Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học trực tuyến tại Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 109 trang )




















































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC










ĐÀO QUANG CHIỂU





BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC TRỰC TUYẾN
TẠI HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ
BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05












Hà Nội – 2010

- 1 -

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bƣớc sang thế kỷ 21, loài ngƣời đã và đang bƣớc vào giai đoạn kinh tế tri
thức, cùng với công nghệ thông tin và truyền thông và xu thế toàn cầu hoá.
Điều đó ảnh hƣởng sâu sắc đến mọi hoạt động của đời sống xã hội ở tất cả các
quốc gia trên thế giới, đòi hỏi con ngƣời phải có nhiều kỹ năng đặc thù và thái
độ tích cực để tiếp nhận và làm chủ tri thức, làm chủ thông tin một cách sáng
tạo. Vì vậy, việc tăng cƣờng quy mô, nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lƣợng
giáo dục, đào tạo sẽ là nhân tố sống còn quyết định sự tồn tại và phát triển của
mỗi quốc gia. Số lƣợng ngƣời học ngày càng tăng nhanh trong khi đó cơ sở vật
chất, đội ngũ giáo viên của các cơ sở đào tạo chƣa thể tăng kịp để đáp ứng
đƣợc nhu cầu của xã hội. Nhu cầu tự học, tự nghiên cứu của ngƣời học ngày
càng đa dạng. Dạy học trực tuyến (DHTT) chính là giải pháp hữu hiệu giải
quyết vấn đề này. Ngày nay công nghệ DHTT đã góp phần đổi mới cả phƣơng
thức dạy và học. DHTT đã đáp ứng những tiêu chí giáo dục mới mà từ trƣớc
tới nay chƣa từng đƣợc áp dụng đó là: có thể học mọi nơi, học mọi lúc, học
theo sở thích, học suốt đời,… DHTT không chỉ dùng cho đào tạo từ xa (ĐTTX)
qua mạng mà sẽ tồn tại cùng với hình thức dạy học truyền thống và bổ sung, bổ
trợ cho hình thức dạy học truyền thống.
DHTT đã trở thành một xu thế tất yếu trong nền kinh tế tri thức và đã tạo
ra một cuộc cách mạng về dạy học. DHTT mang lại hiệu quả kinh tế cao và
đang thu hút đƣợc sự quan tâm đặc biệt của nhiều nƣớc trên thế giới. Nhiều
trƣờng đại học có danh tiếng trên thế giới đã chọn DHTT nhƣ một chiến lƣợc
định hƣớng phát triển. Chỉ với một giáo viên hoặc một chuyên gia giỏi có thể
giảng dạy cho một số lƣợng lớn ngƣời học. Với mỗi khóa DHTT có thể dễ
dàng mời giáo viên, chuyên gia nƣớc ngoài giảng dạy từ xa nên giảm đƣợc chi
phí đi lại, ăn ở,… Nhƣ vậy, DHTT góp phần mở rộng quy mô đào tạo, hỗ trợ
các phƣơng thức giáo dục đào tạo truyền thống, làm giảm bất bình đẳng về cơ
hội học tập giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo, giữa nông thôn và thành thị, giúp
giáo dục Việt Nam hội nhập với nền giáo dục thế giới.

Ngày nay, DHTT thay đổi cách tiếp cận và lĩnh hội tri thức so với mô
hình học tập truyền thống. Các hoạt động học tập, nghiên cứu, thảo luận, chia
sẻ kiến thức trên mạng mang lại cho ngƣời học sự hứng thú, sáng tạo và chủ
động.
Ở nƣớc ta, DHTT đã và đang đƣợc triển khai, thử nghiệm ở một số trƣờng
Đại học nhƣ ở Học viện Công nghệ Bƣu chính Viễn thông, Viện đại học mở

- 2 -
Hà Nội, Trƣờng Đại học CNTT- ĐHQG TP.HCM, Trƣờng ĐHSP Hà Nội, và
cũng đã thu đƣợc những kết quả nhất định, song vẫn còn có những khó khăn:
thiết kế và sử dụng học liệu điện tử; tổ chức dạy học trực tuyến; kiểm tra đánh
giá kết quả học tập trực tuyến; công tác quản lý đào tạo, giáo vụ, v.v….
Ở Học viện Công nghệ BCVT, trong những năm gần đây đã từng bƣớc
thực hiện các hoạt động ĐTTX, DHTT. Trong đó có hoạt động dạy học trực
tuyến và đã thu đƣợc những kết quả bƣớc đầu. Sinh viên ngoài các buổi tập
trung tại Học viện nghe hƣớng dẫn học đầu kỳ, cuối kỳ có thể truy cập vào
cổng công tin điện tử; có thể đăng ký tham dự các buổi giảng qua hội nghị
truyền hình, dự các buổi học trực tuyến. Nhƣ vậy, ngoài thời gian học tập trên
lớp, sinh viên có thể tự học, tự nghiên cứu, trao đổi và chia sẻ thông tin học tập
thông qua cổng thông tin điện tử và các diễn đàn môn học trên Website. Tuy
nhiên, công tác quản lý dạy học trực tuyến ở Học viện Công nghệ BCVT vẫn
còn tồn tại một số vấn đề nhƣ:
Vấn đề nhận thức chung về DHTT trong Học viện còn chƣa có sự đồng
nhất; Học viện chƣa có đầy đủ các quy định về tổ chức, quản lý hoạt động
DHTT; chƣa xây dựng đƣợc kế hoạch hoạt động DHTT chung cho các hệ và
hình thức đào tạo; CSVC chƣa đáp ứng đủ các yêu cầu của hoạt động dạy học
trực tuyến; đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên chƣa đƣợc đào tạo bài bản và
thiếu kinh nghiệm về tổ chức dạy học trực tuyến,
Để góp phần giải quyết những tồn tại trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu
“Biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học trực tuyến tại Học

viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông".
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn công tác dạy học trực tuyến; đề
xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học trực tuyến;
góp phần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả đào tạo tại Học viện công nghệ Bƣu
chính Viễn thông.
3. Phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian nghiên cứu hạn chế, nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở
lý luận về quản lý dạy học trực tuyến; những vấn đề có liên quan tới thực trạng
quản lý công tác dạy học trực tuyến và các biện pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lƣợng hoạt động dạy học trực tuyến tại Học viện Công nghệ Bƣu chính
Viễn thông.

- 3 -
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về dạy học trực tuyến và quản lý nâng cao
chất lƣợng dạy học trực tuyến.
4.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng
dạy học trực tuyến tại Học viện Công nghệ Bƣu chính Viễn thông; phân tích
những ƣu điểm, nhƣợc điểm trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng
dạy học trực tuyến.
4.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học
trực tuyến tại Học viện Công nghệ Bƣu chính Viễn thông.
5. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
5.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý nâng cao chất lƣợng dạy học trực
tuyến tại Học viện Công nghệ Bƣu chính Viễn thông.
5.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lƣợng dạy học trực tuyến tại Học viện Công nghệ Bƣu chính viễn thông.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu chọn lựa và đề xuất đƣợc một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao

chất lƣợng dạy học trực tuyến phù hợp với yêu cầu và điều kiện tổ chức đào tạo
thực tế của Học viện thì sẽ nâng cao đƣợc chất lƣợng dạy học trực tuyến và góp
phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả đào tạo tại Học viện công nghệ Bƣu chính
Viễn thông.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Nghiên cứu Luật Giáo dục, các văn kiện của Đảng và Nhà nƣớc về định
hƣớng phát triển giáo dục, đào tạo và phát triển ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong giáo dục, đào tạo.
- Nghiên cứu các văn bản pháp quy của Bộ GD-ĐT; các quy định quản lý
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, quản lý hoạt động dạy học trực
tuyến tại Học viện Công nghệ Bƣu chính Viễn thông.
- Nghiên cứu các tài liệu quản lý, báo cáo khoa học có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- 4 -
- Phƣơng pháp quan sát sƣ phạm
- Phƣơng pháp chuyên gia để tham khảo ý kiến của các nhà quản lý, các
chuyên gia giáo dục, các giảng viên và sinh viên.
- Phƣơng pháp điều tra bằng phiếu hỏi ý kiến và phỏng vấn, toạ đàm.
- Phƣơng pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
7.3. Những phương pháp hỗ trợ khác
Sử dụng các công thức toán học để thống kê, xử lý và phân tích các số
liệu khảo sát.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học
trực tuyến.

Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học trực
tuyến tại Học viện.
Chƣơng 3: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học
trực tuyến tại Học viện.

- 5 -
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG DẠY HỌC TRỰC TUYẾN

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Đối với hình thức dạy học truyền thống, lớp học đƣợc cố định ở một chỗ
và ngƣời học phải có mặt trên lớp để học. Do nhu cầu học tập ngày càng đa
dạng, ngƣời học có nhu cầu học tập ở mọi nơi, mọi lúc, kể cả trong khi đang đi
du lịch, đi công tác. Ngƣời học không nhất thiết phải có mặt trên lớp học nhƣng
vẫn chủ động lĩnh hội đƣợc tri thức. Từ những yêu cầu mới này của ngƣời học
mà hình thức đào tạo từ xa (ĐTTX) đã bắt đầu ra đời. Có thể nói, ý tƣởng về
ĐTTX đã đƣợc vạch ra bởi kỹ thuật in ấn. Từ rất sớm, việc in ấn đã trở thành
phƣơng thức thúc đẩy học tập, ngƣời học có thể tự học theo kế hoạch riêng của
mình mà không có sự trợ giúp của ngƣời hƣớng dẫn. Sự tự giúp đỡ bản thân
đơn giản này là một trong những ví dụ về ĐTTX [36].
Có thể nói mốc thời gian đƣợc ghi nhận đầu tiên về ĐTTX trên thế giới
đó là việc giảng dạy cho giáo sỹ nhà thờ bằng gửi thƣ từ những năm 50-60 sau
công nguyên. Trong lịch sử hiện đại mốc thời gian đƣợc ghi nhận bởi Isaac
Pitman dạy phƣơng pháp ghi tốc ký bằng gửi thƣ ở Anh năm 1840 [40].
Qua những năm tháng phát triển, tên của lĩnh vực này đựợc thay đổi cho
phù hợp với mục đích của nó nhƣ: học tại nhà, học qua thƣ từ, học ngoại khóa,
học độc lập (tự học) và học mở rộng. Tất cả các hình thức này đều liên quan
đến việc truyền giảng (các hình thức giảng dạy) và cách thức học (sự thích hợp

về thời gian và nơi học). Trải qua thời gian, diện mạo và cách thức ĐTTX đƣợc
hình thành với sự tham gia của các công nghệ nhƣ công nghệ in ấn (học qua
thƣ từ), cho tới công nghệ phát thanh, điện đài, và trải qua thời kỳ sản xuất
công nghiệp, cuối cùng tới truyền thông đa phƣơng tiện và liên lạc điện tử vào
những năm 90, tiếp đó là mạng Internet và công nghệ Web. Và tới ngày nay là
hệ thống học tập điện tử (E-learning System) và các công nghệ dạy học trực
tuyến (Interractive, Online) đƣợc đề cập tới ở hầu hết các cấp học.
Trong những năm gần đây, với sự phát triển của công nghệ E-Learning,
khả năng tổ chức một lớp học ảo và một môi trƣờng học tập ảo (VLE: Virtual

- 6 -
Learning Environment) đã dần phá vỡ tồn tại của những quan niệm cũ chƣa
thực sự coi trọng ĐTTX khi chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống sang E-
Learning với sự trợ giúp đắc lực của máy tính và hệ thống công nghệ thông tin
và truyền thông.
Theo tổ chức Thomson NETg

[44], các làn sóng phát triển của E-
Learning đƣợc chia thành các giai đoạn nhƣ sau:

Hình 1.1: Các làn sóng của E-Learning

 Trước năm 1983:
Kỷ nguyên giảng viên làm trung tâm
Trƣớc khi máy tính đƣợc sử dụng rộng rãi, phƣơng pháp giáo dục “Lấy
giảng viên làm trung tâm” là phƣơng pháp phổ biến nhất trong các trƣờng học.
Học viên chỉ có thể trao đổi tập trung quanh giảng viên và các bạn học. Đặc
điểm của loại hình này là chi phí tổ chức đào tạo thấp.
 Giai đoạn 1984-1993:
Kỷ nguyên đa phương tiện

Hệ điều hành Windows 3.1, Máy tính Macintosh, phần mềm trình diễn
powerpoint, v.v… đây là các công nghệ cơ bản trong kỷ nguyên đa phƣơng
tiện. Nó cho phép tạo ra các bài giảng tích hợp hình ảnh và âm thanh học trên
máy tính sử dụng công nghệ đào tạo nhờ máy tính (CBT: Computer Based
Training) phân phối nội dung giảng dạy qua đĩa CD-ROM hoặc đĩa mềm. Vào
bất kỳ thời gian nào, ở đâu, ngƣời học cũng có thể mua và học. Tuy nhiên, sự
hƣớng dẫn của giảng viên là rất hạn chế.
 Giai đoạn : 1994-1999
Làn sóng E-learning thứ nhất
Khi công nghệ Web đƣợc phát minh, các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục,
đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiếp phƣơng pháp giáo dục bằng công
nghệ này. Sự kỳ vọng vào E-mail, Website, Trình duyệt, HTML, Media player,
Kỷ nguyên dạy học có
người hướng dẫn
/Tài liệu in để tự học
(trước 1983)
Kỷ nguyên
Đa phương tiện
(1984 – 1993)
Làn sóng thứ 1
/E-Learning
/Với sự hỗ trợ của
Internet
(1994-1999)

Làn sóng thứ 2
/E-Learning
/Với sự hỗ trợ của Internet
băng thông rộng
(Sau 2000)




- 7 -
truyền Audio/Video tốc độ thấp và ngôn ngữ JAVA bắt đầu trở lên phổ dụng
và đơn giản hơn đã làm thay đổi bộ mặt của đào tạo bằng đa phƣơng tiện.
Ngƣời thầy thông thái đã dần lộ rõ thông qua các phƣơng tiện: E-mail, CBT
qua Intranet với text và hình ảnh đơn giản, đào tạo bằng công nghệ Web với
hình ảnh chuyển động tốc độ thấp đã đƣợc triển khai trên diện rộng.
 Giai đoạn sau năm 2000
Làn sóng E-learning thứ hai
Các công nghệ tiên tiến bao gồm JAVA và các ứng dụng mạng IP, công
nghệ truy nhập mạng di động 3G và băng thông Internet đƣợc nâng cao, các
công nghệ thiết kế Web tiên tiến đã trở thành một cuộc cách mạng trong giáo
dục đào tạo để hình thành các hệ thống dạy học trực tuyến (DHTT). Ngày nay
thông qua DHTT giảng viên có thể hƣớng dẫn trực tuyến (hình ảnh, âm thanh,
các công cụ trình diễn) tới mọi ngƣời học, nâng cao chất lƣợng giảng dạy.
Ngày qua ngày, công nghệ DHTT đã chứng tỏ có khả năng mang lại hiệu quả
cao trong giáo dục đào tạo, cho phép đa dạng hoá các môi trƣờng học tập (trao
đổi thông tin, giảng dạy, học tập, kiểm tra đánh giá). Tất cả những điều đó tạo
ra một cuộc cách mạng trong giáo dục đào tạo với giá thành rẻ, chất lƣợng cao
và hiệu quả. Đó chính là làn sóng thứ 2 của E-learning, và hiện nay chúng ta
đang ở trong giai đoạn của làn sóng này.
1.1.2. Ở Việt Nam
”Giáo dục từ xa” ở bậc đại học đƣợc biết đến từ những năm đầu thập kỷ
60 của thế kỷ trƣớc, đó là những khoá học hàm thụ theo hình thức gửi thƣ của
Trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà Nội 1. Với hệ đào tạo này, đã bƣớc đầu hình
thành ở Việt Nam các thuật ngữ về phƣơng pháp tự học, vừa học vừa thực
hành, học tập suốt đời trong giáo dục, đào tạo. Tuy nhiên về sau do khó khăn
về kinh tế, về chiến tranh, hình thức học hàm thụ, học bằng cách gửi thƣ không

đƣợc tiếp tục phát triển.
Có thể nói tới trƣớc thời kỳ đổi mới, thuật ngữ giáo dục từ xa còn đƣợc
biết đến một cách rất hạn chế, chủ yếu do Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 1
thực hiện và cũng chỉ đƣợc thực hiện duy nhất ở bậc đại học. Việc nghiên cứu
về giáo dục từ xa không đƣợc thực hiện một cách liên tục và toàn diện, do đó
nhận thức về giáo dục từ xa nói chung còn chƣa rõ nét, cũng nhƣ việc nhìn
nhận kết quả giáo dục từ xa còn chƣa đƣợc xã hội coi trọng.
“Đào tạo từ xa” đƣợc biết đến nhƣ là một hình thức giáo dục- đào tạo mới
xuất hiện trong công cuộc đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nƣớc ta,
mà bắt đầu từ việc thành lập 2 trƣờng Đại học Mở Hà Nội (3/11/1993) và Đại

- 8 -
Học Mở – Bán công TP. Hồ Chí Minh (26/7/1993). Hai Trung tâm này đƣợc
coi là hạt nhân của hệ thống đào tạo từ xa của Việt Nam. Cho tới nay hai
trƣờng đại học này có quy mô đào tại khoảng 30-40.000 sinh viên/năm. Sau 2
Trƣờng đại học trên, hiện có trên 12 trƣờng Đại học đã đƣợc Bộ GD&ĐT cho
phép tổ chức đào tạo đại học từ xa có cấp văn bằng [24].
Ngoài các Trƣờng đại học, từ năm 1993, Đài tiếng nói Việt Nam (VOV)
và Đài Truyền hình Việt Nam (VTV2) đã thực hiện hàng trăm chƣơng trình
hƣớng dẫn học tập bao gồm cả cấp và không cấp văn bằng, chứng chỉ trên sóng
VOV và VTV. Các chƣơng trình này đã phục vụ hàng triệu ngƣời khắp toàn
quốc hiện đang có nhu cầu bồi duỡng, cập nhật kiến thức những môn học và
những vấn đề mà họ quan tâm. Năm 2003, Bộ GD&ĐT cùng phối hợp với
VTV2 có đề án nghiên cứu việc thiết lập một kênh truyền hình riêng cho giáo
dục [21].
Nhiều công ty cũng đã bắt đầu nghiên cứu và tiến hành thử nghiệm kinh
doanh hoạt động ĐTTX; DHTT, nhƣ sản xuất các băng hình, băng Audio, CD-
ROM, Năm 2002 đƣợc ghi nhận là năm đầu tiên hoạt động thƣơng mại
DHTT dƣới tƣ cách là một hình thức đào tạo độc lập trong lĩnh vực đào tạo
trên mạng INTERNET trở thành hiện thực với việc ra đời Webiste:

truongthi.com.vn.
Tới năm 2009, đa số các cơ sở đào tạo đã xây dựng Website và cung cấp
dịch vụ ĐTTX, DHTT thông qua hội nghị truyền hình (Video Conferencing),
qua mạng Internet để đào tạo cấp chứng chỉ, cấp văn bằng tốt nghiệp hoặc hỗ
trợ đào tạo truyền thống. Trong lĩnh vực DHTT, có hàng trăm công ty, doanh
nghiệp, cơ sở đào tạo triển khai cung cấp dịch vụ dạy học trực tuyến, điển hình
có nhiều ngƣời biết đến nhƣ: www.truongtructuyen.com, www.elearningvn.org,
el.edu.net.vn, www.hocmai.vn, www.dayhoctructuyen,
Trong lĩnh vực nghiên cứu liên quan tới ứng dụng công nghệ thông tin
trong giáo dục và quản lý giáo dục, có thể kể đến một số đề tài gần đây nhƣ:
năm 2005, học viên Nguyễn Thị Thu Thủy đã bảo vệ thành công luận văn thạc
sỹ QLGD với đề tài: “Đổi mới quản lý học viên hệ đào tạo từ xa bằng ứng
dụng công nghệ thông tin – truyền thông tại Khoa Công nghệ Tin học, Viện
Đại học Mở Hà nội”.
Năm 2007, học viên Nguyễn Đăng Châu đã bảo vệ thành công luận văn
thạc sỹ QLGD với đề tài: “Một số biện pháp quản lý việc thiết kế và sử dụng
trang Web học tập trong môi trường dạy học đa phương tiện nhằm nâng cao
chất lượng dạy học ở trường cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà Nội”.

- 9 -
Năm 2008, học viên Lê Khắc Quyền đã bảo vệ thành công luận văn thạc
sỹ QLGD với đề tài: “Biện pháp quản lý công tác đánh giá kết quả học tập của
học viện trong đào tạo trực tuyến ở Trường đại học sư phạm Hà Nội”
Có thể nói ĐTTX, DHTT qua mạng thông tin (Internet), truyền thông đã
dần không phải là điều còn mới lạ trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Tuy
nhiên, DHTT là hình thức đào tạo mới đƣợc đƣa vào và phát triển tại các cơ sở
giáo dục trong vài năm trở lại đây. Đặc biệt, công tác quản lý hoạt động ĐTTX
nói chung; DHTT nói riêng còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng trong các cơ sở giáo
dục. Cho đến nay chƣa có nhiều công trình nghiên cứu sâu về vấn đề quản lý
nâng cao chất lƣợng DHTT.

1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Quản lý xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của xã hội
loài ngƣời. Ở đâu có hoạt động chung, ở đó cần đến sự quản lý, nhƣ Các-Mác
đã nói một cách rất hình tƣợng rằng: Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển
mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.
Có thể tiếp cận khái niệm quản lý, theo những cách sau:
Theo quan niệm truyền thống: “Quản lý là quá trình tác động có ý thức
của chủ thể vào một bộ máy (đối tượng quản lý) bằng cách vạch ra mục tiêu
cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã xác
định” [18].
Theo tác giả Mai Quang Huy: “Thuật ngữ quản lý gồm hai quá trình tích
hợp nhau: Quá trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái
ổn định; quá trình “lý” là sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ vào thế phát
triển" [9].
“Quản lý phải làm cho hệ thống ở trạng thái cân bằng động, vận động
phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong môi trường tương tác giữa các nhân tố
bên trong và các nhân tố bên ngoài. Như vậy, quản lý là tác động có định
hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong tổ chức,
làm cho tổ chức đó vận động và đạt được mục tiêu của tổ chức”.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể quản
lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [12]
.

- 10 -
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: “Quản lý là quá trình tác động của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý thông qua các công cụ, phương tiện để đạt
được mục tiêu quản lý”.
Theo F.Taylor “ Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người

khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất và rẻ nhất“ [5].
Theo Harold Koonzt “ Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
phối hợp những nổ lực cá nhân nhằm đạt được những mục đích của nhóm.
Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó
con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật
chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất “ [37].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Đó là tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể
quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành
và đạt được mục đích của tổ chức [2].
Nói cách khác hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức
bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo
(lãnh đạo) và kiểm tra. Ngƣời quản lý (Manager) là nhân vật có trách nhiệm
phân bố nhân lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận
hay toàn bộ tổ chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích.
Cũng theo tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì quản lý có
bốn chức năng chủ yếu, cơ bản: Kế hoạch hóa (Planning), Tổ chức
(Organizing), Chỉ đạo - Lãnh đạo (Leading) và Kiểm tra (Controlling).
Kế hoạch hóa (Planning): Đó là xác định mục tiêu, mục đích cho những
hoạt động trong tƣơng lai của tổ chức và xác định các biện pháp, cách thức để
đạt đƣợc mục đích đó.
Tổ chức (Organizing): Khi ngƣời quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần
phải chuyển hóa những ý tƣởng ấy thành những hoạt động hiện thực.Tổ chức là
quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ
phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và
đạt đƣợc mục tiêu tổng thể của tổ chức. Ngƣời quản lý phải phối hợp, điều phối
tốt các nguồn nhân lực của tổ chức.
Lãnh đạo (Chỉ đạo) - (Leading) : Sau khi kế hoạch đã đƣợc lập, cơ cấu
bộ máy đã hình thành, nhân sự đã đƣợc tuyển dụng thì phải có ngƣời đứng ra

lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức. Đó là quá trình liên kết, liên hệ với ngƣời khác,

- 11 -
hƣớng dẫn và động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt đƣợc
mục tiêu của tổ chức. Tất nhiên việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc
lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã hoàn tất, mà nó xuyên suốt trong hoạt động
quản lý.
Kiểm tra (Controlling): Đây là hoạt động theo dõi, giám sát các thành
quả hoạt động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết.
Ở mỗi cấp quản lý khác nhau, sự phân phối về thời gian và công sức cho
các chức năng quản trị của các cấp đƣợc thể hiện trong bảng sau:
Stt
Cấp quản lý
Kế hoạch
Tổ chức
Điều khiển
Kiểm tra
Ghi chú
1
Cao cấp
28%
36%
22%
14%

2
Trung gian
18%
33%
36%

13%

3
Cơ sở
15%
24%
51%
10%

Bảng 1.1. Phân phối thời gian và công sức cho các
chức năng quản trị của các cấp [8]
Tóm lại: Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có lựa chọn các
tác động phù hợp với đối tượng và môi trường nhằm hướng đối tượng trong thế
vừa ổn định, vừa phát triển theo mục tiêu đề ra. Quản lý được thực hiện thông
qua các hoạt động: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Khoa học quản lý là một khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn: Tâm
lý học, Xã hội học, Triết học,…
Khoa học quản lý giáo dục (QLGD) là một chuyên ngành của khoa học
quản lý nói chung, đồng thời cũng là bộ phận của khoa học giáo dục, nhƣng là
một khoa học tƣơng đối độc lập.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, khái niệm QLGD là khái niệm đa cấp
(bao hàm cả quản lý hệ giáo dục quốc gia, quản lý các phân hệ của nó, đặc biệt
là quản lý trƣờng học).
“Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch,
hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và
nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học- giáo dục thế
hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [12].


- 12 -
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động
dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất
của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo
dục, tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành
hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước” [6] .
QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
nhằm đƣa hoạt động sƣ phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn
một cách hiệu quả nhất. QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành,
phối hợp các lực lƣợng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển xã hội.
Khái quát lại, nội hàm của khái niệm QLGD chứa đựng những nhân tố
đặc trƣng bản chất sau: Phải có chủ thể quản lý giáo dục, ở tầm vĩ mô là quản
lý của nhà nƣớc mà cơ quan trực tiếp quản lý là Bộ, Sở, Phòng Giáo dục, ở tầm
vi mô là quản lý của hiệu trƣởng nhà trƣờng, quản lý của trƣởng Khoa, trƣởng
bộ môn,
Nhà trƣờng là đối tƣợng cuối cùng và cơ bản nhất của QLGD, trong đó
đội ngũ giáo viên và học sinh sinh viên là đối tƣợng quản lý quan trọng nhất.
1.2.3. Quản lý quá trình dạy học
Quá trình dạy học (QTDH)
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn
bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này luôn tương tác
với nhau, thâm nhập vào nhau và sinh thành ra nhau, sự tương tác giữa dạy và
học mang tính chất cộng tác (cộng đồng và hợp tác), trong đó hoạt động dạy
đóng vai trò chủ đạo” [13].
Theo quan điểm của lý luận dạy học hiện đại, nói quá trình dạy học tồn tại
với tƣ cách là một hệ thống gồm các thành tố cơ bản: mục đích dạy học, nội
dung dạy học, phƣơng pháp, hình thức tổ chức, phƣơng tiện dạy học, kết quả
dạy học, hoạt động của giáo viên, của học sinh sinh viên. Các thành tố này có
mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau trong môi trƣờng xã hội-chính

trị và môi trƣờng khoa học, kỹ thuật nhất định.
Trong quá trình dạy học: Ngƣời thầy luôn giữ vai trò trong việc định
hƣớng tổ chức, điều khiển và thực hiện các hoạt động truyền thụ tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo đến ngƣời học một cách khoa học. Ngƣời học sẽ có ý thức tiếp

- 13 -
thu một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo hệ thống kiến thức, kỹ năng kỹ
xảo, nhằm hình thành năng lực và nhân cách cho bản thân.
Qua đó có thể hiểu QTDH là một hệ toàn vẹn, nó bao gồm hoạt động dạy
và hoạt động học.
Cấu trúc của QTDH đƣợc biểu diễn bằng sơ đồ sau:












Hình 1.2: Cấu trúc chức năng của QTDH [12]
Dạy và học là quá trình tƣơng tác, cộng tác giữa thầy và trò. Chủ thể hoạt
động dạy là thầy giáo, chủ thể hoạt động học là học sinh.
Quá trình vận động tích cực, chủ động, sáng tạo của những chủ thể này
làm phát triển và hoàn thiện năng lực không chỉ của học sinh và còn cả ở thầy
giáo.
Quá trình cộng tác hành động của thầy giáo và học sinh càng nhịp nhàng,

ăn ý, càng làm tăng kết quả của quá trình dạy học, càng làm trƣởng thành
nhanh mỗi cá nhân trong quá trình đó.
Quá trình dạy học là một quá trình xã hội gắn liền với hoạt động của con
ngƣời, hoạt động này phải nhằm mục đích nhất định, trên cơ sở hình thành
những nhiệm vụ nhất định: Thầy và Trò, những phƣơng tiện và phƣơng pháp
hoạt động nhất định và phải đạt đƣợc kết quả mong muốn.
KHÁI NIỆM KHOA HỌC
Dạy
Truyền đạt
Điều khiển
Học
Truyền đạt
Điều khiển
Cộng
Tác

- 14 -
Quản lý quá trình dạy học
Quản lý QTDH là sự tác động hợp quy luật của chủ thể quản lý bằng các
giải pháp phát huy tác dụng của các phƣơng tiện quản lý nhƣ chế định giáo dục
đào tạo, bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học, thông tin và môi trƣờng dạy học
nhằm đạt đƣợc mục tiêu quản lý dạy học. Quản lý QTDH là phải quản lý đồng
bộ và thống nhất các mặt hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu dạy học.
Mục tiêu quản lý trƣờng học là quản lý chất lƣợng sản phẩm giáo dục.
Muốn có sản phẩm giáo dục đạt chất lƣợng, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển
kinh tế - xã hội thì trƣớc hết nhà trƣờng phải tổ chức, điều khiển và kiểm soát
tốt quá trình tổ chức hoạt động dạy và học, vì hoạt động dạy và học là hoạt
động trung tâm của nhà trƣờng nhằm hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh - sản phẩm giáo dục của nhà trƣờng.
Hoạt động dạy học là hoạt động đặc trƣng cho bất kỳ loại hình hoạt động

của nhà trƣờng nào, vì vậy nó là con đƣờng giáo dục tiêu biểu nhất. Với nội
dung và tính chất của nó dạy học là con đƣờng tốt nhất giúp cho ngƣời học với
tƣ cách là chủ thể nhận thức có thể lĩnh hội mọi hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo chuyển thành phẩm chất và năng lực của bản thân. “Các tổ chức xã hội cần
đảm bảo cho mọi người học nhận thức sự nuôi dưỡng, bảo vệ sức khỏe, sự hỗ
trợ chung cho thể chất và tình cảm mà người học cần có để tham gia một cách
tích cực vào quá trình giáo dục và tận hưởng được lợi ích của giáo dục”[10].
Quản lý QTDH là quản lý quá trình truyền thụ kiến thức của đội ngũ giáo
viên và quá trình lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh và quản lý
các điều kiện vật chất, kỹ thuật, phƣơng tiện phục vụ hoạt động dạy học. Quản
lý QTDH là quản lý việc thực hiện chƣơng trình, nội dung dạy học, quản lý
hoạt động kiểm tra đánh giá quá trình lĩnh hội kiến thức của học sinh.
1.2.4. Chất lượng, chất lượng dạy học
Chất lượng
Chất lƣợng là “Tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự
việc), làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác” [35].
Chất lƣợng là “Cái làm nên phẩm chất; là cái tạo nên bản chất của sự
vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia” [35].

- 15 -
Theo tác giả Nguyễn Gia Quí “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá
trị của một người, một sự vật, sự việc. Đó là tổng thể những thuộc tính cơ bản
khẳng định sự tồn tại của một sự vật, phân biệt nó với sự vật khác ” [14].
Chất lƣợng luôn là vấn đề quan trọng trong đời sống xã hội, nhất là trong
giáo dục. Chất lƣợng có hàng loạt định nghĩa khác nhau. Ví dụ: Chất lượng là
sự xuất sắc bẩm sinh, tự nó là cái tốt nhất; Chất lượng là sự phù hợp với tiêu
chuẩn; Chất lượng với tư cách là hiệu quả của việc đạt mục đích của trường
đại học….
Chất lượng giáo dục
Chất lƣợng là một khái niệm trừu tƣợng và khó định nghĩa, thậm chí khó

nắm bắt. Trong một nghiên cứu khá nổi tiếng của Harvey và Green (1993) [38]
nhằm tổng kết những quan niệm chung của các nhà giáo dục, chất lƣợng đƣợc
định nghĩa nhƣ tập hợp các thuộc tính khác nhau nhƣ: chất lƣợng là sự xuất
sắc; chất lƣợng là sự hoàn hảo; chất lƣợng là sự phù hợp với mục tiêu,
Chất lƣợng giáo dục là chất lƣợng thực hiện các mục tiêu giáo dục. Chất
lƣợng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo đƣợc phản ánh ở các đặc trƣng
về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề
của ngƣời tốt nghiệp tƣơng ứng với mục tiêu, chƣơng trình đào tạo theo các
ngành nghề cụ thể.
Các nhà giáo dục Việt Nam cũng đƣa ra một số định nghĩa khác nhau,
nhƣng các định nghĩa này thƣờng trùng với các định nghĩa của nƣớc ngoài. Tác
giả Nguyễn Đức Chính [3, 4], có đƣa ra định nghĩa về chất lƣợng của giáo dục
Việt Nam nhƣ sau: “Chất lượng giáo dục được đánh giá qua mức độ trùng
khớp với mục tiêu định sẵn”. Định nghĩa này tƣơng đồng với quan niệm về chất
lƣợng của hầu hết các nhà giáo dục khác và các tổ chức đảm bảo chất lƣợng
trên thế giới.
Chất lượng dạy học
“Chất lượng dạy học chính là chất lượng của người học hay tri thức phổ
thông mà người học lĩnh hội được. Vốn học vấn phổ thông, toàn diện và vững
chắc ở mỗi người là chất lượng đích thực của dạy học” [15].
Chất lƣợng dạy học là chất lƣợng của việc dạy và việc học. Sự phát huy
tối đa nội lực dạy của thầy và năng lực học của học sinh, để sau khi ra trƣờng
thì học sinh có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội, của
thực tế cuộc sống. Chất lƣợng dạy bao gồm các công việc của ngƣời thầy đó là:

- 16 -
chuẩn bị giáo án, thực hiện giáo án, đánh giá kết quả và điều chỉnh phƣơng
pháp dạy. Chất lƣợng học là kết quả học tập của học sinh trong nhà trƣờng:
chuẩn bị bài ở nhà, tiếp thu kiến thức ở trên lớp, tự đánh giá kết quả và tự điều
chỉnh phƣơng pháp học. Chất lƣợng dạy học ở trƣờng đào tạo (THCN, CĐ,

ĐH) đƣợc đánh giá chủ yếu về hai mặt là kiến thức ngƣời học lĩnh hội đƣợc và
kỹ năng nghề nghiệp ngƣời học đạt đƣợc. Chất lƣợng dạy học liên quan chặt
chẽ đến yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Sản phẩm của dạy học
đƣợc xem là có chất lƣợng cao nếu nó đáp ứng tốt nhất mục tiêu giáo dục mà
yêu cầu kinh tế - xã hội đặt ra đối với giáo dục đào tạo. Chất lƣợng dạy học là
một bộ phận quan trọng hợp thành của chất lƣợng giáo dục và đƣợc quan tâm
nhƣ là kết quả giảng dạy và học tập.
1.3. Ứng dụng CNTT&TT trong giáo dục
1.3.1. Công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục
Chúng ta bƣớc vào thế kỷ 21 với sự phát triển nhanh chóng của các công
nghệ cao: công nghệ sinh học (công nghệ gen, tế bào, vi sinh…), công nghệ vật
liệu (công nghệ vật liệu Composit, vật liệu siêu dẫn…), công nghệ năng lƣợng
(năng lƣợng mặt trời, năng lƣợng nguyên tử… ) và công nghệ thông tin
[
1
]
.
Trong các công nghệ trên thì công nghệ thông tin (CNTT) có tốc độ phát triển
nhanh nhất và giữ vai trò là công cụ phổ biến để làm việc, để thu thập, lƣu trữ,
truyền và xử lý thông tin; để nghiên cứu triển khai các thành tựu của các công
nghệ khác vào sản xuất và đời sống. Tới nay, sự hội tụ của CNTT và các công
nghệ truyền thông (TT) đã hình thành lên thuật ngữ CNTT&TT.
Những thành tựu mới của khoa học công nghệ nửa cuối thế kỷ 20 đang
làm thay đổi hình thức và nội dung các hoạt động kinh tế, văn hoá và xã hội
của loài ngƣời. Một số quốc gia phát triển đã bắt đầu chuyển từ văn minh công
nghiệp sang văn minh thông tin. Các quốc gia đang phát triển tích cực áp dụng
những tiến bộ mới của khoa học công nghệ, đặc biệt là CNTT&TT để phát
triển và hội nhập. CNTT&TT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự
phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu
sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại.

CNTT&TT đã trở thành một yếu tố then chốt làm thay đổi các hoạt động
kinh tế và xã hội của con ngƣời, trong đó có giáo dục. Nhờ có việc ứng dụng


1
Công nghệ thông tin (CNTT): là tập hợp các phƣơng pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện
đại để sản xuất, truyền đƣa, thu thập, xử lý, lƣu trữ và trao đổi thông tin số (theo điều 4, Luật CNTT của
nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2006).

- 17 -
công nghệ thông tin, đa phƣơng tiện và học tập điện tử (E-Learning) đang ngày
càng đƣợc ứng dụng rộng rãi trong quá trình dạy học ở nhiều nƣớc trên thế
giới. Ứng dụng và phát triển CNTT&TT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra
một bƣớc chuyển cơ bản trong quá trình cập nhật kịp thời và thƣờng xuyên các
tiến bộ khoa học và công nghệ trong nội dung chƣơng trình đào tạo, đổi mới
phƣơng pháp giảng dạy để nâng cao tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
học sinh để nâng cao chất lƣợng dạy học.
Vai trò của CNTT&TT đối với giáo dục và đào tạo là rất to lớn. Ngày
nay, do những ƣu việt của nó, CNTT&TT đƣợc sử dụng rộng rãi đến mức khó
có thể thiếu đƣợc trong việc thu thập, xử lý, trao đổi, lƣu trữ, tra cứu và sử
dụng thông tin quản lý. Với những ƣu việt của việc ứng dụng CNTT&TT trong
quản lý, ngày nay đã có một ngành khoa học đƣợc gọi là MIS (Management
Information System), đƣợc nghiên cứu về khoa học thu thập, phân tích và xử lý
hệ thống thông tin quản lý cho các ngành kinh tế-xã hội, trong đó có giáo dục.
Ngày nay, xã hội đã, đang và sẽ phải đối diện với cái gọi là “văn hoá
Internet, văn hóa mạng, văn hóa Blog”, điều đó cho thấy nếu giáo dục và đào
tạo không bắt kịp với sự những ứng dụng của CNTT&TT sẽ khó có thể đáp
ứng đƣợc yêu cầu của xã hội về vai trò giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn
nhân lực cho xã hội. Hạ tầng CNTT&TT phải đi trƣớc và đủ mạnh đáp ứng
việc ứng dụng và phát triển CNTT&TT trong giáo dục và đào tạo.

1.3.2. Ứng dụng CNTT&TT trong dạy học
Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, các thiết bị dạy học ngày
càng đa dạng nhƣ:
- Phim đèn chiếu
- Bản trong dùng cho máy chiếu qua đầu
- Băng, đĩa ghi âm
- Băng hình, đĩa hình
- Phần mềm dạy học
- Giáo án điện tử, bài giảng điện tử
- Trang Web học tập
- Phòng thí nghiệm ảo
- Mô hình dạy học điện tử
- Thƣ viện điện tử, thƣ viện ảo.


- 18 -
Các loại hình thiết bị dạy học trên đều có đặc điểm chung và khác biệt là
muốn khai thác lƣợng thông tin chứa đựng trong từng thiết bị phải có thêm các
máy móc chuyên dùng tƣơng ứng. Tất cả các hệ thống đó ngƣời ta quen gọi là
hệ thống dạy học đa phƣơng tiện.
So với các thiết bị dạy học truyền thống thì các hệ thống dạy học đa
phƣơng tiện có một số đặc điểm khác [17], đó là:
1. Mỗi hệ thống dạy học đa phƣơng tiện bao gồm 2 khối: Khối mang
thông tin và Khối chuyển tải thông tin tƣơng ứng.
Khối mang thông tin Khối chuyển tải thông tin tƣơng ứng
Phim Slide, phim chiếu bóng > Máy chiếu Slide, máy chiếu phim
Bản trong > Máy chiếu qua đầu
Băng, đĩa ghi âm > Radio Cassette, Đầu đĩa CD, Máy tính
Băng, đĩa ghi hình > Video, Đầu đĩa hình, Máy tính, Máy
đa năng, Màn chiếu

Phần mềm dạy học > Máy tính, Máy chiếu đa năng,
Màn chiếu, Bảng kỹ thuật số
Giáo án điện tử/Giáo án
kỹ thuật số, Bài giảng điện tử,
Trang Web học tập > Máy tính, Máy chiếu đa
năng, Màn chiếu, Bảng kỹ thuật số
2. Phải có điện lƣới quốc gia.
3. Đắt gấp nhiều lần các thiết bị dạy học truyền thống.
4. Phải có trình độ sử dụng và bảo quản tốt.
5. Phải có phòng ốc chuyên biệt để lắp đặt, sử dụng và bảo quản.
Cơ sở của việc cải tiến phƣơng pháp dạy học là sự lựa chọn phƣơng pháp
dạy học thích hợp cho từng bài học. Sau đó là việc nghiên cứu áp dụng những
phƣơng pháp và phƣơng tiện thích hợp để dạy và học.
Sử dụng hệ thống đa phƣơng tiện trong dạy học mang lại cho chúng ta
nguồn thông tin phong phú và sinh động, bài giảng trở nên trực quan hơn, giảm
bớt tính trừu tƣợng, bài giảng sống động hơn, thu hút sự tập trung, niềm say mê
hứng thú của ngƣời học, làm cho ngƣời học dễ hiểu và nhớ lâu.

- 19 -
Việc sử dụng hệ thống đa phƣơng tiện vào dạy học góp phần chống dạy
chay và học chay trong điều kiện cơ sở vật chất, và thiết bị phòng thí nghiệm,
phòng thực hành còn thiếu thốn và lạc hậu nhƣ hiện nay.
Ngày nay, ứng dụng CNTT&TT trong môi trƣờng dạy học đa phƣơng tiện
đã trở thành một yếu tố quan trọng, là một công cụ hữu hiệu để góp phần đổi
mới phƣơng pháp dạy học nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học. Nó làm tăng
tính tích cực, chủ động của ngƣời học trong quá trình lĩnh hội tri thức mới.
1.3.3. Ứng dụng CNTT&TT trong Dạy học trực tuyến
Nền giáo dục đại học đang gặp phải thách thức đó là phải đáp ứng đƣợc
sự đa dạng hóa của nhu cầu học tập và sự tăng nhanh về số lƣợng học viên. Các
nhà giáo dục đang tìm kiếm một mô hình dạy học bao gồm việc sử dụng công

nghệ và các phƣơng thức dạy học khác để hỗ trợ mô hình giáo dục truyền
thống. Các mô hình ĐTTX đã lần lƣợt ra đời sau đó đã đáp ứng đƣợc nhu cầu
đào tạo. ĐTTX chỉ thực sự có chất lƣợng khi áp dụng tối đa những thành tựu
của CNTT&TT và khi đó mô hình DHTT dần đƣợc hình thành và phát triển,
mà cốt lõi là kho tƣ liệu số hóa, và các bài giảng điện tử [11].
Một mô hình DHTT dựa trên nền tảng của công nghệ Web đƣợc ứng dụng
phổ biến trong kỷ nguyên trƣớc đã góp phần tác động quan trọng đến quá trình
dạy và học trong môi trƣờng đào tạo qua mạng Internet [39].
Ngày nay, cùng với sự phát triển và ứng dụng của CNTT&TT vào giáo
dục và đào tạo, học tập điện tử (E-Learning) đã trở nên quen thuộc và thuận
tiện với nhiều đối tƣợng ngƣời học. Tuy vậy, E-Learning không thể thay thế
hoàn toàn phƣơng thức học tập truyền thống. Chúng ta phải biết kết hợp cả hai
phƣơng thức học tập: E-Learning và giáo dục truyền thống để có thể đem lại
hiệu quả cao nhất.
1.4. Đào tạo từ xa
1.4.1. Công nghệ giáo dục, công nghệ dạy học
Khái niệm công nghệ giáo dục theo nghĩa hẹp [1], thƣờng đồng nhất với
việc sử dụng trong giáo dục các phát minh, các sản phẩm công nghệ hiện đại và
các phƣơng tiện kỹ thuật dạy học.
Khái niệm công nghệ giáo dục theo nghĩa rộng, thƣờng đƣợc hiểu là khoa
học về giáo dục và có phạm vi rất rộng. Ví dụ, theo tổ chức UNESCO, tại hội
thảo ở Giơnevơ từ 10-16/5/1970 đã đƣa ra định nghĩa nhƣ sau: ”Công nghệ

- 20 -
giáo dục là khoa học về giáo dục, nó xác lập xác nguyên tắc hợp lý của công
tác dạy học và những điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành quá trình đào tạo
cũng như xác lập các phương pháp và phương tiện có kết quả nhất để đạt mục
đích đào tạo đề ra, đồng thời tiết kiệm được sức lực của thầy và trò”.
Một ví dụ khác, theo Janskieviz (Balan, 1971): “ Công nghệ dạy học là hệ
thống các chỉ dẫn sử dụng các phương pháp, phương tiện hoạt động, mà kết

quả là phải đào tạo được những người tốt nghiệp theo mong muốn trong thời
gian ngắn nhất có thể được, với sự chi phí phương tiện một cách tối ưu” [1].
1.4.2. Đào tạo từ xa
Giáo dục từ xa
Hiện nay, có nhiều thuật ngữ đƣợc sử dụng để mô tả khái niệm giáo dục -
đào tạo từ xa, chẳng hạn nhƣ Giáo dục mở, Giáo dục từ xa, Dạy từ xa, Học từ
xa, Đào tạo từ xa hoặc giáo dục ở xa Cho dù với khái niệm nào thì bản chất
quá trình dạy và học phải bao hàm yếu tố có sự tách biệt, ngăn cách về mặt
không gian hoặc/và thời gian.
Theo nhiều học giả trên thế giới thì “Giáo dục từ xa là một quá trình giáo
dục - đào tạo mà trong đó phần lớn hoặc toàn bộ quá trình giáo dục - đào tạo
có sự tách biệt giữa người dạy và người học về mặt không gian hoặc/và thời
gian” [20].
Nhìn chung, để giáo dục từ xa thực sự có hiệu quả đòi hỏi ngƣời học phải
ở một mức độ tự nhận thức nhất định. Chính vì vậy, thuật ngữ đào tạo từ xa
thƣờng đƣợc sử dụng hơn khi nói về các hoạt động giáo dục, đào tạo liên quan.
Đào tạo từ xa (ĐTTX)
Không có một định nghĩa chính xác về ĐTTX. Tuy nhiên một cách tổng
quát, ĐTTX là hoạt động dạy học diễn ra một cách gián tiếp theo phương pháp
dạy học từ xa. ĐTTX đƣợc hiểu bao hàm các yếu tố dƣới đây:
1. Giảng viên và học viên ở một khoảng cách xa (tức là có sự ngăn
cách về mặt không gian: khoảng cách này là tƣơng đối, có thể là
cùng trƣờng học nhƣng khác phòng học hoặc khác nhau về vị trí
địa lý, có thể vài kilomet hoặc hàng ngàn kilomet).
2. Nội dung dạy học trong quá trình dạy học được truyền thụ, phân
phối tới cho học viên chủ yếu thông qua các hình thức thể hiện
gián tiếp nhƣ văn bản in, âm thanh, hình ảnh hoặc số liệu máy tính.

- 21 -
3. Sự liên hệ, tương tác giữa giảng viên và học viên (nếu có) trong

quá trình dạy học có thể đƣợc thực hiện tức thời hoặc trễ sau một
khoảng thời gian nào đó (có sự ngăn cách về mặt thời gian).
Tuỳ theo phƣơng thức phân phối các nội dung dạy học và sự liên hệ,
tƣơng tác giữa giảng viên và học viên mà có các hình thức tổ chức, thực hiện
ĐTTX khác nhau. Về cơ bản ngƣời ta phân loại đào tạo từ xa dựa trên cơ sở
mối quan hệ giữa giảng viên và học viên trong quá trình dạy học, đó là Đào tạo
từ xa không tƣơng tác [40] và Đào tạo từ xa tƣơng tác (nay đƣợc gọi một cách
phổ dụng là đào tạo từ xa trực tuyến).

1.4.3. Đào tạo từ xa không tương tác
ĐTTX không tƣơng tác (Non-Interactive/Asynchronous), có nghĩa là
không có sự tƣơng tác theo thời gian thực, trực tiếp giữa giảng viên và học viên
trong quá trình dạy học. Trong ĐTTX không tƣơng tác, có các phƣơng thức
đƣợc sử dụng điển hình nhƣ:
- Tài liệu, bài giảng in (Print): Đây là công nghệ cổ điển, truyền thống
nhất, dễ thực hiện nhất và đặc biệt là rẻ tiền nhất. Loại hình tài liệu, bài giảng
in sẽ tồn tại lâu dài dù cho trong tƣơng lai có các công nghệ ĐTTX tiên tiến
nào khác sẽ đƣợc sử dụng.
- Băng/đĩa hình, băng/đĩa tiếng (Audio/Video Tape, Disk): Đây cũng là
một công nghệ ĐTTX đƣợc sử dụng phổ biến trong những thập niên trƣớc,
trong tƣơng lai công nghệ này sẽ không phát triển nhiều, hoặc nếu có chỉ đƣợc
sử dụng là một hình thức bổ trợ cho các công nghệ khác.
- Các chương trình máy tính, các công cụ mô phỏng (đĩa mềm, CD-ROM,
Multimedia ): Công nghệ này dựa vào các ứng dụng mô phỏng của kỹ thuật
máy tính để triển khai các bài giảng hoặc các tài liệu huấn luyện.
- Phương tiện phát thanh, truyền hình quảng bá (Broadcasting): Công
nghệ này sử dụng các đài phát thanh, truyền hình để thực hiện ĐTTX. Ƣu điểm
của công nghệ này là cùng lúc có thể giảng dạy cho số lƣợng rất lớn học viên.
Khả năng tiếp cận của ngƣời học cũng rất phong phú, tiện lợi.
- Mạng Intranet, Internet (Web, Mail, E-learning ): Đây đƣợc coi là

công nghệ đào tạo từ xa của thế kỷ 21. Sự kết hợp của công nghệ này với các
công nghệ đào tạo tƣơng tác dƣới đây sẽ hình thành nên các hệ thống học tập
điện tử (E-learning) đang đƣợc nói phổ biến hiện nay.

- 22 -
1.4.4. Đào tạo từ xa tương tác, đào tạo từ xa trực tuyến
ĐTTX tƣơng tác (Interactive/Synchronous) có nghĩa là có sự tƣơng tác
theo thời gian thực, trực tiếp giữa giảng viên và học viên trong quá trình dạy
học. Trong đào tạo từ xa trực tuyến (ĐTTT), có một số phƣơng thức tổ chức
đào tạo sử dụng các công nghệ điển hình nhƣ ở dƣới đây:
- Radio hai chiều; điện thoại hội nghị : Công nghệ này đƣợc dùng nhiều
cho các chƣơng trình giáo dục phổ cập hơn là đào tạo cho ngƣời trƣởng thành.
Nó cũng đƣợc dùng nhiều nhƣ là hình thức bổ trợ cho các công nghệ đào tạo
khác, ƣu điểm nổi bật là giá thành rẻ.
- Cầu truyền hình: Sử dụng các bộ mã hóa và giải mã truyền hình (Tivi
Codec) hoạt động ở tốc độ cao (hàng Mbit/s), nhƣ các cầu truyền hình mà
chúng ta vấn thƣờng xem trong các dịp lễ tết trong những năm qua, giá thành
của công nghệ này là đắt, thƣờng chỉ sử dụng cho nghiên cứu, cho các hoạt
động truyền hình cần có chất lƣợng âm thanh và hình ảnh rất cao.
- Hội nghị truyền hình (Video Conferencing): Sử dụng kết hợp công nghệ
máy tính, viễn thông và truyền hình. Vấn đề trọng tâm của hội nghị truyền hình
là các bộ mã hoá âm thanh và hình ảnh với hệ số nén rất cao. Giá thành của
công nghệ này phụ thuộc vào yêu cầu chất lƣợng hình ảnh, âm thanh. Nhƣng
nhìn chung là phù hợp với các doanh nghiệp, hoặc cá nhân có khả năng tài
chính nhất định.
- Mạng Intranet, Internet (Chat, Webcam, ): ĐTTX tƣơng tác sử dụng
mạng Intranet, Internet thƣờng phù hợp với hình thức tổ chức đào tạo cho cá
nhân hoặc nhóm nhỏ. Công nghệ này rất rẻ và đang phổ biến trong lĩnh vực
ĐTTX hiện nay.
Trên cơ sở các phƣơng thức ĐTTX vừa nêu, có thể diễn giải một cách

tổng quát về ĐTTT nhƣ sau: “ Đào tạo trực tuyến là một phương thức giáo
dục - đào tạo dựa trên cơ sở của kỹ thuật nghe nhìn, CNTT&TT; quá trình
tương tác giữa giảng viên và người học được thực hiện theo thời gian thực
thông qua các phương tiện CNTT&TT”.
1.4.5. Học tập điện tử (E-learning)
Khái niệm E-Learning hiện nay đang đƣợc sử dụng rộng rãi. Có nhiều
quan điểm, định nghĩa khác nhau về E-Learning. Theo Website từ điển bách
khoa toàn thƣ mở: “Học tập trực tuyến (Hay còn gọi là E-Learning) là phương
thức học ảo thông qua một máy vi tính nối mạng đối với một máy chủ ở nơi

- 23 -
khác có lưu giữ sẵn giáo trình và phần mềm cần thiết để có thể hỏi/yêu cầu/ra
đề cho học viên học trực tuyến từ xa. Hoặc giáo viên có thể truyền tải hình ảnh
và âm thanh qua đường truyền cáp quang; băng thông rộng (ADSL) hoặc kết
nối không dây (WiFi, WiMAX), mạng nội bộ (LAN) v.v…Mở rộng ra, các cá
nhân hay các tổ chức đều có thể tự lập ra một trường học trực tuyến (E-
School), mà nơi đó vẫn nhận đào tạo học viên, đóng học phí và có các bài kiểm
tra như các trường học khác” [41].
Dƣới đây sẽ trích ra một số định nghĩa về E-Learning tiêu biểu [42]:
- Theo William Horton, E-Learning là sử dụng các công nghệ Web và
Internet trong học tập.
- Theo Compare Infobase Inc, E-Learning là một thuật ngữ dùng để mô tả
việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông.
- Theo MASIE Center, E-Learning nghĩa là việc học tập hay đào tạo đƣợc
chuẩn bị, truyền tải hoặc quản lý sử dụng nhiều công cụ của công nghệ
thông tin, truyền thông khác nhau và đƣợc thực hiện ở mức cục bộ hay
toàn cục.
- Theo Sun Microsystems Inc, E-Learning là việc học tập đƣợc truyền tải
hoặc hỗ trợ qua công nghệ điện tử, việc truyền tải qua nhiều kĩ thuật
khác nhau nhƣ Internet, Tivi, Video Tape, các hệ thống giảng dạy thông

minh và việc đào tạo dựa trên máy tính.
- Theo , E-Learning là việc truyền tải các
hoạt động, quá trình, sự kiện đào tạo và học tập thông qua các phƣơng
tiện điện tử nhƣ Internet, Intranet, Extranet, CD-ROM, Video Tape,
DVD, Tivi và các thiết bị cá nhân
- Theo định nghĩa của Lance Dublin, hƣớng tới E-Learning trong doanh
nghiệp, "E-Learning chính là việc sử dụng công nghệ để tạo ra, đƣa các
dữ liệu có giá trị, thông tin, học tập và kiến thức với mục đích nâng cao
hoạt động của tổ chức và phát triển khả năng cá nhân”.
Hình vẽ dƣới đây mô tả kiến trúc của một hệ thống E-Learning:

- 24 -


Hình 1.4: Kiến trúc hệ thống E-Learning

Từ kiến trúc hệ thống E-Learning cho chúng ta thấy:
- Học tập sẽ dựa trên mạng Internet là chủ yếu, thông qua World Wide
Web (WWW).
- Hệ thống E-Learning sẽ đƣợc tích hợp vào Portal của trƣờng học hoặc
doanh nghiệp. Nhƣ vậy hệ thống E-Learning sẽ phải tƣơng tác tốt với
các hệ thống khác trong trƣờng học nhƣ hệ thống quản lý sinh viên, hệ
thống quản lý giáo viên, lịch giảng dạy…
- Một thành phần rất quan trọng của hệ thống chính là hệ thống quản lý
học tập (LMS: Learning Management System), gồm nhiều Module khác
nhau, giúp cho quá trình học tập trên mạng đƣợc thuận tiện và dễ dàng
phát huy hết các điểm mạnh của mạng Internet nhƣ:
+ Diễn đàn để trao đổi ý kiến giữa các thành viên của một lớp hoặc
giáo viên đƣa câu hỏi lên diễn đàn và yêu cầu các học viên trả lời.
+ Module khảo sát lấy ý kiến của mọi ngƣời về một vấn đề nào đó

+ Module kiểm tra và đánh giá
+ Module Chat trực tuyến: giáo viên giảng giải một vấn đề gì đó cho
các học viên thông qua Chat.
Forum
Survey
Quiz
Kết nối điện tử
Các công cụ
Chat
Audio
Video
HỆ THỐNG
QUẢN LÝ HỌC TẬP

- Hoạt động quản lý
- Kế hoạch bài giảng
- Kiểm duyệt
Người học
Biên tập nội dung
Kiểm duyệt
Kho chứa các
đối tƣợng học tập

×