Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Những biện pháp cải tiến quản lý xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 115 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM



NGUYỄN THỊ HOA



NHỮNG BIỆN PHÁP CẢI TIẾN QUẢN LÝ
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN
HAI BÀ TRƯNG,
HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC





HÀ NỘI-2008


LỜI CẢM ƠN

Xin được chân thành cảm ơn tập thể các thầy cô giáo, phòng Quản lý


Đào tạo và Nghiên cứu khoa học Khoa Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội
đã tận tình giúp đỡ và truyền đạt những kiến thức về quản lý giáo dục cho tác
giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo
PGS.TS. Đặng Bá Lãm đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, động viên và tạo
điều kiện cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Viện Khoa học giáo dục Việt Nam; Học viện
Quản lý giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo; Vụ Trung học, Bộ Giáo dục và
Đào tạo; lãnh đạo và chuyên viên Phòng Giáo dục trung học cơ sở, Sở Giáo
dục & Đào tạo Hà Nội; Uỷ ban nhân dân Quận Hai Bà Trưng; Phòng Giáo
dục & Đào tạo Quận Hai Bà Trưng và Uỷ ban nhân dân các phường, Ban
giám hiệu các trường trung học cơ sở Quận Hai Bà Trưng, đã nhiệt tình giúp
đỡ và cộng tác để tác giả hoàn thành luận văn này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song luận văn vẫn khó tránh khỏi còn có
những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô,
bạn bè đồng nghiệp và những người quan tâm để luận văn được hoàn thiện
hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2008
Tác giả


Nguyễn Thị Hoa


BẢNG KÊ CÁC TỪ VIẾT TẮT
BGD-ĐT
Bộ giáo dục-đào tạo
CBQL

Cán bộ quản lý
CP
Chính phủ
CSVC
Cơ sở vật chất
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá
ĐCSVN
Đảng Cộng Sản Việt Nam
GD & ĐT
Giáo dục và Đào tạo
HĐND
Hội đồng nhân dân
HTGĐQD
Hệ thống giáo dục quốc dân
HCMHS
Hội cha mẹ học sinh
KT-XH
Kinh tế- xã hội

Nghị định
NQ
Nghị quyết

Quyết định
SPSS
Statistic Processing in Social Studies
THCS
Trung học cơ sở
TW

Trung ương
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
XH
Xã hội
XHH
Xã hội hoá
XHHGD
Xã hội hoá giáo dục
XHHGD THCS
Xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở
UBND
Uỷ ban nhân dân







Mục lục

Trang
Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
5. Giả thuyết nghiên cứu
4
6. Phạm vi nghiên cứu
4
7. Phương pháp nghiên cứu
4
8. Cấu trúc luận văn
4
Chƣơng 1: cơ sở lý luận và pháp lý về
xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở
5
1.1. Sơ lược về vấn đề nghiên cứu
5
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
7
1.2.1. Giáo dục
7
1.2.2. Nhà trường
9
1.2.3. Nhà trường trung học cơ sở
10
1.2.4. Quản lý
11
1.2.5. Quản lý giáo dục
13
1.2.6. Quản lý nhà trường
14

1.2.7. Xã hội hoá con người
15
1.2.8. Xã hội hoá giáo dục
16
1.3. Công tác xã hội hoá giáo dục ở nhà trường trung học cơ sở
17
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá giáo dục
17
1.3.2. ý nghĩa, tầm quan trọng của xã hội hoá giáo dục
18
1.3.3. Mục tiêu công tác xã hội hoá giáo dục
20
1.3.4. Những nguyên tắc cơ bản của công tác xã hội hoá giáo dục
20
1.3.5. Nội dung cơ bản của xã hội hoá giáo dục
21
1.4. Quản lý xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở
24
1.4.1. Xây dựng kế hoạch phù hợp với hoạt động giáo dục và
điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị
24


1.4.2. Tổ chức thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục
24
1.4.3. Chỉ đạo, chỉ huy, điều phối
25
1.4.4. Kiểm tra
25
1.4.5. Thông tin

25
Chƣơng 2: thực trạng quảN Lý Xã HộI HOá
GIáO DụC TRUNG HọC CƠ Sở TRÊN ĐịA BàN
QUậN HAI Bà TRƢNG, Hà NộI
28
2.1. Khái quát về giáo dục của Quận Hai Bà Trưng
28
2.1.1. Tình hình kinh tế và xã hội
28
2.1.2. Tình hình giáo dục và đào tạo
29
2.1.3. Tình hình giáo dục trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng,
Hà Nội
32
2.2. Thực trạng công tác xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở
quận Hai Bà Trưng
34
2.2.1. Nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương,
các đoàn thể, nhân dân và các cán bộ quản lý giáo dục đối với
công tác xã hội hoá giáo dục
34
2.2.2. Những chủ trương, chính sách của các cấp lãnh đạo địa
phương và ngành giáo dục đối với công tác xã hội hoá giáo dục
37
2.2.3. Thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục ở các trường trung
học cơ sở Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
38
2.3. Thực trạng quản lý xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở Quận
Hai BàTrưng, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
42

2.3.1. Về kế hoạch công tác xã hội hoá giáo dục
43
2.3.2. Về tổ chức thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục
44
2.3.3. Về chỉ đạo, giám sát công tác xã hội hoá giáo dục
44
2.3.4. Kiểm tra, đánh giá công tác xã hội hoá giáo dục
44
2.4. Đánh giá chung và những bài bài học kinh nghiệm rút ra từ
thực tiễn công tác quản lý xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở
Quận Hai Bà Trưng
44
2.4.1. Thành tựu
44
2.4.2. Hạn chế
47


2.4.3. Nguyên nhân
49
Chƣơng 3: biện pháp cải tiến quản lý xã hội hoá giáo dục
trung học cơ sở quận hai bà trƣng, Hà nội
52
3.1. Định hướng phát triển giáo dục trung học cơ sở và xã hội hoá
giáo dục trung học cơ sở Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay
52
3.2. Các biện pháp cải tiến quản lý xã hội hóa giáo dục trung học
cơ sở Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
54

3.2.1.Tổ chức quán triệt chủ trương chính sách, pháp luật nhằm
nâng cao nhận thức về xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở
55
3.2.2.Tăng cường huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng
xã hội tham gia công tác xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở
60
3.2.3. Xây dựng cơ chế chính sách huy động các nguồn lực để
phát triển giáo dục trung học cơ sở
65
3.2.4. Xây dựng trường trung học cơ sở thành đơn vị cung ứng
dịch vụ công ích phục vụ đời sống cộng đồng
72
3.3. Thăm dò tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp cải
tiến quản lý xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở Quận Hai Bà
Trưng
79
3.3.1. Quy trình lấy ý kiến
79
3.3.2. Kết quả thăm dò
80
Kết luận và khuyến nghị
83
1. Kết luận
83
2. Khuyến nghị
84
Tài liệu tham khảo
87
phụ lục






1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là một hiện tượng vĩnh hằng trong lịch sử phát triển của xã
hội loài người, có vai trò và tác dụng to lớn đến toàn bộ cấu trúc xã hội. Giáo
dục là nền tảng, là động lực quan trọng đảm bảo cho sự phát triển của đất
nước. Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 2, khoá VIII
khẳng định: “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải
phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản
của sự phát triển nhanh và bền vững…Giáo dục là quốc sách hàng đầu”
[9,tr.19-29].
Trên tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp chiến
lược, trong đó công tác XHHGD được coi là một giải pháp giữ vai trò chủ
yếu trong quá trình phát triển sự nghiệp GD & ĐT.
Trong những năm qua, quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”,
chưa được nhận thức và thực hiện đầy đủ trong xã hội, cũng như trong ngành
giáo dục. Công tác quản lý, kể cả đầu tư cho giáo dục chưa tạo ra được sự
đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các lực lượng xã hội để phát triển sự
nghiệp giáo dục.
Nhiệm vụ đặt ra cho công tác quản lý là thực hiện chủ trương đường lối
giáo dục của Đảng, là bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự
tham gia của người dân, của mọi lực lượng xã hội, tạo ra sự phối hợp liên
ngành dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của nhà nước để làm cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Xu thế hội nhập và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đặt ra nhiều nhu
cầu đối với giáo dục. Giáo dục đang đứng trước những thời cơ phát triển cực

kỳ thuận lợi, nhưng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức to lớn, đòi hỏi
phải có những giải pháp, những cách làm giáo dục thích hợp.


2
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có ý nghĩa rất to lớn, mở
ra một thời kỳ mới, thời kỳ phát triển đất nước trong những thập kỷ đầu của
thế kỷ 21. Về giáo dục, Đại hội khẳng định: “Tiếp tục quán triệt quan điểm
giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong
phát triển giáo dục và đào tạo…Hoàn thiện cơ chế, chính sách và luật pháp để
bảo vệ sự nghiệp giáo dục phát triển ổn định…Đẩy mạnh xã hội hoá phát triển
giáo dục và đào tạo. Huy động và sử dụng mọi nguồn lực cho giáo dục và đào
tạo” [10,tr.292 – 294]. Do đó, hơn lúc nào hết công tác XHHGD phải trở
thành phong trào rộng lớn, mạnh mẽ tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát
triển đáp ứng được mục tiêu chiến lược của đất nước trong thời kỳ CNH-
HĐH.
Xác định công tác XHHGD là vận động, tổ chức sự tham gia của toàn
xã hội vào phát triển sự nghiệp giáo dục nhằm từng bước nâng cao mức
hưởng thụ về giáo dục. Xã hội hoá và đa dạng hoá các hình thức hoạt động
giáo dục cho phép mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân
lực, vật lực, trí lực trong xã hội để phát triển giáo dục; phát huy và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động
giáo dục.
XHHGD không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm và sự đầu tư của Nhà
nước mà trái lại, Nhà nước thường xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng tỷ
lệ ngân sách chi cho các hoạt động giáo dục, đồng thời quản lý tốt để nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó. Chính phủ đã ban hành nghị
quyết 90/CP, nghị quyết 05/2005/NQ-CP, nghị định 73/1999/NĐ-CP về
chính sách khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong giáo dục và các
lĩnh vực xã hội khác.

Hiện nay, XHHGD THCS trên thực tế chưa phát huy được thế mạnh
của nó, bởi vì còn nhiều thiếu sót trong nhận thức và thực hiện XHHGD. Có
quan điểm cho rằng XHHGD THCS chỉ đơn thuần là sự đa dạng hoá các
hình thức đóng góp của nhân dân và xã hội mà ít chú trọng tới nâng mức
hưởng thụ giáo dục của người dân. Vì vậy, có nơi công tác XHHGD THCS


3
chỉ đơn thuần là huy động cơ sở vật chất, Nhà nước khoán giáo dục cho dân,
ít quan tâm đến sức dân. Trái lại có nơi lại thụ động trông chờ vào sự bao
cấp chủ yếu của nhà nước. Vấn đề đặt ra là phải làm sâu sắc hơn về lý luận
và thực tiễn ở từng địa bàn dân cư để quản lý tốt hơn công tác XHHGD
THCS.
Lâu nay, công tác XHHGD luôn được Đảng, Nhà nước, các cấp lãnh
đạo địa phương triển khai thực hiện. UBND quận Hai Bà Trưng đã ban hành
nhiều nghị quyết, nhiều văn bản quan trọng triển khai công tác XHHGD.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, công tác XHHGD ở quận Hai Bà
Trưng nói chung, ở các trường THCS nói riêng đã đạt được kết quả nhất
định. Tuy vậy, vẫn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế; trong đó có công tác quản
lý.
XHHGD là một công tác quan trọng và cần thiết được nhiều nhà nghiên
cứu, tìm hiểu, đề cập đến nhiều phương diện: Từ hình thức đến mô hình,
biện pháp, hiệu quả hoạt động…nhưng việc tìm hiểu các biện pháp quản lý
XHHGD THCS trên địa bàn quận Hai Bà Trưng Hà Nội vẫn chưa được
nghiên cứu và giải quyết.
Quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề XHHGD và vận
dụng vào địa bàn quận Hai Bà Trưng có thể giúp phát triển đồng bộ sự
nghiệp giáo dục đào tạo, đặc biệt hệ THCS nhằm hạn chế, tháo gỡ những
vướng mắc tồn tại, phát huy tiềm năng của xã hội trong sự nghiệp giáo dục
của địa phương.

Từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Những biện pháp cải
tiến quản lý xã hội hoá giáo dục Trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng, Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng XHHGD THCS,
đề tài đề xuất những biện pháp cải tiến quản lý XHHGD THCS quận Hai Bà
Trưng, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.


4
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
Khách thể: Hoạt động XHHGD THCS trong giai đoạn hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý XHHGD THCS ở địa bàn quận Hai Bà Trưng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về XHHGD và quản lý XHHGD nói chung và
XHHGD THCS.
4.2. Đánh giá thực trạng quản lý XHHGD THCS và các biện pháp quản lý
XHH sự nghiệp giáo dục THCS ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
4.3. Đề xuất các biện pháp cải tiến quản lý XHH sự nghiệp giáo dục THCS
trên địa bàn quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn hiện nay.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu đề xuất một cách căn cứ khoa học và áp dụng vào thực tiễn các
biện pháp XHHGD THCS trên địa bàn quận Hai Bà Trưng thì kết quả
XHHGD sẽ được nâng cao và mục tiêu của giáo dục THCS trên địa bàn quận
Hai Bà Trưng sẽ được thực hiện tốt hơn.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các trường THCS trên địa bàn quận Hai Bà Trưng,
Hà Nội. Thời gian áp dụng trong giai đoạn 5 - 7 năm trước mắt
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Phương pháp điều tra XHH
+ Phương pháp toạ đàm, phỏng vấn sâu.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục thực tiễn.
7.3. Các phương pháp hỗ trợ khác:
+ Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê (SPSS).
8. Cấu trúc luận văn


5
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Thực trạng xã hội hoá và quản lý xã hội hoá giáo dục trung học
cơ sở trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Chƣơng 3: Đề xuất những biện pháp cải tiến quản lý xã hội hoá giáo dục trung
học cơ sở trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.


6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Sơ lƣợc về vấn đề nghiên cứu
Giáo dục là phạm trù vĩnh cửu, sự ra đời của giáo dục gắn liền với sự
hình thành, tồn tại và phát triển của loài người. Chức năng đầu tiên, chức
năng nguyên thuỷ của giáo dục là XHH.
Ngày nay, loài người đã bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ mở ra cho nhân
loại một thời đại văn minh trí thức. Thời đại đó yêu cầu con người phải:
“Học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác, học để khẳng

định mình và phát triển”. Tuy nhiên, không có một ngôi trường nào, người
thầy nào đủ sức đưa hết mọi tri thức, kỹ năng, thái độ vào dạy học nhà
trường. Bởi vậy, việc học tập ngày nay không chỉ diễn ra trong nhà trường
mà còn phải học trong gia đình và ngoài xã hội với nhiều hình thức phong
phú và đa dạng; kéo dài suốt đời, học những gì cần cho cuộc sống khi có nhu
cầu và điều kiện, nghĩa là phải giáo dục cho mọi người và mọi người phải tự
giáo dục để tiến tới một xã hội học tập.
XHHGD là một quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Quan điểm đó là
sự đúc kết truyền thống hiếu học, đề cao sự học và chăm lo việc học hành
của nhân dân ta suốt hàng nghìn năm lịch sử phát triển của dân tộc. Từ cách
mạng tháng 8/1945 thành công đến nay, nhiều văn bản của Đảng và Nhà
nước ta chỉ đạo sự nghiệp giáo dục đã khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng”, “Nhà nước và Nhân dân cùng làm giáo dục”. Nghị quyết
TW 4 khoá VII nhấn mạnh: “Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục,
nhưng vấn đề quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt việc xã
hội hoá các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng phát triển giáo dục
trong nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội”. Nghị quyết TW
2 khoá VIII một lần nữa khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng,


7
của Nhà nước và của toàn dân”. Nghị quyết TW 6 khoá IX, Đảng ta chỉ rõ:
“Đẩy mạnh XHHGD, xây dựng xã hội học tập, coi giáo dục là sự nghiệp của
toàn dân, và XHHGD là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo
dục”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định:
“Đẩy mạnh XHHGD”. Chủ chương XHHGD của Đảng được thể chế hoá
vào Hiến pháp năm 1992. Điều 12, Luật Giáo dục 2005 đã nêu: Xã hội hoá
sự nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các loại
hình giáo dục; khuyến khích huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân
tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.

Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Chính phủ ban hành nghị quyết số
90/CP về phương hướng và chủ trương XHH các hoạt động giáo dục nhằm
cụ thể hoá chủ trương, nội dung, biện pháp XHH hoạt động GD & ĐT. Ngày
18/4/2005, Chính phủ ban hành nghị quyết số 05/2005 NQ- CP về đẩy mạnh
XHH các hoạt động GD & ĐT. Ngày 24/6/2005, Bộ GD & ĐT đã ban hành
quyết định số 20/2005/ QĐ-BGD&ĐT phê duyệt đề án “Quy hoạch phát
triển XHHGD giai đoạn 2005 –2010”.
Bên cạnh những chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước nêu trên,
các nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục nước ta cũng có nhiều công trình
nghiên cứu về XHHGD. Như tác giả Phạm Minh Hạc: “Xã hội hoá công tác
giáo dục, một con đường phát triển giáo dục của nước ta”[12]. Trong tác
phẩm “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XX”, tác giả Phạm
Minh Hạc nêu rõ: “Sự nghiệp giáo dục không chỉ là của Nhà nước mà là của
toàn xã hội. Mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, trung ương
và địa phương cùng làm giáo dục” [11].
Nghiên cứu của Đặng Quốc Bảo cho rằng: “XHHGD phản ánh bản
chất luận đề: Giáo dục cho tất cả mọi người, tất cả cho sự nghiệp giáo dục
(Education for All, All for Education EFA- AFE). Vậy việc huy động toàn
xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền


8
giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước không phải là một ý tưởng
mới lạ” [3, tr.6].
Tác phẩm “Xã hội hoá công tác giáo dục, nhận thức và hành động” của
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam xuất bản do tập thể Bùi Gia Thịnh, Võ
Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình nghiên cứu biên soạn đã góp phần hoàn
thiện về nhận thức lý luận và hướng dẫn XHHGD.
Điều đáng quan tâm là không phải chỉ ở các nước kém phát triển cũng
đã đề ra nhiều giải pháp đẩy mạnh công tác XHHGD để phát triển sự nghiệp

giáo dục, bởi XHHGD là một hệ thống định hướng hoạt động của mọi người,
mọi lực lượng xã hội, nhằm hoàn lại bản chất xã hội của giáo dục cho giáo
dục và trả lại nhiệm vụ giáo dục của toàn xã hội cho chính xã hội để tiến tới
xây dựng một xã hội học tập. Tổ chức văn hoá giáo dục Liên hiệp quốc
(UNESCO) đã khuyến nghị: Giáo dục không chỉ bó hẹp trong nhà trường.
Giáo dục phải trở thành phong trào quần chúng thực sự.
Vấn đề XHHGD đã được nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn khá sâu
rộng và lâu dài trong lịch sử giáo dục nước ta và các nước trên thế giới. Bên
cạnh các công trình nghiên cứu khoa học nói chung về công tác XHHGD
trong những năm gần đây được nhiều nhà quản lý giáo dục nước ta quan
tâm. Nhiều luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ cũng đã nghiên cứu về vấn đề
này. Tuy nhiên, đó là những vấn đề có tính chuyên sâu và gắn liền với công
tác quản lý nảy sinh ở từng địa phương và phạm vi công tác. Các hoạt động
của XHHGD là vấn đề rộng lớn, do vậy việc nghiên cứu công tác XHHGD
nói chung và XHHGD ở cấp THCS nói riêng vẫn có ý nghĩa thực tiễn cao.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt trong lịch sử nhân loại, là một
trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa, duy trì và phát triển nền
văn hoá xã hội, văn minh của nhân loại. Giáo dục có tính phổ biến và vĩnh hằng,
là nhân tố cốt lõi và tồn tại khách quan trong mọi giai đoạn phát triển của xã hội.
Theo nghĩa chung nhất: “Giáo dục là qúa trình truyền và lĩnh hội những tri thức,


9
kỹ xảo và những kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho con người bước vào cuộc sống
lao động và sinh hoạt xã hội; là một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người, đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội” [16].
Giáo dục là điều kiện để con người gắn bó với nhau một cách có hiệu
quả theo mục tiêu đổi mới điều kiện sinh tồn, bởi vì hành động của bất kỳ cá

nhân nào cũng bị hạn chế do khả năng và kinh nghiệm, tri thức của thế hệ
trước truyền lại cho thế hệ sau rồi cứ thế tích luỹ và ngày càng phong phú.
Giáo dục không tồn tại “tự thân, biệt lập” mà nó tồn tại trong một xã hội
cụ thể và mọi sự giáo dục đều hướng tới sự tiến hoá của xã hội, nói cách
khác là luôn có một nền giáo dục xã hội. Giáo dục luôn được quy định bởi
điều kiện, định hướng về chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội cụ thể. Không có
xã hội nào có thể tồn tại mà không có giáo dục và mọi sự giáo dục đều nhằm
mục đích phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội. Mối quan hệ biện chứng đó
trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay được thể hiện rất sinh động.
Mọi quốc gia thế giới đều quan tâm đến việc đổi mới nền giáo dục của
mình để phù hợp với thay đổi của xã hội và sự phát triển chung của nhân
loại. Các nước đều coi giáo dục là con đường cơ bản để khỏi tụt hậu và phát
triển bền vững. Đảng ta chủ trương phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn nhân lực - yếu tố cơ bản để
xã hội phát triển nhanh và bền vững. Giáo dục vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển xã hội, văn hoá, kinh tế, chính trị.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, giáo dục(G) có thể coi là tâm giao điểm
của hai trục: trục văn hoá - chính trị (V-C) và trục kinh tế- xã hội (K-X)


10
Sơ đồ 1.1: Mô hình giáo dục

Giáo dục phải là “then chốt” của mọi vấn đề “then chốt”. Chiến lược giáo
dục phải là tiêu điểm của chiến lược kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị. Mọi
chiến lược về con người, về nguồn nhân lực, về khoa học kỹ thuật, an ninh
quốc phòng…đều xuất phát từ chiến lược giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nói:“Ai cũng được học hành”, “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Người kêu gọi “Phải biến dân tộc ta thành một dân tộc thông thái”, “Học
sinh phải cố gắng siêng năng học tập để làm cho non sông Việt Nam trở nên

tươi đẹp”. Điều đó chứng minh vai trò giáo dục là hết sức quan trọng. Một
lần nữa khẳng định “giáo dục là cầu nối từ chỗ không có gì đến chỗ cái gì
cũng có” (Triết học giáo dục Australia).
1.2.2. Nhà trường
Xã hội ngày càng phát triển đã thúc đẩy sự ra đời của nhà trường – nơi
tổ chức hoạt động giáo dục một cách có hệ thống và có kế hoạch nhất. Có
nhiều hình thức giáo dục khác nhau nhưng đều đảm bảo sự nhất quán giữa
mục tiêu, nội dung, phương pháp. Giáo dục tồn tại trên trục lưỡng cực Thầy-
Trò. Trong đó Trò đóng vai trò là trung tâm của quá trình giáo dục, Thầy có
vai trò tổ chức quá trình giáo dục. Nhà trường luôn gắn liền với đời sống
cộng đồng. Cộng đồng là nguồn lực của nhà trường. Giữa nhà trường và
cộng đồng có mối quan hệ hữu cơ, bền vững. Đây chính là cơ sở lý luận cho
công tác XHHGD, là sự gắn kết giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Điều
48, Luật giáo dục năm 2005 chỉ rõ: “Nhà trường trong hệ thống giáo dục
C
V
X
K
G


11
quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch của Nhà
nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục” [19,tr 46].
Nhà trường là một tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp làm công tác giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ, tham gia vào quá trình thực hiện mục tiêu “Nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước. Tuy nhiên, nhà
trường ở mọi cấp học chỉ là một giai đoạn học tập trong cuộc đời của mỗi
người; việc tự giáo dục mới có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển nhân
cách của mỗi con người. Vì vậy nhà trường, gia đình, xã hội phải có sự phối

hợp chặt chẽ trong quá trình giáo dục. Một trong những ưu tiên và mang
tính chiến lược cho giáo dục là sự tham gia của gia đình và cộng đồng ngày
càng nhiều hơn vào các hoạt động của nhà trường.
Nhà trường là đơn vị của ngành giáo dục đồng thời là trung tâm văn hoá
của địa phương, nơi quy tụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân địa
phương. Thông qua nhà trường nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước được phổ biến đến cộng đồng dân cư thông qua học sinh, cha mẹ học sinh
và người thân của họ. Đội ngũ giáo viên trong các nhà trường do có uy tín với
đời sống cộng đồng đã trở thành các cán bộ hoạt động xã hội, tuyên truyền viên
và vận động thực hiện những chủ trương phát triển cộng đồng.
1.2.3. Nhà trường trung học cơ sở
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhà trường THCS thuộc ngành giáo
dục phổ thông. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là: “Giúp học sinh phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo, hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động,
tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [20, tr.29]. Điều 26, Luật Giáo dục
2005 quy định: Giáo dục THCS được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp
sáu đến lớp chín. Học sinh vào lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu


12
học, có tuổi là mười một tuổi. Điều 9 của Điều lệ trường trung học đã nêu:
“Nhà trường THCS gắn bó với xã (phường), kế hoạch xây dựng của trường
là một bộ phận trong kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương”.
Ở Việt Nam, nhà trường THCS có tính chất: Phổ thông, lao động, kỹ
thuật tổng hợp, hướng nghiệp và chuẩn bị nghề. Tính chất đó được thể hiện
trong cơ cấu tổ chức, trong toàn bộ hoạt động giảng dạy, giáo dục và học
tập”.Nhà trường THCS có các nhiệm vụ sau:

+ Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo
chương trình giáo dục trung học do Bộ trưởng Bộ GD &ĐT ban hành;
+ Tiếp nhận học sinh, vận động học sinh bỏ học đến trường thực hiện
kế hoạch phổ cập giáo dục THCS trong phạm vi cộng đồng theo quy định
của nhà nước;
+ Quản lý giáo viên, nhân viên và học sinh;
+ Quản lý, sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính theo
quy định của pháp luật;
+ Phối hợp với gia đình học sinh , tổ chức và cá nhân trong cộng đồng
thực hiện các hoạt động giáo dục;
+ Tổ chức giáo viên, nhân viên và học sinh tham gia các hoạt động xã
hội trong phạm vi cộng đồng;
+ Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật.
Ở cấp THCS, nhà trường phải tạo điều kiện tối ưu để cho học sinh của
mình được học tập, tiếp thu, rèn luyện những kỹ năng cần thiết, phấn đấu tu
dưỡng, rèn luyện nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc hình thành nhân cách
đáp ứng yêu cầu của xã hội. Bởi vậy nhiệm vụ đặt ra cho nhà trường THCS
là phát triển nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận chiếm lĩnh khoa học công
nghệ, phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước và hội nhập quốc tế;


13
đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong đời sống văn
hoá, bảo vệ độc lập dân tộc và CNXH.
1.2.4. Quản lý
Quản lý là một khái niệm được thường xuyên sử dụng trong nghiên cứu
khoa học về lĩnh vực xã hội. Ngay từ buổi sơ khai, để đương đầu với sức
mạnh của tự nhiên, để tồn tại và phát triển, con người đã hình thành các
nhóm hợp tác lao động tập thể nhằm thực hiện các mục tiêu mà từng cá nhân
riêng lẻ không thể thực hiện dược, điều này đòi hỏi phải có sự tổ chức, phải

có phân công và hợp tác lao động, từ đó xuất hiện sự quản lý.
F.W. Taylor cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì
cần phải làm và cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất” [7,tr.89].
Các Mác khẳng định: “Tất cả mọi người lao động xã hội trực tiếp hay
lao động chung nào tiến hành quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cần có một
sự lãnh đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện chức năng
chung phát sinh từ mọi vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận
động của những khí quan độc lập của nó. Một người đọc tấu vĩ cầm thì tự
điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [4,tr.342].
Theo tác giả Đặng Bá Lãm: “Quản lý là hoạt động có ý thức của con
người nhằm phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng
người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất” [15,Tr.68 - 69]
Trong nghiên cứu khoa học, có rất nhiều quan niệm về quản lý theo
những tiếp cận khác nhau. Chính từ sự đa dạng về cách tiếp cận, dẫn đến sự
phong phú về các quan niệm quản lý.
Có người đã thu hẹp khái niệm quản lý, xem đó là chức năng cơ bản
(Henri Fayol), hoặc khẳng định yếu tố chức năng cơ bản.
Một số nhà giáo dục Việt Nam trong quá trình nghiên cứu về lý luận quản
lý, đã nghiên cứu và vận dụng vào lĩnh vực quản lý giáo dục thì cho rằng: Quản
lý là quá trình định hướng, quá trình tác động có mục tiêu này đặc trưng cho


14
trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn. Theo tác giả Trần
Kiểm: “Quản lý nhằm phối hợp nỗ lực nhiều người, sao cho mục tiêu của từng
cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội: [13, tr.8].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Công tác quản lý lãnh đạo một
tổ chức xét cho cùng là việc thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với
nhau: Quản và lý. Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, gìn giữ, duy trì hệ ở
trạng thái ổn định, quá trình “lý” bao gồm việc sửa sang, sắp xếp, đổi mới

đưa vào hệ phát triển” [2, tr.93].
Tóm lại, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các
tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt mục tiêu định ra trong điều kiện
biến động của môi trường, làm cho tổ chức vận hành (hoạt động) có hiệu
quả.
Như vậy, rõ ràng “Quản lý không chỉ là một khoa học mà còn là một
nghệ thuật” và “Hoạt động quản lý vừa có tính chất khách quan, vừa mang
tính chủ quan, vừa có tính pháp luật của Nhà nước, vừa có tính xã hội rộng
rãi…chúng ta là những mặt đối lập trong một thể thống nhất” [5, tr.15]
1.2.5. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của lao động xã hội. Đây là một
hoạt động chuyên môn nhằm thực hiện quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử xã hội qua các thế hệ, đồng thời là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Để hoạt động này vận hành có hiệu quả, giáo dục phải được
tổ chức thành các cơ sở, tạo nên một hệ thống các cơ sở giáo dục, điều này
dẫn đến một tất yếu là phải có một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập tương
đối trong giáo dục, đó là công tác quản lý giáo dục để quản lý các cơ sở giáo
dục có trong thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu về lĩnh vực quản giáo, đã
có nhiều tác giả đưa ra khái niệm quản lý giáo dục như sau:


15
+ Theo M.I. KONĐACỐP: Quản lý giáo dục là tập hợp những biện
pháp tổ chức, phương pháp, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu…nhằm
đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng cả về mặt số lượng cũng
như chất lượng [17,tr.17].
+ Theo P.V.Khudominxky: Quản lý giáo dục là động tác có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp

khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (Bộ GD-ĐT đến nhà trường)
nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ,
bảo đảm sự phát triển toàn diện, hài hoà của họ [7, tr.50].
+ Theo tác giả Trần Kiểm: Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có
kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
nhằm mục đích đảm bảo hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận
thức và vận dụng của quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của
quản lý giáo dục, của sự phát triển tâm lý và thể lực của trẻ em [14, tr.64].
Như vậy, quản lý giáo dục có thể hiểu là: Sự tác động có tổ chức, có
định hướng phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục ở từng cơ sở và của toàn bộ hệ
thống giáo dục đạt tới mục tiêu đã định.
Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý chính là bộ máy các cấp; đối
tượng quản lý chính là nguồn nhân lực, CSVC và các hoạt động thực hiện
chức năng của GD & ĐT. Như thế, sự tác động từ chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý, có thể từ người quản lý đơn vị cơ sở giáo dục đến đối tượng
quản lý người dạy, người học, CSVC hoặc là sự tác động giữa các cấp
QLGD từ Trung ương đến địa phương.
Nội dung của quản lý giáo dục bao gồm một số vấn đề cơ bản sau:
+ Xây dựng và thực hiện chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển
giáo dục;


16
+ Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo
dục, ban hành điều lệ nhà trường;
+ Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục, tiêu chuẩn nhà
giáo, cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học;
+ Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;
+ Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý-giáo viên;

+ Huy động quản lý sử dụng các nguồn lực.
Quản lý giáo dục được phân công theo các nguyên tắc khác nhau, theo
địa bàn lãnh thổ, theo chuyên môn kỹ thuật, theo mục tiêu quản lý.
1.2.6. Quản lý nhà trường
Trường học nằm trong hệ thống giáo dục và hệ thống xã hội, đặc điểm
thể chế là có sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa đặc điểm nhà nước và đặc
điểm xã hội. Vì thế, trường học luôn có mối quan tâm và tác động qua lại với
môi trường xã hội. Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Trường là một thể chế
xã hội trong đó quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của
hai nhân tố Thầy và Trò”, “Trường học là bộ phận của cộng đồng và trong
guồng máy của hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở” [2, tr.63-65].
Bản chất của công tác quản lý trường học là quá trình chỉ huy, điều
khiển vận động của các thành tố, đặc biệt là mối quan hệ giữa các thành tố.
Mối quan hệ đó là do quá trình sư phạm trong nhà trường quy định và được
thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2: Các thành tố trong nhà trƣờng
1. Mục tiêu đào tạo
2. Nội dung đào tạo
3. Phương pháp đào tạo
4. Lực lượng đào tạo
5. Đối tượng đào tạo

1
2
6
7
10
3
8
4

5
9
Nhà
trường


17
6. Hình thức đào tạo
7. Điều kiện đào tạo
8. Môi trường đào tạo
9. Quy chế đào tạo
10. Bộ máy tổ chức đào tạo
Như vậy, công tác quản lý trường học bao gồm sự quản lý các cơ quan
hệ nội bộ (bên trong) của nhà trường và quan hệ giữa trường học với (bên
ngoài) xã hội.
Tóm lại: Quản lý trường học về bản chất là quản lý con người, do đó
công tác quản lý con người (của người cán bộ quản lý) đối với người cán bộ
giáo viên và học sinh là khâu trung tâm của quản lý trường học, là động lực
thúc đẩy sự phát triển của nhà trường.
1.2.7. Xã hội hoá con người
Chức năng xã hội hoá của giáo dục chính là làm cho con người sinh
học thành con người xã hội.
Nhà xã hội học Pháp E.Durkheim (1858-1917) là một trong số ít người
đầu tiên sử dụng thuật ngữ XHH. Tác giả cho rằng: “Giáo dục vừa có chức
năng phân hoá vừa có chức năng XHH”, về sau được sử dụng phổ biến trong
nhiều lĩnh vực. XHH là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học.
Nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhiều cách hiểu, định nghĩa khác nhau như:
+ XHH là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội;
+ XHH bao gồm tất cả các quá trình tiếp diễn văn hoá giao tiếp, học hỏi
qua đó cá nhân con người phát triển bản chất xã hội và có khả năng tham gia

vào đời sống xã hội;
+ XHH là sự tương tác, mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con người,
của cộng đồng nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã hội.




18
1.2.8. Xã hội hoá giáo dục
Xã hội loài người hình thành đồng thời với sự ra đời của giáo dục. Có
loài người thì phải có giáo dục để thực hiện sự chuyển giao những kinh
nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện tất yếu để xã
hội tồn tại và phát triển. Đó chính là bản chất xã hội của giáo dục, là cơ sở tư
duy của XHHGD.
Tuy diễn đạt có khác nhau song phần lớn đều thống nhất quan điểm: “Bản
chất của xã hội hoá là cách làm, cách thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng bằng con đường giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham gia của mọi
người dân, mọi lực lượng xã hội; tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có kế
hoạch dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của nhà nước làm cho việc giải
quyết các vấn đề xã hội thực sự của dân, do dân và vì dân” [1, tr.7].
Có thể hiểu một cách khái quát: XHHGD là việc thực hiện mối liên hệ
giữa hoạt động giáo dục và cộng động xã hội, là tìm cách hoàn nguyên bản
chất xã hội của giáo dục, làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã
hội, thích ứng với xã hội.
Đây là một mối quan hệ biện chứng, thiết lập được mối quan hệ này làm
cho giáo dục phù hợp với sự phát triển xã hội. XHHGD là mở rộng quy mô,
mở rộng trách nhiệm giáo dục, chuyển hướng từ giáo dục tinh hoa thành giáo
dục đại chúng, giáo dục cho mọi người và tiến tới một xã hội học tập. Hoạt
động giáo dục từ chỗ trách nhiệm của ngành giáo dục, do nhà nước đảm
trách đến mọi người, mọi tổ chức và cộng đồng cùng tham gia làm giáo dục.

1.3. Công tác xã hội hoá giáo dục ở nhà trƣờng Trung học cơ sở
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá giáo dục
Xuất phát từ tính chất xã hội vốn có của giáo dục, điều kiện thực tiễn
của giáo dục nước nhà, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định XHHGD là một
tư tưởng chiến lược.


19
Nghị quyết 4 của Hội nghị TW Đảng khoá VII đã chỉ bản chất XHHGD
là: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân
góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước” [8,
tr.61].
Nghị quyết TW 2 khoá VIII về “Định hướng chiến lược phát triển giáo dục
và đào tạo trong thời kỳ CNH-HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000”của Ban
chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục
là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, từng gia đình
và mỗi công dân. Kết hợp giáo dục học đường, giáo dục gia đình, giáo dục
xã hội”. Nghị quyết TW 6 khoá IX, Đảng ta đã khẳng định: “Đẩy mạnh
XHHGD, xây dựng xã hội học tập, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân và
XHHGD là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục”. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh
XHHGD”. Chủ trương XHHGD của Đảng được thể chế hoá sự nghiệp giáo
dục để thực hiện đa dạng hoá vào Hiến pháp 1992. Điều 12 của Luật giáo
dục 2005 đã nêu: Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hoá
các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích huy động và
tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Chính phủ ban hành nghị quyết số
90/CP và nghị quyết số 05/2005 NQ- CP nhằm cụ thể hoá quan điểm:
XHHGD là quá trình xã hội hoá giáo dục, vận động và tổ chức tham gia rộng
rãi của nhân dân, của toàn xã hội cùng làm giáo dục, xây dựng một xã hội

học tập; là sự cộng đồng trách nhiệm để phát triển sự nghiệp giáo dục; là đa
dạng hoá sự đầu tư vào các loại hình giáo dục, các hình thức giáo dục dưới
sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Quan điểm này là sự kế
thừa, phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ tính dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng mối quan hệ thật tốt, đoàn kết giữa thầy và trò, giữa học trò với

×