Cách tiếp cận phức hợp: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng thì mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại, vận động và phát triển trong mối
quan hệ phổ biến. Cách tiếp cận này là xem xét các sự vật, hiện tượng trong

mối quan hệ biện chứng hữu cơ bằng cách sử dụng các thành tựu, các phương
pháp của nhiều ngành khoa học để nghiên cứu sự vật hiện tượng.
- Cách tiếp cận hệ thống: Khi nghiên cứu dự báo phải xem xét đối
tượng dự báo như một hệ thống toàn vẹn trong sự vận động và phát triển. Với
các thành tố tạo thành trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Đồng thời phân tích
quy luật vận động của mỗi thành tố và toàn bộ hệ thống.
1.2.1.4. Các nguyên tắc khi lập dự báo
- Nguyên tắc thống nhất về chính trị, kinh tế và khoa học: Khi lập dự
báo cần xuất phát từ mục tiêu và lợi ích tổng thể, lâu dài của trên cơ sở tính
toán khoa học sự phát triển KT-XH và tiến bộ KH-KT.
- Nguyên tắc tính hệ thống của dự báo: Các dự báo phải được xây dựng
trên cơ sở một hệ thống hoàn chỉnh các mô hình và phương pháp có liên hệ
hữu cơ với nhau, có logic chặt chẽ. Tính hệ thống của dự báo đòi hỏi phải xây
dựng một trật tự chặt chẽ việc hình thành và sử dụng các mô hình dự báo cho
một dự báo có tính phức tạp của đối tượng.
- Nguyên tắc tính khoa học của dự báo: Các dự báo phải được xây
dựng trên cơ sở những tính toán, luận chứng khoa học, phù hợp với các quy


12
luật vận động và phát triển của đối tượng dự báo; nhứng quan sát và dữ liệu
đủ khách quan và tin cậy.
- Nguyên tắc tính thích hợp của dự báo: Những dự báo được lập ra phải
tương thích với tính quy luật, với xu thế phát triển khách quan của đối tượng
dự báo. Dự báo phải có khả năng thực tế trong tương lai.
- Nguyên tắc đa phương án của dự báo: Dự báo phải gắn liền với khả
năng phát triển của đối tượng theo những quỹ đạo, những con đường khác
nhau. Tính đa phương án biểu hiện về những khả năng phát triển khác nhau
của đối tượng, cho phép người quản lý (người sử dụng dự báo) có khả năng
lựa chọn những phương án hợp lý, tối ưu nhằm điều khiển sự phát triển của

đối tượng dự báo theo mục tiêu đã xác định.
1.2.2. Khái niệm về dự báo giáo dục
1.2.2.1. Khái niệm dự báo giáo dục
Công tác dự báo giáo dục hướng chủ yếu vào việc cung cấp một quan
niệm hiện thực về tương lai của nền giáo dục, tìm kiếm những mục tiêu mới,
những viễn cảnh tốt đẹp và những giải pháp mới nhằm đem lại tiềm năng
tương lai cho nền giáo dục.
Dự báo giáo dục cũng có thể báo động tình trạng xấu đi, những mối đe
doạ, những nguy biến mà xã hội có thể gặp phải trong một thời kỳ nhất định,
song chức năng chân chính của khoa học xã hội là không tạo nên tâm lý hoang
mang, giảm ý chí mất niềm tin mà phải huy động kịp thời, đúng đắn toàn xã hội
nhằm giảm bớt, ngăn chặn hoặc vượt qua những khó khăn thử thách.
Theo tác giả Hà Thế Ngữ, dự báo giáo dục là “Xây dựng phán đoán có
thể về tình trạng của nền giáo dục trong tương lai, nghiên cứu những triển
vọng phát triển của nền giáo dục, chỉ ra những thời hạn ít nhiều xác định của
những biến đổi sẽ xảy ra - đó là dự báo giáo dục – một dạng của tiên đoán
khoa học trong lĩnh vực xã hội” [39]. Như vậy dự báo giáo dục là xây dựng
những phán đoán về quá trình vận động và phát triển của cả hệ thống giáo dục


13
cũng như những bộ phận của hệ thống sẽ diễn ra trong tương lai.
1.2.2.2. Phân loại dự báo giáo dục
Theo tác giả Hà Thế Ngữ “Đối tượng của dự báo giáo dục là hệ thống
giáo dục quốc dân của một nước, một địa phương, với những đặc trưng: Về
quy mô phát triển, cơ cấu loại hình, chất lượng đào tạo, tổ chức sư phạm”
[39].
Tác giả đã nêu rõ việc phân loại dự báo giáo dục đó là: Dự báo điều
kiện chính trị, KT–XH mà giáo dục sẽ vận hành và phát triển; dự báo về
những biến đổi trong tính chất mục tiêu và cấu trúc của hệ thống giáo dục; dự

báo về sự thay đổi nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức; dự báo về
chất lượng, số lượng đội ngũ giáo viên, CSVC, công tác tổ chức quản lý trong
hệ thống giáo dục
Theo cách phân loại nêu trên, chúng tôi thấy đề tài: “Dự báo nhu cầu
đội ngũ giáo viên THCS thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2015”
thuộc dự báo đơn vị (xét theo phạm vi); là dự báo trung hạn (xét theo thời
gian dự báo), dự báo nhu cầu giáo viên (xét theo đặc trưng của đối tượng
dự báo).
1.2.2.3. Tổ chức quá trình nghiên cứu dự báo giáo dục
Dự báo giáo dục có nhiều giai đoạn và mỗi giai đoạn có những nét đặc
thù riêng, bao gồm các loại cơ bản sau:
- Giai đoạn định hướng mang tính chất tiền dự báo là giai đoạn xác
định khách thể, đối tượng mục đích, thời gian, nhiệm vụ, các giả thuyết, các
phương pháp, cách tổ chức nghiên cứu.
- Giai đoạn thu thập tài liệu dự báo: Thu thập, tập hợp các dữ liệu ảnh
hưởng tới sự phát triển của đối tượng, phân tích các yếu tố kinh tế, xã hội
ảnh hưởng đến quá trình vận động và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
- Giai đoạn xây dựng mô hình xuất phát: Xác định các hệ thống chuẩn
mực, chỉ tiêu, thông số phản ánh tính chất và cấu trúc của đối tượng dự báo.


14
- Giai đoạn tiến hành dự báo là giai đoạn tìm kiếm và chuẩn mực bằng
cách “chiếu” mô hình sản xuất vào tương lai theo những xu hướng tác động
đến đối tượng trong tương lai, dự đoán những triển vọng, những tình huống
mới, những vấn đề cần được giải quyết và thực hiện những khả năng phát
triển khác nhau trong tương lai.
- Giai đoạn đánh giá mức độ chắc chắn và chính xác hoá các mô hình
dự báo qua ý kiến chuyên gia.
- Giai đoạn xây dựng các giải pháp, kiến nghị để giúp các nhà quản lý

ra được các quyết định đúng đắn, đạt hiệu quả tối ưu trên cơ sở đối chiếu
so sánh các mô hình dự báo.
1.2.2.4. Vai trò của dự báo giáo dục
- Vai trò của dự báo giáo dục đối với đất nước:
Lập kế hoạch (hoạch định) là một trong những chức năng cơ bản của
công tác quản lý. Trong đó “Muốn lập kế hoạch người quản lý phải biết dự
báo, đó là khâu tiền đề của kế hoạch”. Dự báo xác định phương hướng phát
triển cho công tác quản lý. Dự báo càng chính xác thì công tác quản lý càng
đạt hiệu quả cao. Dự báo còn giúp cho chúng ta có hành động đúng đắn, xác
định mục tiêu đúng đắn và niềm tin công việc “nhìn trước được tương lai là
cốt để hành động đúng đắn trong ngày hôm nay, dù chỉ nhìn trước được
tương lai trên những nét phác thảo với những quan niệm và những xu thế,
những quy luật thì điều này cũng rất cần thiết cho những quyết định đối với
hiện tại, những mục tiêu trước mắt và trung gian, về việc chuẩn bị tiềm năng
cho giai đoạn phát triển tới, về thái độ đối xử với những đổi mới và tiến bộ,
về việc giữ vững niềm tin vào sự nghiệp trong những hoàn cảnh khó khăn,
phức tạp”.
Về vai trò của dự báo, chúng ta có thể khái quát bằng mô hình sau:




15










Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) đã đề ra mục tiêu, chiến lược của
công tác GD-ĐT và các giải pháp thực hiện, trong đó có giải pháp đổi mới
công tác quản lý giáo dục. Vấn đề đầu tiên trong đổi mới quản lý giáo dục là
tăng cường công tác dự báo và kế hoạch hoá phát triển giáo dục. Dự báo giáo
dục là cơ sở khoa học cho việc xây dựng chiến lược phát triển GD-ĐT, xây
dựng kế hoạch thực hiện của ngành giáo dục trong nhiều năm và từng năm.
Dự báo giáo dục còn là cơ sở khoa học để Đảng và Nhà nước, ngành giáo dục
xây dựng quy hoạch giáo dục trên quy mô cả nước, của từng khu vực, từng
vùng miền và xây dựng các chủ trương, đường lối, chính sách về GD-ĐT, đó
chính là điều kiện thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ.
Ngày nay, giáo dục đang trở thành một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ
tầng. Nhân tố con người với sức mạnh tri thức và năng lực sáng tạo đóng vai
trò cơ bản; quyết định chiến lược cơ bản và lâu dài, đó là chiến lược con
người. Vì vậy đầu tư cho giáo dục đang chuyển dần từ đầu tư phúc lợi sang
đầu tư phát triển. Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) còn khẳng định:
“giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục ”. Do đó đầu tư cho
việc dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên, đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên là khâu quan trọng, muốn chấn hưng đất nước phải chấn
hưng giáo dục, muốn chấn hưng giáo dục phải chấn hưng người thầy. Người
DỰ
BÁO
Kế hoạch
Quy hoạch
Chiến lược
Đường lối


16

thầy đóng vai trò quyết định chất lượng giáo dục. Quan tâm đến công tác dự
báo nhu cầu đội ngũ giáo viên là giúp cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo,
xây dựng quy hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, xây dựng các chính sách
đối với giáo viên, nhằm làm cho đội ngũ giáo viên ngày càng đáp ứng được
yêu cầu đổi mới GD-ĐT và các nhà quản lý thực hiện tốt chức năng điều
hành, tổ chức, kiểm tra quá trình GD-ĐT.
- Vai trò dự báo giáo dục đối với địa phương:
Tỉnh Vĩnh Phúc là tỉnh đã đạt chuẩn quốc gia về PCGDTH- CMC và
phổ cập GD THCS, chính vì vậy mặt bằng dân trí xét trên bình diện chung đã
có nhiều tiến bộ đáng kể và được nâng lên rõ rệt, quy mô giáo dục tăng
nhanh, mạng lưới trường lớp dần được hoàn chỉnh từ giáo dục Mầm non đến
các cấp học cao hơn. Chất lượng học sinh đã có nhiều chuyển biến tích cực,
đời sống giáo viên ngày càng được cải thiện và nhận được sự quan tâm đầu tư
của xã hội. Những thành tựu đạt được trong những năm vừa qua của ngành
GD-ĐT tỉnh nhà không những khẳng định vai trò tích cực hoạt động XHH
CTGD, mà còn cho thấy Tỉnh uỷ, HĐND, UBND và Sở GD-ĐT luôn quan
tâm và làm tốt công tác xây dựng kế hoạch GD-ĐT của tỉnh; trong đó đặc biệt
phải kể tới việc xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên hàng năm, để
làm cho đội ngũ này ngày càng phù hợp với nhu cầu của các nhà trường trên
địa bàn toàn tỉnh đáp ứng xu thế phát triển chung của đất nước.
Đối với thị xã Phúc Yên, là đơn vị hành chính mới được thành lập từ
tháng 01/2004 theo Nghị định số 153/2003/NĐ-CP ngày 09/12/2003 của
Chính Phủ trên cơ sở chia tách từ huyện Mê Linh, song trên địa bàn thị xã tất
cả các xã, phường đều có trường Mầm non, Tiểu học và THCS; việc hoàn
thành PCGD TH và THCS không chỉ nâng cao trình độ dân trí, mà còn khẳng
định GD-ĐT là ngành tạo ra nguồn nhân lực có học vấn, cung cấp cho các
ngành, đặc biệt là các công ty, nhà máy, doanh nghiệp trên địa bàn. Với mục
tiêu nâng cao trình độ học vấn cho cán bộ xã, phường và nhân dân giúp cho



17
họ có điều kiện tiếp cận với những tiến bộ KH-KT trong sản xuất và đời sống,
đến nay đã có 100% xã, phường thành lập TTHTCĐ.
Dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS sẽ góp phần tích cực vào công
tác xây dựng quy hoạch, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
của thị xã Phúc Yên theo hướng đủ về số lượng, đảm bảo về cơ cấu và nâng
cao về chất lượng. Dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS sẽ là tiền đề giúp
cho Thị uỷ, HĐND, UBND và Phòng GD-ĐT thị xã có được các chủ trương,
chính sách và những ưu đãi cho đội ngũ giáo viên THCS nói riêng (nhất là đội
ngũ giáo viên cốt cán) và đội ngũ giáo viên nói chung, tạo điều kiện cho họ có
cơ hội học tập nâng cao trình độ và phát huy năng lực chuyên môn, góp phần
nâng cao chất lượng GD-ĐT.
1.2.2.5. Lựa chọn phương pháp dự báo cho vấn đề nghiên cứu
Có thể nói phương pháp dự báo là cách thức, là con đường dẫn đến các
mục tiêu đề ra của nhiệm vụ dự báo. Có nhiều phương pháp dự báo khác
nhau, song mỗi phương pháp lại đòi hỏi những điều kiện nhất định khi áp
dụng, không có phương pháp nào là vạn năng, mỗi phương pháp chỉ cho ta
một kết quả khả quan khi lựa chọn phù hợp với nhiệm vụ dự báo.
Khi lựa chọn phương pháp dự báo nhu cầu đội ngũ GV THCS thị xã
Phúc Yên đến năm 2015 chúng tôi căn cứ vào các nguyên tắc chung sau đây:
Thứ nhất: Có hệ thống số liệu, tư liệu đáp ứng yêu cầu của phương
pháp. Đây là yêu cầu rất cơ bản, quan trọng trong việc quyết định lựa chọn
phương pháp dự báo, nếu số liệu không đầy đủ thì có thể áp dụng phương
pháp chuyên gia hoặc phương pháp ngoại suy đơn giản.
Thứ hai: Phương pháp phản ánh tốt nhất những mối liên hệ cơ bản
khách quan của đối tượng dự báo với các nhân tố ảnh hưởng. Với số liệu
thống kê đáp ứng tương đối đầy đủ theo yêu cầu của một vài phương pháp dự
báo khác nhau, lúc đó phương pháp dự báo tốt nhất sẽ là phương pháp có tính
tới sự tác động của nhiều nhân tố đến đối tượng dự báo.



18
Thứ ba: Có căn cứ pháp lý, các văn bản quy định hiện hành về biên chế
học sinh/ lớp, giáo viên/ lớp, căn cứ về định biên cán bộ cho các nhà trường;
Chiến lược phát triển KT-XH của địa phương.
Thứ tư: Phương pháp phù hợp với khả năng của các phương tiện hiện có.
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến quy mô phát triển giáo dục
1.3.1. Nhân tố kinh tế - xã hội
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì “Giáo dục có những đóng góp trực
tiếp nhất định vào việc hình thành phát triển thu nhập quốc dân (GNP,
GDP)”. Nếu tính cả đóng góp gián tiếp thì hoạt động giáo dục - đào tạo có
vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội” [26]. Đồng thời theo
quan điểm tiếp cận hệ thống, các yếu tố KT–XH cũng tác động mạnh mẽ đến
GD-ĐT, đây là nhân tố tác động trực tiếp đến mọi hoạt động của GD-ĐT từ
mỗi gia đình đến cả quốc gia. Thu nhập quốc dân càng cao thì việc đầu tư cho
giáo dục càng tăng; thu nhập bình quân đầu người càng tăng (nghĩa là mức
sống của đại đa số nhân dân tăng lên) thì các gia đình đầu tư, tạo điều kiện
cho con em đi học càng tốt hơn. Cơ cấu dân số, cơ cấu gia đình và số con cho
mỗi cặp vợ chồng sẽ ảnh hưởng đến mức sống và cơ hội học tập vươn lên của
các thành viên trong gia đình.
Đặc biệt quy mô phát triển giáo dục chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu
tố KT-XH, bao gồm: Tổng sản phẩm xã hội, dân số và tỷ lệ tăng dân số, cơ
cấu dân số, phân bố dân cư, phân phối sản phẩm Trong các yếu tố trên đáng
chú ý là yếu tố dân số. Dân số tác động trực tiếp, mạnh mẽ nhất đối với GD-
ĐT. Những nguyên nhân của nó hiện nay như thói quen, phong tục, tập quán
theo từng vùng dân cư, các yếu tố tâm lý – xã hội cũng ảnh hưởng đến tốc độ
gia tăng dân số (cực đại hoặc cực tiểu), đó là những quan niệm về các năm âm
lịch và tỷ lệ (số lượng) người trong độ tuổi sinh đẻ, các yếu tố đó sẽ tác động
đến tốc độ gia tăng dân số và cơ cấu dân số.



19
Trong các nhân tố KT-XH, nhân tố phát triển dân số tác động trực tiếp
đến đầu vào của hệ thống giáo dục.
1.3.2. Các nhân tố bên trong hệ thống giáo dục - đào tạo
Nội lực chính của GD-ĐT là các nhân tố tồn tại bên trong hệ thống giáo
dục và được thể hiện ở cấu trúc hệ thống giáo dục, nội dung chương trình, tổ
chức đào tạo, đội ngũ giáo viên Nếu các nhân tố trên phát triển hài hoà, cân
đối là điều kiện tốt nhất và cũng là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy GD-ĐT
phát triển. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, mâu thuẫn cơ bản là
một trong những mâu thuẫn bên trong, là động lực của sự phát triển và theo
quan điểm hệ thống thì tác động qua lại giữa các thành tố (cấu trúc hệ thống)
tạo nên sự phát triển của mỗi thành tố và cả hệ thống.
Như vậy nội dung chương trình phù hợp vừa mang tính hiện đại; tổ chức
quá trình giáo dục càng chặt chẽ, hợp lý; đội ngũ giáo viên càng vững vàng trong
hoạt động giảng dạy và giáo dục thì GD-ĐT càng phát triển mạnh mẽ.
1.3.3. Các nhân tố về văn hoá - khoa học – công nghệ
Giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đồng thời nó là tiền đề cho sự phát triển xã hội. Nhưng các
nhân tố văn hoá đòi hỏi GD-ĐT phát triển phù hợp với bản sắc dân tộc. Đồng
thời sự phát triển như vũ bão của KH-CN cũng đòi hỏi GD-ĐT có sự cải tiến,
bổ sung và đổi mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Mặt khác KH-
CN cũng tạo cơ hội cho GD-ĐT hiện đại hoá TTBDH, tạo cho người học tiếp
tục và sử dụng thành thạo với các phương tiện kỹ thuật hiện đại. KH-CN đồng
thời cũng tạo điều kiện cho mọi người được học với các hình thức học tập
phong phú hơn.
1.3.4. Các nhân tố về chỉ đạo, lãnh đạo
Bất cứ nền GD nào cũng nhằm phục vụ mục đích chính trị của giai cấp
nắm chính quyền. Nhà nước sử dụng GD như một công cụ đặc biệt nhằm đạt
được mục tiêu chính trị, xã hội. Nhà nước Việt Nam, như Bác Hồ từng viết:



20
“Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc, đó là đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành ”. Nói cách khác, GD-ĐT nước ta cũng vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xuất phát
từ mục tiêu và vai trò của GD-ĐT, Đảng ta đã khẳng định: “GD-ĐT là quốc
sách hàng đầu” là động lực và mục tiêu phát triển xã hội. Quan điểm và đường
lối lãnh đạo đối với GD ở mọi góc độ đều ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
của GD. Với đường lối đổi mới của Đảng về mọi mặt, trong đó có đường lối
đổi mới GD đã tạo nguồn sinh khí mới cho GD nước ta phát triển cả về số
lượng và chất lượng trong những năm gần đây và những năm tiếp theo.
ở các địa phương, việc tổ chức chỉ đạo, lãnh đạo, đặc biệt là tổ chức các
hoạt động giáo dục (trong đó công tác QLGD) là yếu tố cơ bản giúp công tác
GD-ĐT được vận hành theo đúng quỹ đạo và ngày càng phát triển.
1.3.5. Nhân tố quốc tế
Sự hội nhập của nước ta trong xu thế chung của thế giới và khu vực
những năm vừa qua, đòi hỏi GD-ĐT nước nhà cũng phải có những thay đổi
cho phù hợp với trình độ đào tạo, nội dung chương trình giáo dục quốc tế.
GD-ĐT Việt Nam hướng tới mục tiêu CNH-HĐH đất nước nhưng đồng thời
phải đạt được mục tiêu đào tạo con người Việt Nam vừa hồng vừa chuyên,
mang đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI- Thế kỷ của nền văn minh tri thức;
những thách thức và cơ hội của thời đại mới đã tạo ra xu thế toàn cầu hoá.
Quá trình giao lưu hội nhập giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới đã tác động mạnh mẽ đến mỗi quốc gia, trong đó phải kể đến những cơ
hội và thách thức cho nền GD của mỗi nước. Hội nhập tạo cơ hội cho GD
nước ta tiếp cận với những nền GD tiến bộ, học hỏi những kinh nghiệm tổ
chức nền GD một cách khoa học, đạt hiệu quả cao. Nhưng hội nhập cũng đặt
ra cho GD-ĐT nước ta những thử thách khó khăn đó về tính phức tạp trong

GD, nội dung GD và tính dân tộc.


21
Chính vì vậy ngành GD-ĐT càng cần phải tổ chức chặt chẽ mọi khâu
của quá trình GD làm cho GD nước ta vừa có điều kiện học hỏi tinh hoa GD
hiện đại, vừa giữ gìn được bản chất tốt đẹp của nền GD XHCN, mang đậm
bản sắc dân tộc.
1.4. Vị trí, vai trò của giáo dục Trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục
quốc dân và một số đặc điểm của đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở
1.4.1. Vị trí, vai trò của giáo dục Trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục
quốc dân
Luật Giáo dục 2005 quy định : Hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm
giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao
gồm:
- Giáo dục mầm non (nhà trẻ và mẫu giáo).
- Giáo dục phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông).
- Giáo dục nghề nghiệp (trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề).
- Giáo dục đại học và sau đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ
đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Giáo dục trung học được cấu trúc thành 2 cấp THCS và THPT, như vậy
THCS là một bộ phận hữu cơ của giáo dục trung học, tuy nhiên GD THCS là
một cấp học tương đối độc lập. Giáo dục THCS là một cấp học của GDPT,
“Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc
dân. Trường có tư cách pháp nhân và con dấu riêng” (Điều 2, Điều lệ trường
trung học cơ sở ).
THCS là cấp học phổ cập, tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân trí; giải
quyết tốt sự hoà nhập của người học vào môi trường, cải thiện môi trường
một cách có hiệu quả; là cơ sở ban đầu quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở

thành những công dân tốt, mang trong mình những phẩm chất tạo thành cốt


22
lõi của nhân cách Việt Nam, đó là trí tuệ phát triển, ý chí cao, tình cảm đẹp .
GD THCS dù dưới hình thức nào đều phải thực hiện mục tiêu chung
của hệ thống giáo dục quốc dân, đó là “đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mý và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [32].
Xã hội loài người có bản chất nhân văn, một xã hội, một cộng đồng,
tính nhân văn càng thể hiện rõ bao nhiêu thì xã hội đó, cộng đồng đó càng văn
minh, tốt đẹp bấy nhiêu. Ngày nay ở nước ta, tính nhân văn được thể hiện rõ,
trước hết ở mục tiêu phổ cập và phát triển của cấp THCS và ở quan điểm cho
rằng “học sinh là nhân vật trung tâm” của nhà trường.
Trường THCS có những nhiệm vụ và quyền hạn được ghi trong Điều 3
(Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học)
như sau:
1. Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác của
Chương trình giáo dục phổ thông.
2. Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển dụng và điều
động giáo viên, cán bộ, nhân viên.
3. Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận động học sinh đến trường,
quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng.
5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục.
6. Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy
định của Nhà nước.
7. Tổ chức cho GV, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội .

8. Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng
giáo dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục.


23
9. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo qui định của pháp luật.
Trường THCS phải tổ chức giảng dạy và giáo dục theo phương pháp:
“Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”
[32]. Đối với học sinh THCS thì phương pháp tự học được hiểu và vận dụng
như sau: Học sinh tự giác, thích thú học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên,
học sinh biết đặt câu hỏi, tự kiểm tra đánh giá kết quả bài làm và biết sửa
chữa những sai sót trong bài làm của mình .
1.4.2. Một số đặc điểm của đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở
1.4.2.1. Một số đặc điểm của đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở
Giáo viên THCS là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường, gồm: Hiệu trưởng, các Phó Hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo viên
làm Tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Trình độ chuẩn đối với GV THCS là có bằng CĐSP hoặc có bằng tốt
nghiệp cao đẳng và chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm theo đúng chuyên ngành
của các khoa, trường sư phạm. Giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn được nhà
trường, cơ quan QLGD tạo điều kiện để đạt trình độ chuẩn. Giáo viên có
trình độ trên chuẩn được nhà trường, cơ quan QLGD tạo điều kiện để phát
huy tác dụng của mình trong giảng dạy và giáo dục Hiện nay GV THCS
được đào tạo theo 2 trình độ CĐSP và ĐHSP, với chương trình đào tạo 3 đến
4 năm, việc đào tạo GV THCS chủ yếu do các trường CĐSP địa phương đảm
nhận. GD THCS có 15 môn học với 19 loại hình giáo viên. Hàng năm đội ngũ
GV THCS được học tập, bồi dưỡng theo 3 hình thức: Bồi dưỡng chính khoá,

bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ, bồi dưỡng dạy nội dung mới.
Đội ngũ GV THCS có tỷ lệ nữ cao (nữ GV THCS của thị xã Phúc Yên
chiếm 86%). GV THCS được đào tạo theo hướng bán chuyên sâu, phân hoá


24
theo 1 đến 2 môn chuyên biệt; không đa môn như GV tiểu học cũng không
chuyên sâu như GV THPT. Các yêu cầu về công tác chuẩn bị cũng như cũng
như thực hiện bài giảng ở THCS cao hơn so với cấp Tiểu học cả về nội dung,
phương pháp và sử dụng TBDH…
Đội ngũ GV THCS số lượng còn thiếu, chất lượng còn bất cập, cơ cấu
thiếu đồng bộ. Các cơ sở giáo dục đào tạo giáo viên chưa đáp ứng được yêu
cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo.
Những đặc điểm trên cho thấy vai trò, vị trí, tính chất của GD THCS
trong chiến lược phát triển giáo dục là đặc biệt quan trọng, nhất là vào những
năm đầu của thế kỷ XXI. Để thực hiện được các mục tiêu của cấp học thì việc
dự báo số lượng GV THCS từ nay đến năm 2015 của từng địa phương cần
được đặc biệt quan tâm. Vấn đề chăm lo xây dựng đội ngũ GV THCS đáp ứng
yêu cầu phát triển quy mô giáo dục của cả nước và của từng địa phương là cấp
thiết, phải tiến hành đón đầu một cách khẩn trương với các giải pháp đồng bộ,
hiệu quả. Đây cũng chính là thực trạng của mô hình ta tiến hành dự báo, nó
giúp ta không thoát ly các đặc trưng chủ yếu của hệ thống và xu thế của mô
hình dự báo, từ đó giúp cho dự báo giáo dục đem lại hiệu quả thiết thực.
1.4.2.2. Nhiệm vụ của giáo viên THCS
Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp
học quy định :
1. Giáo viên bộ môn có những nhiệm vụ sau:
a) Giảng dạy và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục; soạn
bài; dạy thực hành thí nghiệm, kiểm tra, đánh giá theo qui định; vào sổ điểm
ghi học bạ đầy đủ, lên lớp đúng giờ, quản lý học sinh trong các hoạt động

giáo dục do nhà trường tổ chức, tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn;
b) Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương;
c) Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục;

×