Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Những biện pháp quản lý công tác tài chính của Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 114 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG





Những biện pháp quản lý công tác tài chính
của Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay



luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC










Hµ néi - 2008





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG




Những biện pháp quản lý công tác tài chính
của Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay


Mã số : 60 14 05



luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Quốc Bảo



Hµ néi - 2008





3



MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Bảng những cụm từ viết tắt
Mục lục

Mở đầu
1
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
5
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
5
1.1.1. Quá trình đổi mới và cải cách giáo dục ở Việt nam trong thời
gian qua

5
1.1.2. Những đổi mới quản lý tài chính trong tổng thể đổi mới của
ngành Giáo dục - đào tạo và hệ thống văn bản pháp qui về quản lý tài
chính trong các trường đại học, cao đẳng.
9
1.1.3. Vai trò của quản lý tài chính trong nhà trường
11
1.1.4. Hoạt động tài chính của nhà trường
12
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
12
1.2.1. Quản lý
12
1.2.2. Quản lý giáo dục
15
1.2.3. Quản lý nhà trường
18
1.3. Bản chất vấn đề tài chính trong giáo dục
19
1.3.1. Một số khái niệm về tài chính
19
1.3.2. Tài chính trong giáo dục.
20
1.3.2. Quản lý tài chính trong nhà trường
20
1.4. Nội dung quản lý tài chính của trường đại học, cao đẳng
24
1.4.1. Quản lý kinh phí hoạt động thường xuyên
24
1.4.2. Quản lý kinh phí chương trình mục tiêu trong giáo dục đào tạo

25
1.4.3. Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản
25
1.4.4. Quản lý thu chi các hoạt động khác của nhà trường
25
1.4.5. Quản lý tài sản
26


4


1.5. Yêu cầu quản lý tài chính trong nhà trường
26
Tiểu kết chương 1
28
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở trường Cao đẳng
nghề Cơ điện Hà nội
30
2.1. Quá trình phát triển của trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà nội
30
2.1.1. Vai trò của ngành Dạy nghề đối với sự phát triển kinh tế xã hội
30
2.1.2. Sơ lược quá trình phát triển và chức năng nhiệm vụ của nhà
trường
31

2.1.3. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý của trường CĐ nghề CĐ
HN
33

2.1.4. Qui mô đào tạo và cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà trường
36
2.2. Thực trạng cơ chế quản lý tài chính của trường Cao đẳng nghề Cơ
điện hà nội hiện nay
37

2.2.1. Cơ sở lập dự toán
39
2.2.2. Thực trạng về quản lý và sử dụng nguồn kinh phíNSNN
41
2.2.3. Tình hình huy động, sử dụng nguồn thu sự nghiệp và kinh phí
từ các nguồn thu khác
51
2.3. Đánh giá cơ chế quản lý tài chính ở trường Cao đẳng nghề Cơ điện
Hà nội trong những năm qua
54
2.3.1. Một số ưu điểm và thuận lợi
54
2.3.2. Một số khó khăn và hạn chế trong trong quản lý tài chính
56
2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế
57
2.3.4. Những hạn chế trong huy động các nguồn thu
58
2.3.5. Những hạn chế trong phân bổ kinh phí
59
Tiểu kết chương 2
60
Chương 3: Những biện pháp quản lý công tác tài chính của trường
Cao đẳng nghề Cơ điện Hà nội trong giai đoạn hiện nay

62
3.1. Một số phương hướng phát triển cơ bản của trường Cao đẳng nghề
Cơ điện trong bối cảnh đổi mới hiện nay
62


5

3.2. Nguyên tắc lựa chọn các biện pháp quản lý công tác tài chính của
trường
62
3.2.1. Nguyên tắc kế thừa
63
3.2.2. Nguyên tắc thực tiễn
65
3.2.3. Nguyên tắc hiệu quả
66
3.3. Một số biện pháp quản lý công tác tài chính ở trường Cao đẳng nghề
Cơ điện Hà Nội
70
3.3.1. Nâng cao nhận thức về nội dung và nhiệm vụ của công tác
quản lý tài chính cho CBCNVC và giáo viên trong trường
68
3.3.2. Tăng cường công tác kế hoạch hoá các nguồn thu
71
3.3.3. Xây dựng và thực hiện Qui chế chi tiêu nội bộ đảm bảo qui
định của Nhà nước và phục vụ thiết thực cho mực tiêu đào tạo
75
3.3.4. Thực hiện công tác kiểm tra nội bộ, chấp hành nghiêm chỉnh
chế độ kiểm toán Nhà nước định kỳ

76
3.3.5. Nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm cho cán
bộ chuyên trách công tác tài chính
78
3.4. Mối quan hệ biện chứng giữa các biện pháp
79
3.5. Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý
công tác tài chính của trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội.
81
Tiểu kết chương 3
83
Kết luận và khuyến nghị
84
Danh mục Tài liệu tham khảo
89
Phụ lục











2



BẢNG NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT


STT
Viết tắt
Viết đầy đủ
1
BGH
Ban giám hiệu
2
CBCNVC
Cán bộ công nhân viên chức
3
CĐN
Cao đẳng nghề
4
CNH – HĐH
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
5
CNKT
Công nhân kỹ thuật
6
GV
Giáo viên
7
GD - ĐT
Giáo dục - Đào tạo
8
HS - SV
Học sinh – sinh viên

9
HC- TC
Hành chính – Tổ chức
10
KH - KT
Khoa học - Kỹ thuật
11

Nghị định
12
PTNT
Phát triển nông thôn
13

Quyết định
14
TCDN
Tổng cục dạy nghề
15

Quyết định
16

Nghị định
17
TT
Thông tư
18
TTLB
Thông tư liên bộ

19
TCCB
Tổ chức cán bộ
20
TBXH
Thương binh xã hội










6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nghị quyết Hội nghị lần thứ II khoá VIII của Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “…Thực sự coi giáo dục - đào
tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với
khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển
xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính
sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và
chính sách tiền lương là những giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục”.
Nhiệm vụ và mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người đáp ứng yêu

cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Con người là nguồn nhân lực, là nhân tố
quyết định sự phát triển đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 – 2015 mà
mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục thời kì này là: Tạo bước chuyển
biến cơ bản về chất lượng giáo dục, ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân
lực, đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục, phát
triển đội ngũ nhà giáo vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng hiệu quả, đổi
mới phương pháp dạy – học, đổi mới quản lí giáo dục tạo cơ sở pháp lí và
phát huy nội lực phát triển giáo dục. Để đạt được mục tiêu đó thì chúng ta
phải tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục. Đi đôi với việc
tăng cường nguồn tài chính là phải đổi mới cơ chế quản lý tài chính vì nếu
chúng ta có nguồn tài chính mà việc sử dụng và quản lý không tốt thì gây thát
thoát và lãng phí đồng thời ảnh hưởng ngay tới chất lượng đào tạo.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới về cơ chế quản lý tài chính trong giáo dục,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 trao
quyền tự chủ về tài chính, cho các đơn vị sự nghiệp có thu, được các đơn vị
trường học, cơ sở đào tạo công lập triển khai thực hiện từ năm 2003. Đến năm
2006 Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 được ban hành thay thế


7

Nghị định số 10/2002 là một bước đổi mới mạnh mẽ về quản lý và cải cách
hành chính. Nghị định này qui định quyển tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính cho các đơn vị sự
nghiệp công lập.
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn được nâng cấp từ trường Trung học Cơ điện Nông nghiệp và
PTNT theo Quyết định số 1190/QĐ-BLĐTBXH ngày 29/12/2006 của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội. Là một trong những đơn vị sự nghiệp đầu tiện

được Bộ Nông nhgiệp và PTNT giao cho thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-
CP, được trao quyền tự chủ về tài chính. Trường đã xây dựng Qui chế chi tiêu
nội bộ làm căn cứ để điều hành và quản lý mọi hoạt động tài chính theo các
qui định của Nghị định số10/2002/NĐ-CP. Nhà trường đã chủ động trong
việc lập kế hoạch và thực hiện chi tiêu, mua sắm vật tư, trang thiết bị để kịp
thời phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập – nhiệm vụ chính của trường,
đồng thời chủ động tiết kiệm chi phí về quản lý hành chính tạo cơ sở để cải
thiện thu nhập cho giáo viên và cán bộ công nhân viên chức, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo và hiệu quả công tác.
Tuy nhiên, việc thực hiện tự chủ quản lý tài chính trong những năm qua
đã bộc lộ một số nhược điểm như nhận thức của cán bộ, giáo viên chưa đầy
đủ, chưa chuẩn mực về công tác tài chính của nhà trường. Kế hoạch thu chi
chưa thật sự chủ động, chưa phát huy hết hiệu lực, hiệu quả của công tác tài
chính đối với các hoạt động của nhà trường. Tiền lương và thu nhập chưa
thực sự khích thích và động viên được đội ngũ cán bộ, viên chức và giáo viên
của trường, các định mức khoán chi chưa được điều chỉnh kịp thời theo sự
thay đổi của giá cả trên thị trường.
Để tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý tài chính trong Nhà
trường góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính, trên cương
vị công tác của mình và kiến thức đã được trang bị trong quá trình học tập và
nghiên cứu tại Khoa Sư phạm Đại học Quốc gia Hà nội, tôi đã chọn đề tài “


8

Những biện pháp quản lý công tác tài chính của trường Cao đẳng nghề Cơ
điện Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu trong luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng công tác quản lý

tài chính của trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội, luận văn sẽ đề xuất
những biện pháp quản lý tài chính nhằm đáp ứng sự phát triển của trường
trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, trong luận văn sẽ đề cập một số nhiệm vụ
sau:
- Hệ thống hoá những lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính ở trường
Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp quản lý tài chính ở trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà
Nội nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của đào tạo.
- Khảo nghiệm các biện pháp đã đề xuất.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý tài chính trong nhà trường.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hoạt động quản lý tài chính ở trường Cao
đẳng nghề Cơ điện Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát, tổng hợp, so sánh, lấy
ý kiến chuyên gia …
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Tổng kết thực tiễn công tác quản lý tài chính của trường
Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế, cung cấp


9

cơ sở khoa học để đưa ra những biện pháp quản lý công tác tài chính trong
các trường và các cơ sở đào tạo công lập.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được áp dụng cho trường Cao

đẳng nghề Cơ điện và các cơ sở đang thực hiện đào tạo nghề, ngoài ra còn có
giá trị cho các nhà quản lý trong các cơ sở giáo dục đào tạo nói chung.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được trình bầy trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý tài chính ở trường Cao đẳng
nghề Cơ điện Hà Nội
- Chương 3: Những biện pháp quản lý công tác tài chính ở trường Cao
đẳng nghề Cơ điện Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.


















10





Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Quá trình đổi mới và cải cách giáo dục ở Việt Nam trong thời gian
qua
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, cải cách giáo dục ngày càng rõ nét
và được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng, các văn bản pháp luật của
Nhà nước. Đặc biệt, từ khi Quốc hội ban hành Luật Giáo dục và Chính phủ
thông qua Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010, công cuộc cải
cách giáo dục mới thực sự đi vào cuộc sống với nhiều giải pháp đồng bộ và cụ
thể. Quá trình cải cách giáo dục ở Việt Nam bắt nguồn từ yêu cầu của quá
trình đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập mở cửa,
phát triển kinh tế tri thức.
Hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng phát triển cả chiều rộng và
chiều sâu, trong khi năng lực cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp còn ở
mức rất thấp. Đó là những khó khăn, thách thức lớn nhất của Việt Nam. Hội
nhập sẽ tạo điều kiện để Việt Nam thâm nhập vào thị trường quốc tế, ngược
lại Việt Nam cũng sẽ mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư và hàng hóa nước
ngoài. Tác động này cùng với việc xóa bỏ các chính sách chế độ phân biệt đối
xử buộc nền kinh tế của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam
phải đứng trước một áp lực cạnh tranh lớn. Việc vượt qua được áp lực cạnh
tranh đó, tuỳ thuộc phần lớn vào khả năng đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế
quản lý và chất lượng nguồn lao động của quốc gia. Nếu những khả năng này
không được chú ý và biến chúng thành hiện thực thì trong cuộc cạnh tranh
Việt Nam không những bị yếu thế trên thị trường quốc tế mà ngay trên thị
trường nội địa khi nền kinh tế hội nhập mở cửa. Trong xu thế hội nhập kinh tế
ngày càng sâu rộng, với một nền kinh tế tri thức đã và đang tác động nhiều



11

đến toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đó là hai yếu tố
chính đặt ra những yêu cầu mới cho công cuộc cải cách nền giáo dục ở Việt
Nam.
Sự phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo một mặt bị tác động, chi
phối và một mặt khác cũng góp phần thúc đẩy các xu hướng phát triển chung
của đời sống xã hội hiện đại, thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ tương tác giữa giáo dục đào tạo với các thành tố
trong xã hội


- Về phát triển kinh tế: Phát triển kinh tế đặc biệt là phát triển nền kinh
tế tri thức đòi hỏi một đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Ngược lại, quá trình
phát triển kinh tế tạo ra các nguồn lực mới để mở rộng mạng lưới và hiện đại
hoá giáo dục đào tạo.
- Về văn hoá và các giá trị văn hoá: Nền tảng văn hoá tạo cơ sở cho
việc tổ chức các hoạt động giáo dục và ngược lại hoạt động giáo dục có tác
động to lớn trong quá trình phát triển văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc, hội
nhập và giao lưu quốc tế.
- Về khoa học công nghệ: Các kết quả và công trình nghiên cứu của
các cơ sở giáo dục - đào tạo góp phần tích cực thúc đẩy tiến bộ khoa học công
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO




Công nghệ

hàng hóa
Tài chính -
tiền tệ
Thông tin,
tri thức

Văn hóa

Nhân lực
KH-CN





12

nghệ và ngược lại tiến bộ khoa học công nghệ tác động trở lại trong việc đổi
mới và hiện đại hoá mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, tăng cường
năng lực đào tạo, nghiên cứu của các cơ sở giáo dục đào tạo nói chung.
- Xu hướng toàn cầu hoá: Trong quá trình toàn cầu hoá, giáo dục đào
tạo là một dịch vụ mang tính toàn cầu thông qua các hoạt động trao đổi, hợp
tác đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đào tạo trong và ngoài nước. Toàn cầu
hoá tạo ra nhiều cơ hội cho giáo dục đào tạo Việt Nam gia nhập sân chơi quốc
tế đồng thời cũng có nhiều thách thức như chất lượng, khả năng cạnh tranh.
Phát triển nhảy vọt và mạnh mẽ của khoa học công nghệ, phát triển
kinh tế tri thức trên toàn cầu tạo ra nhu cầu, cơ hội và điều kiện để phát triển
giáo dục đào tạo cả về quy mô và chất lượng. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
tạo điều kiện tăng cường hợp tác để học tập, chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao
và tiếp nhận công nghệ đào tạo tiên tiến. Sự phát triển nhanh của công nghệ

thông tin và truyền thông tạo điều kiện rất thuận lợi để tìm kiếm, trao đổi, xử
lý thông tin phục vụ dạy, học, nghiên cứu. Bối cảnh quốc tế đòi hỏi các quốc
gia đang phát triển phải sớm đại chúng hóa, kinh tế hóa, hiện đại hóa và quốc
tế hóa giáo dục đào tạo.
Nhận thức sâu sắc về tác động to lớn của giáo dục - đào tạo đối với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thấy rõ những yêu cầu mới đặt ra đối với
giáo dục trong điều kiện nền kinh tế tri thức đã và đang tác động nhiều chiều
ở tất cả các nền kinh tế hội nhập, mở cửa, trong đó có nền kinh tế Việt Nam,
ngay sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng và Chính phủ đã
đặc biệt quan tâm đến nền giáo dục- đào tạo của nước nhà.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 khoá VII năm 1993
đã ra nghị quyết về "tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo" với bốn
quan điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều
kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo
vệ đất nước, phải coi đầu tư cho giáo dục là hướng chính của đầu tư phát
triển.


13

Thứ hai, mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học,
có kỹ năng nghề nghiệp Mở rộng quy mô đào tạo, đồng thời chú trọng nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.
Thứ ba, GD-ĐT phải gắn với yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp
với xu thế tiến bộ của thời đại.
Thứ tư, đa dạng hoá các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục.
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của

Đảng (4/2001), đã chỉ rõ "phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều
kiện phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [17, tr.108]. Lần đầu tiên, vấn đề phát
triển giáo dục – đào tạo được coi là nội dung của phát triển kinh tế và được
đặt trong đường lối kinh tế và chiến lược phát triển - tức là thuộc phạm trù
phát triển kinh tế.
Đây là quan điểm và định hướng rất mới của Đảng ta về giáo dục -
đào tạo. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Bởi vì, nội dung và bản chất của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong phát triển kinh tế không chỉ là mở rộng quy mô nền kinh tế,
mà quan trọng hơn là nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế, nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh
tế quốc tế. Những tư tưởng, quan điểm định hướng của Đảng, Nhà nước về
giáo dục - đào tạo nêu trên là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chỉ đạo, điều
hành các hoạt động liên quan đến dạy và học của nhà trường. Các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp có vị trí rất quan trọng của xã hội, là
nơi đào tạo nguồn nhân lực có tri thức và sẽ làm việc bằng tri thức. Lực lượng
lao động này không những thực thi công việc một cách chủ động, sáng tạo,
mà còn có khả năng hoạch định các chính sách quản lý các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân. Đảng ta đã khẳng định nguồn lực con người là nguồn lực


14

phát triển lớn nhất ở nước ta hiện nay và muốn đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì phải xem "giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu". Phải ưu tiên đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo để ngành
này đi trước một bước so với mức độ phát triển kinh tế - xã hội hiện có, để có
thể đóng vai trò là cơ sở và động lực chủ yếu, hàng đầu đối với sự phát triển

của đất nước. Đó là vấn đề thời cơ, thách thức đối với Giáo dục - Đào tạo
Việt Nam xuất phát chính từ yêu cầu bên trong của nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội nước ta - môi trường kinh tế - xã hội của giáo dục.
1.1.2. Những đổi mới quản lý tài chính trong tổng thể đổi mới của ngành
giáo dục - đào tạo và hệ thống văn bản pháp qui về quản lý tài chính trong
các trường đại học, cao đẳng.
Cải cách tài chính là một trong những nội dung quan trọng trong
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010 được Chính phủ phê duyệt
tháng 12/2001 với những định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp cụ thể để
phát triển kinh tế – xã hội và giáo dục ngay trong những năm đầu của thế kỷ
XXI. Nhà nước đã rất nỗ lực và không ngừng đổi mới cơ chế quản lý tài chính
nhằm liên tục nâng cao mức độ hoàn thiện của nó nhằm tạo ra những tiền đề
thuận lợi cho công cuộc cải cách tài chính ở qui mô rộng và chất lượng cao,
sau khi kết thúc thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI này.
Sau nhiều năm nghiên cứu đánh giá thực trạng về xây dựng thể chế trong
quản lý tài chính; kết hợp với những bài học kinh nghiệm của các nước trong
lĩnh vực quản lý tài chính, Nhà nước ta đã quyết định nâng tầm pháp lý của hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật dành cho quản lý tài chính ngày một cao
hơn. Một trong những văn bản quy phạm pháp luật quan trọng hàng đầu đó là
Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 20-3-1996 và có hiệu lực thực thi từ năm ngân sách 1997. Kể từ đó, công
tác quản lý điều hành ngân sách phải tuân thủ nghiêm minh theo luật này.
Sự vận động và phát triển nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội và chủ
trương đẩy mạnh cải cách thể chế trong quản lý kinh tế của Nhà nước đã làm


15

cho Luật Ngân sách Nhà nước do Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 20/3/1996 sớm bộc lộ những bất hợp lý, cần sửa đổi, bổ sung.

Tại kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa X thảo luận những điểm cần phải
sửa đổi, bổ sung trong quản lý tài chính công và đi đến nhất trí thông qua Luật
Ngân sách Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của điều luật Ngân sách
Nhà nước vào ngày 20-8-1998, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 1999.
Luật sửa đổi bổ sung của một số điều của Luật Ngân sách Nhà nước năm
1998 tập trung vào một số vấn đề: 1) phân định rõ nguồn thu và cơ cấu nguồn
thu cho cả 4 cấp ngân sách từ Trung ương đến cấp xã nhằm khuyến khích
chính quyền các cấp tích cực trong quản lý, khai thác nguồn thu; 2) quy định
rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý và
phân bổ dự toán Ngân sách Nhà nước; 3) quy định rõ cách thức xử lý để cân
đối thu - chi Ngân sách Nhà nước trong quá trình chấp hành.
Chính nhờ những sửa đổi, bổ sung kịp thời như trên đã làm cho hoạt
động của ngân sách Nhà nước đã đạt được những kết quả tốt hơn, đóng góp
tích cực vào tiến trình cải cách quản lý tài chính công kể từ năm ngân sách
1999.
Thuộc phạm vi thẩm quyền trong việc ban hành các văn bản pháp luật về
đổi mới quản lý tài chính công, Chính phủ đã ban hành văn bản quan trọng đó
là Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp
dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
Nghị định 10 đã tạo ra một bước đột phá mạnh mẽ theo hướng khuyến
khích nâng cao tính tự chủ quản lý tài chính tại các đơn vị thụ hưởng Ngân
sách Nhà nước.
Tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa XI, vấn đề tiếp tục đổi mới thể
chế trong quản lý tài chính công lại được đưa ra bàn luận. Đa số các đại biểu
quốc hội đều nhất trí phải tiếp tục đổi mới thể chế trong quản lý tài chính
công hơn nữa. Kết quả, một văn bản pháp luật quan trọng về quản lý tài chính
đã được thông qua; đó chính là Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11


16


của Quốc hội khóa XI ngày 16/12/2002. Những thay đổi quan trọng nhất của
Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi là: 1) tăng cường phân cấp nhiều hơn cho
chính quyền địa phương trong quản lý Ngân sách Nhà nước; 2) thể chế hóa
yêu cầu lập ngân sách trung hạn và lập, phân bổ ngân sách theo kết quả đầu
ra; 3) thể chế hóa quyền tự chủ của các đơn vị hành chính sự nghiệp trong
quản lý và sử dụng kinh phí; 4) thể chế hóa yêu cầu kiểm soát đầu ra (hay
hậu kiểm) đối với các cơ quan quyền lực nhà nước và kiểm toán Nhà nước.
Để tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan
hành chính Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp hơn nữa đáp ứng với Luật
Ngân sách Nhà nước sửa đổi Chính phủ ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-
CP ngày 25/4/2006 qui định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập và Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính
phủ.
Trên đây là những văn bản qui phạm pháp luật quan trọng trong cải cách
thể chế tài chính. Các văn bản này đã thiết lập được một môi trường pháp lý đầy
đủ, thông thoáng cho tiến trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập nhằm từng bước vững chắc tiến tới mô hình quản lý tài
chính hiện đại.

1.1.3. Vai trò của quản lý tài chính trong nhà trường
Quản lý tài chính có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến tất cả mọi
hoạt động của nhà trường, cơ sở thực hiện nhiệm vụ đào tạo. Thực tế hoạt
động quản lý ở các nhà trường cho thấy hầu hết các quyết định quản lý đều
được đưa ra dựa trên kết quả khảo sát nghiên cứu, phân tích và dự báo về tình
hình hoạt động, mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo, tình hình tài chính hiện tại và
tương lai, trong đó những đánh giá về mặt tài chính là hết sức cần thiết.
1.1.4. Hoạt động tài chính của nhà trường

Mặc dù có nhiều loại hình trường như: trường công lập, trường bán


17

công, trường dân lập, trường tư thục và trường có vốn đầu tư nước ngoài với
những hình thức pháp lý và bộ máy tổ chức khác nhau, có những đặc điểm
riêng về hoạt động, đối tượng đào tạo, tài chính… nhưng nội dung các hoạt
động tài chính, mục tiêu và chức năng của quản lý tài chính trong các nhà
trường thì giống nhau.
Hoạt động tài chính của nhà trường khá phức tạp và thể hiện thông qua
nhiều quan hệ kinh tế giữa nhà trường với các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Tuy nhiên có thể xếp chúng thành 3 nhóm cơ bản: Quan hệ tài chính giữa nhà
trường với nhà nước, quan hệ tài chính giữa nhà trường với thị trường và quan
hệ tài chính trong nội bộ nhà trường.
- Quan hệ tài chính giữa nhà trường với nhà nước được thể hiện qua
việc nhà trường thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình đối với nhà nước
như nộp các khoản thuế và lệ phí (đối với các trường có tổ chức dịch vụ và
sản xuất kinh doanh) Ngoài ra, riêng đối với các trường công lập được nhà
nước cấp ngân sách để hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ được giao.
- Quan hệ tài chính giữa trường với các chủ thể kinh tế khác trên thị
trường như: quan hệ thanh toán trong mua bán tài sản, vật tư, hàng hóa, dịch
vụ; quan hệ với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trong huy động vốn
và cho vay, đầu tư vốn, tài sản; quan hệ với các tổ chức bảo hiểm trong tham
gia bảo hiểm và nhận tiền bồi thường bảo hiểm v.v…
- Quan hệ tài chính trong nội bộ nhà trường được thể hiện thông qua
các hoạt động thanh toán tiền lương, tiền công và thực hiện các khoản tiền
thưởng, phạt với cán bộ công nhân viên của trường; phân phối và sử dụng các
quỹ của trường, hoạt động chi trả học bổng và các khoản trợ cấp cho học sinh,
sinh viên….

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Khái niệm quản lý được định nghĩa khác nhau dựa trên cơ sở những
cách tiếp cận khác nhau.


18

Xét ở góc độ chung nhất quản lý là vạch ra mục tiêu cho một bộ máy, lựa
chọn phương tiện, điều kiện tác động tác động đến bộ máy để đạt tới mục tiêu.
Từ góc độ kinh tế: Quản lý là tính toán sử dụng hợp lý các nguồn lực
nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
Hoạt động quản lý là sự tác động có ý thức, hợp quy luật của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Quản lý là sự tác động có tổ chức có định hướng của chủ thể quản lý, lên
đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được những mục tiêu đề ra trong
điều kiện biến động của môi trường .
Có tác giả lại quan niệm: Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa
có tính nghệ thuật vào hệ thống con người nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã
hội.
Theo cách tiếp cận từ những mô hình: Quản lý = Quản + lý.
Quản là: Coi sóc, giữ gìn, duy trì, ổn định. Lý là: sửa sang, sắp xếp, đổi mới, phát
triển.Vì vậy: Quản lý thực chất là tạo nên sự ổn định và phát triển. ổn định mà
không phát triển thì dẫn đến trì trệ, suy thoái. Hệ phát triển mà thiếu ổn định thì dẫn
đến sự lộn xộn, rối ren Nên: Quản lý = ổn định + phát triển. Trong bất kỳ một
hệ thống hoạt động nào, trong "quản" phải có "lý", đồng thời trong "lý" phải có
"quản"; "ổn định" đi tới "phát triển"; "phát triển" trong thế "ổn định" [2, tr. 53].
"Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động,
phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, tài

lực, vật lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm
đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất " [19, tr. 15].
Những định nghĩa đã nêu trên khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều có
điểm chung như sau: Quản lý là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình,
hoạt động xã hội loài người. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm
cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển. Hoạt động quản lý được
thực hiện với một tổ chức hay một nhóm xã hội .Yếu tố con người, trong đó
chủ yếu bao gồm người quản lý và người bị quản lý, họ giữ vai trò trung tâm
trong hoạt động quản lý. Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có
mục đích của người quản lý (chủ thể quản lý ) đến người bị quản lý (khách


19

thể quản lý ) nhằm đạt mục tiêu chung. Bản chất quản lý được thể hiện ở sơ
đồ dưới đây:






Sơ đồ 1.2. Mô hình về quản lý




M

C Quản K



N P


Trong đó:
- M: mục tiêu của quản lý
- N: Nội dung của quản lý
- P: Phương pháp quản lý
- C: Chủ thể quản lý
- K: Khách tể quản lý
Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức.
Khách thể quản lý là những con người cụ thể và sự hình thành tự nhiên các
mối quan hệ giữa những con người, giữa những nhóm người. Công cụ quản lý
là những tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý . Phương pháp
Quản



20

quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý. Mục
tiêu của tổ chức được xác định theo nhiều cách khác nhau, nó có thể do chủ
thể quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể và khách thể quản lý. Bất
cứ một tổ chức nào dù tồn tại dưới hình thức nào, với mục đích gì, cơ cấu,
quy mô ra sao đều cần có sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt
động và đạt được mục đích của mình.
Hiện nay, quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là một quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức
năng): kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.

Như vậy, có thể khái quát: Quản lý là tác động chỉ huy, điều khiển, hướng
dẫn các qúa trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới
mục đích đề ra. Sự tác động của quản lý bằng cách nào đó để người bị quản
lý luôn tự giác, phấn khởi đem hết năng lực trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho
bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội. Quản lý là một môn khoa học kết hợp
nhiều môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn. Nó còn là một "
nghệ thuật " đòi hỏi sự khôn khéo linh hoạt và tinh tế cao để đạt tới mục đích
đã định .
* Biện pháp quản lý
 Khái niệm biện pháp: Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một
công việc cụ thể [16, tr. 30].
 Khái niệm biện pháp quản lý : Cũng như khái niệm quản lý, hiện nay
có rất nhiều định nghĩa khác nhau về biện pháp quản lý. Có thể hiểu: Biện
pháp quản lý là khả năng hiểu tâm lý của đối tượng quản lý. Theo
F.W.Taylor:" Biện pháp quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động cuả con người để chúng phát triển hợp với
quy luật, đạt được mục đích đã đề ra và đúng ý trí của người quản lý ".
Khi tìm hiểu về biện pháp quản lý cũng cần phải xem xét khái niệm
"Phương pháp quản lý". Phương pháp quản lý là tổng thể các cách thức tác
động có thể có và có chủ định của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và
khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu đặt ra. Như vậy, phương pháp quản lý là
khái niệm rộng hơn khái niệm biện pháp quản lý. Phương pháp quản lý có vai


21

trò quan trọng trong hệ thống quản lý, biện pháp quản lý là cần thiết trong quá
trình quản lý. Quá trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý
theo đúng các nguyên tắc đã được xác định, các nguyên tắc đó lại được vận
dụng và được thực hiện thông qua các phương pháp quản lý nhất định và các

biện pháp quản lý phù hợp. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý cũng
như áp dụng các biện pháp quản lý là nội dung cơ bản của quản lý .
Tóm lại: Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về biện pháp quản
lý; trong phạm vi của đề tài, chúng tôi xác định khái niệm biện pháp quản lý
là cách làm, cách giải quyết những công việc cụ thể trong từng điều kiện cụ
thể của công tác quản lý nhằm đạt đựợc mục tiêu quản lý. Hay nói cách khác,
biện pháp quản lý là những phương pháp quản lý cụ thể trong những sự việc
cụ thể, đối tượng cụ thể và tình huống cụ thể.
1.2.2. Quản lý giáo dục
1.2.2.1 Khái niệm Quản lý giáo dục.
Khái niệm" Quản lý giáo dục "cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
“Quản lý giáo dục trên cơ sở quản lý nhà trường là một phương hướng cải
tiến quản lý giáo dục nhằm mục đích tăng cường phân cấp quản lý nhà trường
cho các chủ thể quản lý bên trong nhà trường với những quyền hạn và trách
nhiệm rộng rãi hơn để thực hiện nguyên tắc giải quyết vấn đề tại chỗ” [12, tr.
71].
Tác giả Nguyễn Sinh Huy- Nguyễn Hữu Dũng cho rằng quản lý giáo
dục là tác động một cách có mục đích và có kế hoạch vào toàn bộ các lực
lượng giáo dục nhằm tổ chức và phối hợp các hoạt động cuả tất cả các lực
lượng này, nhằm sử dụng một cách đúng đắn đến các nguồn lực và phương
tiện, đảm bảo thực hiện có kết quả những chỉ tiêu phát triển về số lượng và
chất lượng của sự nghiệp giáo dục theo phương hướng của mục tiêu giáo dục,
[19, tr. 289].
"Sự thực khái niệm quản lý giáo dục có nhiều cấp độ, ít nhất có hai cấp độ
chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Đối với cấp vĩ mô: quản lý giáo dục được
hiểu là những tác động tự giác (Có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ
thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống
(từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất



22

lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội
đặt ra cho ngành giáo dục. Đối với cấp vi mô: quản lý giáo dục được hiểu là
hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ
thống, hợp quy luật ) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân
viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng trong xã hội và ngoài
nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và có hiệu quả mục tiêu giáo dục
của nhà trường" [20, tr. 36].
Quản lý giáo dục được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý đến các
khách thể quản lý trong lĩnh vực giáo dục. Nói một cách đầy đủ hơn, quản lý
giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật
của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo
dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành,
phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu
phát triển xã hội. Quản lý giáo dục chịu sự chi phối của các quy luật xã hội,
tác động của quản lý xã hội.
1.2.2.2 Bản chất của quản lý giáo dục
- Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý.
Đây là đặc điểm cơ bản, đầu tiên của quản lý đã được đề cập sơ bộ ở
trên. Nếu chủ thể quản lý không có thì việc quản lý đặt ra là vô nghĩa. Quản lý
giáo dục là quản lý việc đào tạo con người, việc hình thành và hoàn thiện
nhân cách, việc tái sản xuất nguồn lực người. Đối tượng bị quản lý ở đây là
nhữngai thực hiện hoặc nhận sự giáo dục và đào tạo. Vì không có gì phức tạp
bằng con người cho nên có thể nói quản lý giáo dục, quản lý việc giáo dục và
đào tạo con người là loại quản lý khó khăn nhất, phức tạp nhất, nó đòi hỏi chủ
thể quản lý phải có những năng lực, phẩm chất tương xứng với công việc.
- Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối
liên hệ ngược.

Quản lý được diễn ra nhờ các tín hiệu của mình, đó là thông tin. Chủ
thể quản lý muốn tác động lên đối tượng thì phải đưa ra các thông tin (mẹnh


23

lệnh, chỉ thị,nghị quyết, quyết định ) đó chính là thông tin điều khiển. Còn
đối tượng muốn định hướng hoạt động của mình thì phải tiếp nhận các thông
tin điều khiển của cấp trên (chủ thể) cùng các đảm bảo vật chất khác để tính
toán và điều khiển lấy mình.
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi (luôn biến đổi).
Khi đối tượng quản lý mở rộng về qui mô, phức tạp về các mối quan hệ
thì không phải chủ thể quản lý chịu bó tay, mà nó vẫn có thể tiếp tục quản lý
có hiệu quả nếu nó đổi mới quá trình quản lý thông qua việc cấu trúc lại hệ
thống và việc uỷ quyền quản lý cho các cấp trung gian.
Trường hợp ngược lại, khi chủ thể quản lý trở lên xơ cứng, quan liêu,
đưa ra những tác động quản lý độc đoán, lỗi thời, phi lý thì không phải tất cả
các đối tượng bị quản lý đều chịu bó tay, mà họ vẫn có thể thích nghi tồn tại
theo hai cách:
- Họ phải tồn tại tương ứng với các tác động quản lý của chủ thể
- Họ biến đổi cấu trúc của bản thân để thích nghi với các mệnh lệnh
quản lý phi lý của chủ thể.
- Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật.
Nói quản lý là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu riêng là các
mối quan hệ quản lý, có phương pháp luận nghiên cứu riêng, có những
phương pháp cụ thể được sử dụng để nghiên cứu như các phương pháp phân
tích, toán kinh tế, xã hội học, lịch sử Quản lý đồng thời còn là một nghệ
thuật ví nó còn tuỳ thuộc một phần vào tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ,
bề dày kinh nghiệm của người lãnh đạo của tổ chức. Quản lý còn là một nghề
với nghĩa các nhà lãnh đạo, tổ chức phải có tri thức quản lý.

- Quản lý gắn với quyền lực và danh tiếng.
Người lãnh đạo có ưu thế quan trọng trong tổ chức, họ có khả năng
điều khiển người khác và chi phối các nguồn lực và tài sản của tổ chức đồng
thời dễ để lại danh tiếng cho người khác và cộng đồng nếu họ lãnh đạo tổ
chức của mình phát triển và đạt được mục tiêu của tổ chức.


24

1.2.3. Quản lý nhà trường
Quản lý giáo dục trong phạm vi một đơn vị, một cơ sở giáo dục. Giáo
dục là bộ phận kinh tế- xã hội, hệ thống giáo dục, mạng lưới nhà trường là
kết cấu hạ tầng xã hội. Do vậy quản lý giáo dục là quản lý một loạt quá trình
kinh tế -xã hội nhằm thực hiện đồng bộ, hài hoà phân hoá xã hội để tái sản
xuất sức lao động có kỹ thuật phục vụ các yêu cầu cầu kinh tế -xã hội. Quản
lý nhà trường, quản lý giáo dục vấn đề cốt lõi là tổ chức hoạt động dạy học.
Tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà
trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới góp phần quản lý được giáo dục.
Tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành
hiện thực, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, của đất nước.
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại: 1) tác động của những chủ thể
quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường; 2) tác động của những chủ thể quản
lý bên trong nhà trường.
Quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý
giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy,
học tập, giáo dục của nhà trường.
Quản lý nhà trường cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của
những thực thể bên ngoài nhà trương nhưng có liên quan trực tiếp đến nhà
trường như cộng đồng được đại điện dưới hình thức Hội đồng giáo dục nhằm
định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực

hiện phương hướng phát triển đó.
Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao gồm
các hoạt động: Quản lý giáo viên,quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học
– giáo dục, quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị trường học, quản lý tài chính
trường học, quản lý lớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý mối quan hệ
giữa nhà trường và cộng đồng.
Một cách khái quát, quản lý giáo dục (và nói riêng quản lý trường học)
là quá trình hoạt động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể

×