Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Biện pháp cải tiến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Công đoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 104 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





LÊ THỊ PHƯƠNG THẢO





Biện pháp cải tiến quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học của giảng viên trường Đại học Công đoàn





luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC









Hµ néi - 2008





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





LÊ THỊ PHƯƠNG THẢO






Biện pháp cải tiến quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học của giảng viên trường Đại học Công đoàn


Mã số : 60 14 05



luËn v¨n th¹c sÜ GIÁO DỤC HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Bá Lãm


Hµ néi - 2008





MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
2
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2
5. Phương pháp nghiên cứu
2
6. Phạm vi nghiên cứu
2

7. Giả thuyết khoa học
3
8. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3
9. Cấu trúc luận văn
3
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học ở trường Đại học
4
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
4
1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
4
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
4
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
6
1.2.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học
6
1.2.2. Quản lý
13
1.2.3. Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
19
1.2.4. Hiệu quả và hiệu quả quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
21
1.2.5. Giảng viên
24
1.3. Cơ sở lí luận về xây dựng biện pháp quản lý để nâng cao hiệu quả
hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường Đại học Công đoàn
25

1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động nghiên
cứu khoa học của giảng viên
25
1.3.2. Xu hướng xây dựng các biện pháp quản lý hiện nay
26


Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên trường Đại học Công đoàn
27
2.1. Giới thiệu sơ lược về Trường Đại học Công đoàn
27
2.1.1. Bối cảnh ra đời và một số thành tựu nổi bật
27
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Trường Đại học Công đoàn
27
2.1.3. Biên chế, tổ chức
29
2.1.4. Những thành tích chủ yếu
32
2.1.5. Những thiếu sót
33
2.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học ở Trường Đại học Công đoàn
33
2.2.1. Chỉ đạo của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động VN
33
2.2.2. Chủ trương của nhà trường về công tác nghiên cứu khoa học
33
2.2.3. Nguồn lực hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường
35

2.3. Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
Trường Đại học Công Đoàn
36
2.3.1. Nội dung quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường
36
2.3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
39
2.3.3. Đánh giá việc thực hiện các biện pháp quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Công Đoàn hiện nay
44
2.3.4. Kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường
Đại học Công Đoàn trong thời gian qua
47
2.3.5. Một số nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả
hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Công Đoàn
49
Chương3: Biện pháp cải tiến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học của giảng viên Trường Đại học Công đoàn
56
3.1. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống biện pháp quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học ở Trường Đại học Công đoàn
56
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực và khả thi
56
3.1.2. Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích
57


3.1.3. Nguyên tắc chuyên môn hóa
57

3.1.4. Nguyên tắc sử dụng phối hợp toàn diện các phương pháp quản lý
một cách hệ thống, toàn diện, cân đối
57
3.2. Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động nghiên cứu khoa học ở Trường Đại học Công đoàn
58
3.2.1. Biện pháp 1: Quản lý chặt chẽ các nguồn lực nghiên cứu khoa học
58
3.2.2. Biện pháp 2: Tổ chức lại bộ máy quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học một cách hợp lý, hiệu quả
64
3.2.3. Biện pháp 3: Đa dạng hoá các hình thức sinh hoạt khoa học
66
3.2.4. Biện pháp 4: : Quản lý chặt chẽ hoạt động đối ngoại trong nghiên
cứu khoa học.
67
3.2.5. Biện pháp 5: Tin học hóa công tác quản lý nghiên cứu khoa học
69
3.2.6. Biện pháp 6: Phối hợp chặt chẽ giữa Ban giám hiệu, các bộ phận và
các tổ chức trong Nhà trường về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
72
3.2.7. Biện pháp 7: Xây dựng cơ chế khen thưởng, kỷ luật hợp lý trong
hoạt động nghiên cứu khoa học
73
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp
74
3.4. Thăm dò tính hiệu quả và tính khả thi của các biện pháp
76
3.4.1. Quá trình thăm dò
76

3.4.2. Kết quả thăm dò
77
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
80
82
PHỤ LỤC



1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của giảng
viên và sinh viên các trường đại học nói chung và Trường Đại học Công đoàn
nói riêng. Chức năng của trường đại học đòi hỏi mỗi trường đại học là một cơ
sở nghiên cứu khoa học, bởi vậy công tác nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ
chính trị của mỗi giảng viên và sinh viên trong nhà trường. Cần có sự sắp xếp,
phân công hợp lý, kết hợp chặt chẽ để phát huy tối đa lực lượng khoa học và
công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học
trong cả nước.
Trường Đại học Công đoàn là trường đại học đa ngành, đa cấp, là trung
tâm đào tạo cán bộ đồng thời là trung tâm nghiên cứu lý luận về phong trào
công nhân, công đoàn của hệ thống Công đoàn trong cả nước nên nhà trường
luôn chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học.
Trong 10 năm gần đây, công tác nghiên cứu khoa học ở Trường Đại học
Công đoàn đã được chú trọng. Cán bộ, giảng viên Nhà trường đã chủ trì hoặc
tham gia nghiên cứu các đề tài cấp nhà nước, cấp bộ và cấp cơ sở. Công tác
nghiên cứu khoa học trong sinh viên cũng có sự khởi sắc. Một số đề tài

nghiên cứu của sinh viên đã được giải thưởng trong các cuộc thi “Sinh viên
nghiên cứu khoa học” và giải thưởng “Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam -
VIFOTEX” do Bộ Giáo dục & Đào tạo và Hội Khoa học - kỹ thuật Việt Nam
tổ chức.
Tuy vậy, việc nghiên cứu khoa học ở một số không nhỏ cán bộ, giảng
viên, sinh viên còn là mới mẻ. Nhận thức về vai trò của công tác nghiên cứu
khoa học chưa thật đúng và toàn diện, phương pháp nghiên cứu của một số
giảng viên, nhất là giảng viên trẻ còn lúng túng. Chất lượng của một số đề tài
còn hạn chế do người nghiên cứu chưa có phương pháp hoặc thiếu nhiệt tình.
Trong công tác tổ chức quản lý nghiên cứu khoa học chưa có sự phối hợp


2
đồng bộ giữa các bộ phận chức năng trong trường, quy mô và chất lượng
nghiên cứu khoa học chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nhà trường và
xã hội, sự phối hợp nghiên cứu liên ngành còn gặp nhiều khó khăn… Việc
hợp tác nghiên cứu với các cơ quan khoa học trong và ngoài nước tuy đã có
nhưng chưa được mở rộng và có hiệu quả thiết thực.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp bách là cần hoàn thiện công tác quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học ở Trường Đại học Công đoàn. Với những lý
do đó, chúng tôi chọn đề tài: "Biện pháp cải tiến quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Công đoàn”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất biện pháp cải tiến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên Trường Đại học Công đoàn nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
nghiên cứu khoa học của nhà trường.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học ở trường đại học.
Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng

viên Trường Đại học Công đoàn.
Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
và tiến hành khảo sát tính hiệu quả, tính khả thi ở Trường Đại học Công đoàn.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể: Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại
học Công đoàn.
Đối tượng: Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
Trường Đại học Công đoàn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tổng hợp tư liệu
Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp chuyên gia.


3
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến biện pháp
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học hàng năm của giảng viên (2001 -
2006) mà không đề cập đến những nội dung khác của hoạt động khoa học
và công nghệ như các hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt
động chuyển giao công nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học của những
người đi học nâng cao trình độ ở những cơ sở khác (học cao học, làm
nghiên cứu sinh ) hay việc tham gia nghiên cứu khoa học của các đối
tượng khác như sinh viên, cán bộ quản lý, viên chức trong nhà trường
cũng nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của đề tài.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được và thực hiện các biện pháp cải tiến quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên thì công tác nghiên cứu
khoa học của giảng viên Trường Đại học Công đoàn sẽ đi vào nề nếp, ổn
định và phát triển.

8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Tổng kết công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của trường
Đại học Công đoàn từ năm 2001 đến nay, chỉ rõ những ưu điểm và nhược
điểm của công tác đó.
Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm cơ sở khoa học để cải
tiến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên tại trường Đại học
Công đoàn và các trường đại học có hoàn cảnh tương tự.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học ở trường đại học
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên Trường Đại học Công đoàn


4
Chương 3: Biện pháp cải tiến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
của giảng viên Trường Đại học Công đoàn


5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Tuy tác giả đề tài chưa nghiên cứu được một cách hệ thống vấn đề
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, nhưng cũng có tham khảo tài liệu
về các phạm trù, các vấn đề liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học
như về quản lý, quản lý giáo dục, phương pháp luận nghiên cứu khoa học

sau đây là một số tài liệu chúng tôi đã nghiên cứu và vận dụng:
“Quản lý công tác nghiên cứu khoa học” của tác giả K.Bexle, E.deisen,
Xlasinxki do Nguyễn Văn Lâm dịch từ bản tiếng Nga [17]. Dù tài liệu đã cũ
nhưng nội dung có nhiều vấn đề vẫn còn giá trị. Chẳng hạn có tác giả đề cao
vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học trong sự phát triển của xã hội và
chỉ ra những điểm đặc thù của công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học so với quản lý các lĩnh vực khác. Trong đó, đáng lưu ý việc cần xây dựng
chính sách ưu tiên đặc biệt về điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ thoả đáng
để động viên các nhà khoa học toàn tâm, toàn ý cho việc nghiên cứu.
“How to Study Science”, Drewes F - 2
nd
- Dubuque: Wm.C.Brown
Publisher, 2000 là tài liệu thích hợp cho sinh viên và những người bước đầu
tập sự nghiên cứu khoa học. Đó là những chỉ dẫn cơ bản bước đầu về phương
pháp luận nghiên cứu khoa học.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Từ việc nhận thức đúng đắn về vai trò quyết định của công tác quản lý đối
với hoạt động nghiên cứu khoa học và những khó khăn vướng mắc trong quá
trình hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học và cao đẳng, các nhà
khoa học đã có những nghiên cứu với nhiều góc độ, ở nhiều khía cạnh và cấp độ
khác nhau.


6
Trước năm 1990, Viện Nghiên cứu đại học và giáo dục chuyên nghiệp có
đề tài:’’Tổ chức và quản lý nghiên cứu triển khai trong các trường đại học
phục vụ sản xuất, đời sống và quốc phòng” do Lê Thạc Cán chủ nhiệm,
chương trình cấp Nhà nước, mã số 60A.
Năm 1991, Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục hoàn thành đề tài:
“Nghiên cứu những biện pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động

khoa học và công nghệ và lao động sản xuất trong nhà trường’’, mã số B91-
38-14 do Vũ Tiến Trinh làm chủ nhiệm.
Các đề tài trên đã đóng góp những lí luận và giải pháp của công tác quản
lý hoạt động khoa học và công nghệ của ngành Giáo dục - Đào tạo, gắn với
đặc điểm tình hình trong gia đoạn đó.
Năm 1998, Ninh Đức Nhận hoàn thành luận văn thạc sĩ “Một số giải
pháp đổi mới công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ ở trường
đại học trong giai đoạn mới”. Đề tài đã đề ra một số giải pháp đổi mới công
tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ ở hệ thống các trường đại học
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý hoạt động khoa học và công
nghệ cho các trường đại học.
Nguyễn Thị Kim Chung bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ chuyên
ngành quản lý giáo dục với đề tài: “Một số biện pháp quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học giáo dục của Trường Cao đẳng Sư phạm Hưng Yên’’.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng kết quả
của hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường Cao đẳng Sư phạm Hưng Yên,
tác giả đã đưa ra 7 biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả cho
nghiên cứu khoa học giáo dục của nhà trường.
Tạp chí Giáo dục gần đây có nhiều nhà khoa học và nhà quản lý giáo dục
đăng những công trình nghiên cứu và bài viết về hoạt động nghiên cứu khoa
học ở giáo dục đại học như:
- “Nghiên cứu khoa học góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo đại học” của Đỗ Thị Châu (Đại học Quốc gia). Số 96/9 - 2004.


7
- “Logic nội dung và các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài khoa học về giải
pháp quản lý giáo dục” của Nguyễn Phúc Châu (Học viện Cán bộ quản lý
giáo dục - Đào tạo Trung ương) số 143, kì 1 tháng 8/2006
Nhìn chung, các tác giả đã đóng góp lý luận và hướng giải quyết nhiều

vấn đề thực tiễn trong công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các
trường đại học và cao đẳng. Các tác giả đều đề cao ý nghĩa, vai trò của nghiên
cứu khoa học đối với việc nâng cao chất lượng dạy học,, đào tạo trong các
nhà trường. Tuy nhiên, mỗi công trình hoặc chỉ giải quyết một vài vấn đề
riêng lẻ, hoặc chỉ có giá trị gắn với một nhà trường trong một giai đoạn lịch
sử ngắn với những hoàn cảnh chính trị, kinh tế xã hội nhất định.
Bối cảnh kinh tế xã hội gần đây có nhiều biến đổi nhanh chóng. Giáo dục
nói chung, công tác quản lý giáo dục nói riêng đang đứng trước những yêu
cầu mới cao hơn. Điều đó đòi hỏi hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất là
khoa học về quản lý giáo dục phải được đổi mới mạnh mẽ. Cần phải có những
nghiên cứu mới thích ứng và có giá trị thực tiễn cao.
Đề tài này nhằm đề xuất những biện pháp quản lý cụ thể, phù hợp để
hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Công đoàn đạt
kết quả cao hơn, góp phần xây dựng nhà trường lớn mạnh. Mặc dù có nhiều
khó khăn nhưng chúng tôi mạnh dạn đưa ra các biện pháp có tính chất cải tiến
mạnh mẽ hiện trạng của công tác quản lý nghiên cứu khoa học vốn còn nhiều
bất cập hiện nay ở Trường Đại học Công đoàn.
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học
“Khoa học” và “ hoạt động nghiên cứu khoa học” là những khái niệm
được sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống, đặc biệt là trong các nhà trường
đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn tồn tại không ít những quan
niệm khác nhau về chúng.
1.2.1.1. Khoa học


8
Thuật ngữ “khoa học’’ được hiểu theo nhhiều góc độ và mức độ nhận
thức khác nhau.
- Hướng thứ nhất quan niệm rằng khoa học là hệ thống kiến thức, tri thức

của con người về thế giới mà họ đã tìm kiếm, phát hiện và tích luỹ được trong
lịch sử phát triển của xã hội. Khoa học chính là “…toàn bộ hệ thống kiến thức
mà nhân loại đã tích luỹ được về những quy luật trong sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội và tư duy, về những biện pháp tác động có kế hoạch đến thế
giới xung quanh và làm biến đổi thế giới đó nhằm phục vụ đời sống con
người.”[18, tr2]. Khoa học là quy luật của hiện thực vốn ẩn náu.
Trong quyển XIX của Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô có viết: “Khoa
học là tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy, về những quy luật khách quan
của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức này được hình thành trong
lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở… thực tiễn xã hội.” [dẫn theo
36,142]
Như vậy, theo quan điểm này thì khoa học là một dạng sản phẩm hoạt động
của con người, do con người tích luỹ dược.
- Hướng thứ hai quan niệm khoa học là một hình thức tìm tòi, phát hiện
các quy luật của sự vật, hiện tượng và vận dung các quy luật đó để sáng tạo ra
các giải pháp tác động vào thế giới, phục vụ lợi ích của con người.
- Dưới góc độ triết học, khoa học là một bộ phận hợp thành của ý thức xã
hội. Ở đây, khoa học đươc hiểu như một phạm trù triết học…
- Khoa học là một hoạt động mang tính chất nghề nghiệp xã hội đặc thù.
Cụ thể hơn: “Khoa học là một hoạt động có tính chất hệ thống, thông qua việc
nghiên cứu, nhằm tìm ra những kiến giải mang tính khái quát, chính xác và
khách quan hóa được về hiện thực.”[26, tr31]
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng khái niệm khoa học theo định nghĩa
của Luật Khoa học và Công nghệ hiện hành như sau:
- “Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của
tự nhiên, xã hội và tư duy.”[6, tr15]


9
1.2.1.2. Nghiên cứu khoa học

“Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức chân lí khoa học, một hoạt
động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm
kiếm, để chỉ ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà con người
chưa biết đến hoặc biết chưa đầy đủ, tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri
thức mới có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp”. [33, tr25].
Phạm Viết Vượng cho rằng nghiên cứu khoa học là hoạt động nhận thức
thế giới khách quan, là quá trình sáng tạo, phát hiện chân lí, phát hiện những
quy luật của thế giới, do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện, nhằm vận dụng
những hiểu biết ấy vào cuộc sống.
Theo lí thuyết công nghệ thì “Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm tòi,
phát hiện thông tin mới, gia công chế biến thông tin cũ để lưu trữ và sử dụng
thông tin vào mục đích phục vụ cuộc sống và sản xuất”. [33, tr49].
Luật khoa học và Công nghệ 2000 quy định: “Nghiên cứu khoa học là
hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã
hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên
cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng”. [6, tr7].
Như vậy, có thể nói, nghiên cứu khoa học là hoạt động để sáng tạo ra
khoa học, trong đó:
- Bản chất của nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà
khoa học nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức để sử dụng vào cải
tạo thế giới.
- Chủ thể của nghiên cứu khoa học là các nhà khoa học với những phẩm
chất trí tuệ và tài năng đặc biệt, được đào tạo chu đáo.
- Khách thể của nghiên cứu khoa học là các sự vật, hiện tượng của tự
nhiên, xã hội và tư duy mà nhà khoa học nghiên cứu để khám phá, sáng tạo ra
tri thức khoa học.
- Đối tượng của nghiên cứu khoa học là tri thức khoa học. Tri thức khoa
học có những điểm khác với tri thức thông thường. Tri thức thông thường là



10
những tri thức mà “bằng các giác quan, con người tri giác, cảm nhận về bản
thân, về thế giới và xã hội xung quanh, từ đó có những kinh nghiệm sống,
những hiểu biết về mọi mặt’’. Tri thức khoa học là:“… kết quả của quá trình
nhận thức có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và phương tiện đặc biệt
do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện” [22, tr 16].
- Mục đích của nghiên cứu khoa học là tìm tòi, khám phá bản chất và
các quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng
vào sản xuất vật chất hay tạo ra các giá trị tinh thần để thoả mãn như cầu
cuộc sống của con người.
1.2.1.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học
Thực chất hoạt động nghiên cứu khoa học chính là các quá trình nghiên
cứu khoa học. Đó là hoạt động sản xuất tinh thần mà sản phẩm của nó là hệ
thống tri thức khoa học tham gia ngày càng sâu sắc và đầy đủ vào quá trình
sản xuất vật chất và mọi mặt của đời sống xã hội.
Hoạt động nghiên cứu khoa học là một nội dung của hoạt động khoa học
và công nghệ. Với tư cách là một nội dung của khoa học và công nghệ, hoạt
động nghiên cứu khoa học được hiểu là tổ hợp những nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng và triển khai được thực hiện để đạt mục tiêu của khoa
học đã đặt ra. Trong một tổ chức, người ta nói “Hoạt động nghiên cứu khoa
học” là chỉ một lĩnh vực hoạt động khác như “hoạt động sản xuất”, hoạt động
giáo dục.
Sau đây, tác giả đề cập đến một số vấn đề quan trọng trong hoạt động
nghiên cứu khoa học:
(a). Nguồn lực nghiên cứu khoa học
Nguồn lực nghiên cứu khoa học là tất cả các nguồn lực phục vụ cho hoạt
động nghiên cứu khoa học, bao gồm con người (nhân lực), nguồn lực về vật
chất (vật lực), tài chính (tài lực) và nguồn thông tin (tin lực).



11
- Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học là chủ thể của hoạt động nghiên
cứu khoa học, đó là những người có đủ phẩm chất và năng lực trí tuệ để trực
tiếp tham gia nghiên cứu khoa học, thường là những người có tài năng, được
đào tạo chu đáo.
Điều quan trọng nhất của nhân lực khoa học là khả năng sáng tạo và lòng
yêu khoa học. Nguồn nhân lực khoa học có vai trò là tiền đề quyết định kết
quả của hoạt động khoa học. “Nhân lực khoa học là tiềm năng của mọi tiềm
năng là nhân tố quan trọng nhất tạo ra mọi thành công không những cho khoa
học mà còn cho tất cả các lĩnh vực hoạt động khác của nhân loại”. [30, tr
254].
- Nguồn tài lực nghiên cứu khoa học là nguồn tài chính chi phí cho hoạt
động nghiên cứu khoa học và chi phí đầu tư cho khoa học và công nghệ, gồm:
Ngân sách của Nhà nước cho cho hoạt động nghiên cứu khoa học và đầu
tư cho khoa học.
Kinh phí của tổ chức dành cho nghiên cứu khoa học.
Đầu tư tài trợ của các chương trình, dự án, các tổ chức và cá nhân.
- Nguồn vật lực nghiên cứu khoa học là toàn bộ cơ sở vật chất, thiết bị,
vật tư chuyên dùng trong nghiên cứu khoa học, bao gồm:
Cơ sở hạ tầng như trụ sở làm việc, phòng thí nghiệm, nhà xưởng, nơi
nghiên cứu, thực nghiệm.
Máy móc thiết bị kĩ thuật dùng cho nghiên cứu khoa học.
Nguyên liệu, vật tư kĩ thuật dùng trong phòng thí nghiệm, thực nghiệm,
văn phòng phẩm…
- Nguồn thông tin cho hoạt động nghiên cứu khoa học bao gồm:
Nguồn thông tin cung cấp cho chủ thể tham gia nghiên cứu khoa học và
nhà quản lý, với tư cách là đầu vào của nghiên cứu khoa học bao gồm một số
loại sau:
Thông tin “nguyên liệu” cho nghiên cứu do người nghiên cứu thu thập
được qua nghiên cứu tài liệu, khảo sát, điều tra hoặc thực nghiệm. Nguồn



12
thông tin gồm sách, tài liệu báo cáo khoa học trong và ngoài trường, thu thập
được của các đồng nghiệp đi trước, tài liệu trong các phòng tư liệu, các kho
dự trữ, số liệu thống kế… và đặc biệt là từ internet.
Thông tin về phương pháp nghiên cứu.
Thông tin về phương pháp xử lí dữ liệu có hai loại: xử lí các dữ liệu định
lượng và xử lí các dữ liệu định tính.
Thông tin về các nguồn lực.
Nguồn thông tin quản lý trong nội bộ tổ chức liên quan đến hoạt động
nghiên cứu khoa học giữa các bộ phận, cá nhân phản ánh các mối liên hệ cong
tác và trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ với nhau. Thông tin luôn là mạch máu,
là điều kiện sống còn của quản lý.
Sức mạnh của tin lực nghiên cứu khoa học biểu hiện ở số lượng và chất
lượng nghiên cứu thông tin.
Chất lượng của thông tin được đánh giá ở tính khách quan, độ chính xác
và kịp thời.
(b). Đặc điểm của hoạt động nghiên cứu khoa học
Hoạt động nghiên cứu khoa học có một số đặc điểm nổi bật sau đây:
- Tính mới: nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những phát hiện hoặc sáng
tạo mới, không chấp nhận sự lặp lại cái cũ.
- Tính thông tin: sản phẩm của nghiên cứu khoa học có thể coi là những
thông tin mới, đó là kết quả của quá trình khai thác và xử lí thông tin.
- Tính khách quan: để đảm bảo khách quan, người nghiên cứu không thể
nhận định theo ý muốn chủ quan, không thể kết luận thiếu kiểm chứng mà
phải luôn xem xét kĩ càng vấn đề nghiên cứu.
- Tính tin cậy: kết quả nghiên cứu phải được kiểm chứng bởi thực tiễn
hay những luận chứng khoa học tin cậy.
- Tính mạnh dạn, mạo hiểm: nhà nghiên cứu phải dám đảm nhận

những vấn đề chưa có ai nghiên cứu hoặc các lĩnh vực mới mẻ, thậm chí
dám lật lại những thành tựu đã được xác nhận trước đây để tìm ra kết quả


13
mới. Tất nhiên khả năng rủi ro, thất bại trong nghiên cứu khoa học là điều
bình thường. Điều quan trọng là phải biết chấp nhận rủi ro và rút kinh
nghiệm, biết cách học hỏi từcác sai lầm.
- Tính kinh tế: sứ mệnh của nghiên cứu khoa học là góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, cải biến thế giới. Tuy nhiên, ở tầm vĩ mô, trong rất nhiều
trường hợp nghiên cứu không thể coi lợi nhuận kinh tế là mục đích trực tiếp.
Lao động nghiên cứu khoa học hầu như không thể định mức chính xác như
sản xuất vật chất; hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học rất khó xác định.
Trong hoàn cảnh hiện nay, nhất là trong các trường cao đẳng thì chúng ta vẫn
phải cân nhắc tính toán kỹ càng khi đầu tư vào từng công trình nghiên cứu.
(c). Các mức độ và hình thức nghiên cứu khoa học
Có nhiều cách khác nhau, nhiều cơ sở khác nhau để phân loại các mức
độ và hình thức của nghiên cứu khoa học. Sau đây là một số cách phân loại
thông thường
- Nếu dựa vào nội dung và đặc điểm của công trình thì ta có: Báo cáo về
một đề tài khoa học nào đó, bài báo, chuyên khảo, bản tổng kết về hoạt động
khoa học, bài phê bình có tính khoa học, đề cương trình bày tổng quát một
chủ đề gì đó và các luận án khoa học.
- Nếu dựa vào mức độ của công trình nghiên cứu trong thực tiễn trong
giáo dục và đào tạo thì ta có các hình thức: Bài tập nghiên cứu khoa học, khoá
luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hoặc luận án tiến sĩ khoa học.
- Nếu dựa vào trình độ và mục đích của công trình nghiên cứu thì có các
loại hình nghiên cứu khoa học:
Nghiên cứu cơ bản có mục đích tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức mới,
những giá trị mới cho nhân loại. Nghiên cứu cơ bản đi sâu nghiên cứu bản

chất và quy luật vận động của thế giới.


14
Nghiên cứu ứng dụng có mục đích là tìm cách vận dụng những tri thức
cơ bản để tạo ra những quy trình công nghệ mới, những nguyên lý mới trong
quản lý kinh tế, xã hội.
Nghiên cứu triển khai là loại hình nghiên cứu có mục đích tìm khả năng
áp dụng đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế cuộc sống.
Nghiên cứu dự báo có mục đích tìm tòi, phát hiện những triển vọng,
những khả năng, xu hướng mới của sự phát triển khoa học và thực tiễn.
- Nếu dựa vào chức năng của quá trình nghiên cứu thì ta có:
Nghiên cứu mô tả là quá trình nghiên cứu để trình bày về một hiện
tượng, sự việc một cách chuẩn xác, có trình tự, có hệ thống nhằm giúp mọi
người hiểu được vấn đề, phổ biến cho mọi người hưởng ứng làm theo.
Nghiên cứu giải thích là nghiên cứu để lập luận, để kiến giải một vấn đề
nào đó trên cơ sở khoa học. Giải thích ở đây là làm rõ nguyên nhân dẫn đến
sự hình thành và tính quy luật chi phối quá trình vận động và phát triển của sự
việc, sự vật mà ta cần giải thích.
Nghiên cứu tiên đoán là nghiên cứu để ngoại suy thấy được trước các xu
thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Việc tiên đoán có thể dựa
vào mô tả và giải thích.
Nghiên cứu sáng tạo là quá trình nghiên cứu để tìm ra những tri thức,
những quy luật và các giải pháp mới.
1.2.2. Quản lý
1.2.2.1. Một số quan niệm về quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội đặc biệt xuất hiện từ rất sớm và là một
nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội. C. Mác đã nói: “Bất cứ lao động
xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá
lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá

nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng chung, tức là những chức năng


15
phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với
những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản
xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn
nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng. [dẫn theo 31, tr24].
Sự phát triển xã hội loài người dựa vào ba yếu tố cơ bản, đó là tri thức,
sức lao động và trình độ quản lý. Quản lý là tổ chức, điều hành, kết hợp
vận dụng tri thức với việc sử dụng sức lao động để phát triển sản xuất xã
hội.
Tuy tư tưởng về quản lý đã có từ rất lâu, từ khi con người được xã hội
hoá nhưng khoa học quản lý lại chỉ mới phát triển thành một khoa học thực
sự từ đầu thế kỉ XX. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản
lý, tuỳ theo góc độ, quan điểm và phương pháp tiếp cận. Nhiều nhà nghiên
cứu đã xem quản lý là cai quản, cai trị, quản trị, lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo,
kiểm soát, điều khiển, Sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu:
- Frederick Winslow Taylor (1856 - 1915) là người đề xuất thuyết “Quản
lý khoa học” cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều mình muốn
người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một
cách tốt nhất và rẻ nhất’’.
- Các nhà khoa học Harold Koontz, Cyril Odonell và Hein Weihrich cho
rằng: “Quản lý là hoạt động thiết yếu của nhà quản lý đảm bảo sự phối hợp,
sự nỗ lực của mỗi cá nhân trong tổ chức nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định
trong những điều kiện thời gian, công sức và kinh phí bỏ ra ít nhất nhưng đạt
hiệu quả cao nhất’’.
- Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý đều nhấn
mạnh các yếu tố: chủ thể quản lý, khách thể và mục tiêu quản lý, đồng
thời khẳng định rằng: Quản lý là một hoạt động mà trong đó con người

vừa là chủ thể vừa là là khách thể quản lý. Mai Hữu Khuê đã nêu “Hoạt
động quản lý là một dạng lao động đặc biệt của người lãnh đạo, mang
tính tổng hợp của các dạng lao động trí óc liên kết bộ máy thành một


16
chỉnh thể thống nhất, điều hoà, phối hợp các khâu quản lý và các cấp
quản lý hoạt động nhịp nhàng đưa đến hiệu quả cao’’. [24, tr21].
Theo Phạm Khắc Chương thì “Quản lý là sự tác động có hướng đích của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng một hệ thống các giải pháp nhằm
thay đổi trạng thái của đối tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu cuối
cùng, phục vụ mục đích của con người” [20, tr5].
Như vậy, khi bàn về quản lý, các tác giả đều có quan điểm thống nhất
chung là: “Quản lý là quá trình tác động có mục đích của chủ thể quản lý đối với
khách thể (đối tượng) quản lý về mặt chính trị, văn hoá, kinh tế xã hội… bằng
một hệ thống các luật lệ, chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các
biện pháp có thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối
tượng”.
Có thể thấy quản lý bao giờ cũng là quản lý một hệ, một đơn vị cụ thể.
Trong quản lý bao giờ cũng bao gồm các thành phần cơ bản: chủ thể quản lý,
đối tượng và khách thể quản lý, mục tiêu quản lý, các công cụ quản lý. Hoạt
động quản lý về bản chất là tác động (bằng tổ chức, điều khiển và chỉ huy)
hợp quy luật của chủ thể quản lý đến đối tượng và khách thể quản lý nhằm
làm cho tổ chức vận hành đạt mục tiêu đã đề ra với hiệu quả mong muốn.
Tiếp cận trong quản lý là đường lối xem xét hệ thống quản lý, là cách
thức thâm nhập vào hệ thống quản lý, là đường lối xử lí các vấn đề của quản
lý. Trên thực tế có một số cách tiếp cận thông dụng: tiếp cận lịch sử/logic;
tiếp cận phân tích/tổng hợp; tiếp cận mục tiêu và tiếp cận hệ thống.
Tiếp cận hệ thống cho phép xem xét các hoạt động quản lý như một hệ
thống hoàn chỉnh bao gồm những nhân tố và mối quan hệ tương tác giữa các

nhân tố để đạt được mục tiêu xác định.
Mỗi loại hệ thống đều có tính độc lập tương đối, có những chức năng và
nhiệm vụ riêng, vận hành và phát triển bởi những tác động qua lại theo những
quy luật riêng của những nhân tố bên trong của hệ thống đó, đồng thời nó cũng
chịu sự chi phối và tác động qua lại của các hệ thống đồng cấp.


17
Các hệ thống (tổ chức hay cơ quan nói chung) đều có các nhân tố sau:
- Mục đích/mục tiêu (nhân tố nền tảng) mà hệ thống hướng tới và đó
cũng là lí do tồn tại của hệ thống.
- Các chương trình, phương pháp hoạt động để đạt tới mục đích, mục
tiêu của hệ thống.
- Các nguồn lực cần thiết.
- Cán bộ quản lý (chủ thể quản lý) tiến hành các hoạt động quản lý giúp cơ
quan, tổ chức đạt được các mục tiêu đề ra.
Trên cơ sở phương pháp tiếp cận hệ thống, qua việc xem xét, phân tích
các khái niệm về quản lý có thể sử dụng các khái niệm quản lý dưới đây trong
hoạt động quản lý giáo dục:
- “Quản lý là một quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận
dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra”.
- “Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những
nỗ lực của các thành viên trong tổ chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức
để đạt được mục tiêu cụ thể”.
1.2.2.2. Chức năng của quản lý
Chức năng quản lý là tập hợp các nhiệm vụ khách quan mà chủ thể quản
lý phải thực hiện để đạt mục đích và mục tiêu quản lý đề ra. Các nhà nghiên
cứu về quản lý đã đưa ra nhiều quan điểm về nội dung của các chức năng.
Song, về cơ bản họ đều thống nhất có 4 chức năng quản lý cơ bản sau đây:
(a). Kế hoạch hoá

Kế hoạch hoá có nghĩa là công việc hoạch định, gồm xác định mục tiêu,
mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và xác định các con đường,
biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Ba nội dung chủ yếu
của chức năng kế hoạch hoá là:
- Xác định (hình thành) mục tiêu đối với tổ chức.
- Xác định và đảm bảo các nguồn lực của tổ chức để đạt được các mục
tiêu đã đề ra.


18
- Quyết định những hoạt động cần thiết, tối ưu để đạt được các mục tiêu đó.
Trước khi xây dựng kế hoạch, bất cứ một tổ chức nào cũng phải xác định sứ
mệnh của tổ chức mình. Đó là loại mục tiêu có tính chiến lược cao nhất, dựa trên
những tiền đề kế hoạch hoá, những tiền đề này là những giả định cơ bản về mục
đích tồn tại của tổ chức, những giá trị của tổ chức, đặc trưng chuyên biệt cũng
như vị trí của tổ chức trong xã hội.
(b). Tổ chức
Khi người quản lý tổ chức đã lập xong kế hoạch, họ cần phải chuyển hoá
những ý tưởng khá trừu tượng đó thành hiện thực. Xét về mặt chức năng quản
lý, tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành
viên, các bộ phận trong tổ chức, nhằm làm cho họ thực hiện thành công các
kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu
quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn lực. Thành
tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực sử dụng các nguồn lực
hợp lí và khoa học của người quản lý.
Quá trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận, các
phòng, ban cùng các công việc của chúng. Sau đó là vấn đề nhân sự, cán bộ
được bố trí, sắp xếp phù hợp với năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức
với các cương vị nhất định trong tổ chức.
(c). Chỉ đạo, điều hành

Chỉ đạo là điều khiển, điều hành, tác động, huy động và giúp đỡ con
người và các bộ phận trong hệ thống thực hiện nhiệm vụ. Đó chính là quá trình
tác động, liên kết các thành viên trong tổ chức, là tập hợp, động viên họ hoàn
thành những công việc nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Hiển nhiên,
việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã
hoàn tất, mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng tổ chức và
lãnh đạo.
(d). Kiểm tra


19
Kiểm tra là quá trình đánh giá và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho các hoạt
động đạt tới các mục tiêu của tổ chức. Kiểm tra trong quản lý là quá trình xem
xét thực tiễn để thực hiện các nhiệm vụ đánh giá thực trạng, khuyến khích
những nhân tố tích cực, phát hiện sai lệch và đưa những quyết định điều chỉnh
nhằm giúp các đối tượng hoàn thành nhiệm vụ góp phần đưa toàn bộ hệ thống
được quản lý đạt tới một trình độ cao hơn. Chức năng kiểm tra là một chức
năng quan trọng không thể thiếu được trong quá trình quản lý. Kiểm tra phải
thể hiện rõ bốn bước cơ bản, đó là:
- Xác định chuẩn kiểm tra.
- Đo lường, thu thập thông tin về kết quả đạt được.
- So sánh kết quả với chuẩn mực đã đề ra.
- Đưa ra các quyết định điều chỉnh cần thiết.
Tóm lại, chức năng quản lý là một trong những vấn đề cơ bản của lí luận
quản lý, giữ vai trò to lớn trong thực tiễn quản lý. Thực hiện đầy đủ các chức
năng quản lý và các giai đoạn của chu trình quản lý là cơ sở đảm bảo cho hệ
thống được quản lý một cách có hiệu quả mà trong đó yếu tố thông tin điều
kiện tất yếu, là phương tiện quan trọng để thực hiện hoạt động quản lý.
Trong quản lý, thông tin chính xác, kịp thời sẽ đem lại chất lượng, hiệu
quả của các quyết định quản lý. Thông tin có ý nghĩa, vai trò quan trọng và có

quan hệ chặt chẽ với các chức năng quản lý.
1.2.2.3. Vai trò của quản lý
Quản lý là nhân tố cơ bản, quyết định sự tồn tại, phát triển hay diệt
vong của mọi tổ chức. Trong tất các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội đều có hoạt động quản lý, như quản lý kinh tế, quản lý giáo dục, quản
lý văn hoá… Tuy mỗi lĩnh vực đều có những nét đặc thù riêng song chúng
đều có những điểm chung nhất về bản chất của hoạt động quản lý. Hoạt
động quản lý luôn luôn góp phần quyết định nâng cao chất lượng, hiệu quả
của từng tổ chức, từng con người trong một hệ thống nhất định. Quản lý là


20
một nhân tố tất yếu của sự phát triển, nó vừa là hệ quả vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển xã hội.
Ngày nay, nhiều nhà khoa học cho rằng năng lực quản lý (chất xám
quản lý) được xếp trong hệ thống năm yếu tố tạo thành sức mạnh của nền
kinh tế của một quốc gia, đó là: lao động, vốn, công nghệ, năng lực quản
lý và tài nguyên. (sơ đồ 1). Theo Đặng Quốc Bảo và tập thể tác giả của
trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức, quản lý thì trong thời đại khoa
học công nghệ ngày nay, việc nghiên cứu và áp dụng những thành tựu
khoa học - công hệ mới vào thực tiễn quản lý là xu hướng của quản lý
hiện đại, nên quản lý còn được xem là công nghệ - công nghệ điều hành,
phối hợp, sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) và thông tin
của một tổ chức để đưa tổ chức đạt tới mục tiêu. [16, tr 66].

×