Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

CÁC NHÂN tố ẢNH HƯỞNG đến đói NGHÈO ở các hộ GIA ĐÌNH VÙNG BIÊN GIỚI tây NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.91 KB, 22 trang )

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÓI NGHÈO
Ở CÁC HỘ GIA ĐÌNH VÙNG BIÊN GIỚI TÂY NAM
1. Vấn đề nghiên cứu
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa của cả nước. Hàng năm, ĐBSCL sản xuất
một lượng lương thực lớn không những đủ tiêu dùng cho cả nước mà còn mang đi xuất
khẩu. Tuy được thiên nhiên ưu đãi với đất đai màu mỡ và là nơi được mệnh danh là
vựa lúa của Việt Nam nhưng đến năm 2004, toàn vùng có đến 19,5% dân số sống ở
mức nghèo theo chuẩn của chính phủ Việt Nam. Đói nghèo luôn là một trong những
nguyên nhân chính gây ra sự bất ổn về mọi mặt.
Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, người nghèo thường tập trung sống ở các
huyện dọc biên giới (Nicholas Minot, Bob Baulch và Michael Epprecht, 2003). Vì
vậy, khi cơm ăn chưa đủ no, áo mặc chưa đủ ấm thì người dân dễ bị lôi kéo vào các
hoạt động phạm pháp như buôn lậu, tàng trữ hàng lậu và liên quan nhiều vấn đề chính
trị, xã hội khác.v.v. Nhận thức được vấn đề này, hàng năm các cấp chính quyền từ
trung ương đến địa phương đã triển khai hàng loạt các chương trình trọng điểm của
quốc gia để đầu tư vào các huyện giáp biên giới nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đẩy nhanh tốc độ xóa đói, giảm nghèo.
Để cho việc xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả như mong đợi thì việc xác định
nguyên nhân của nghèo đói có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Luận văn này là nỗ lực của
tác giả trong việc đi tìm những nguyên nhân đói nghèo vùng biên giới Tây Nam. Hy
vọng, kết quả của nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học tin cậy cho các cấp chính quyền
hoạch định và lựa chọn chính sách để đẩy nhanh tốc độ xóa đói giảm nghèo ở vùng
nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu các nguyên nhân ảnh hưởng đến đói nghèo của các hộ dân vùng biên
giới Tây Nam.
1
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Phân tích thực trạng nghèo đói của các hộ gia đình vùng biên giới Tây Nam.
- Xác định các nhân tố chính ảnh hưởng đến thu nhập và nghèo đói. Từ đó giúp


cho chính quyền có giải pháp phù hợp để xóa đói, giảm nghèo ở vùng nghiên cứu.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và không nghèo ở vùng biên giới
Tây Nam là gì ?
- Các nhân tố nào ảnh hưởng đến việc tăng chi tiêu của các hộ gia đình?
- Các yếu tố nào có ảnh hưởng đến đói nghèo của các hộ gia đình ?
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Trình độ học vấn chủ hộ, gia đình có nhiều người phụ thuộc, thiếu đất sản xuất,
thuộc nhóm dân tộc ít người là sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và không
nghèo ở vùng biên giới Tây Nam.
- Trình độ học vấn chủ hộ, gia đình có nhiều người phụ thuộc, thiếu đất sản xuất,
thuộc nhóm dân tộc ít người, không tiếp cận được nguồn vốn vay chính thức là các
nhân tố chính ảnh hưởng đến việc tăng thu nhập và sự đói nghèo của các hộ dân ở khu
vực này.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Chọn các hộ gia đình trong khu vực nông thôn của 04 tỉnh, 23 huyện, thị xã gần
với viên giới Tây Nam bao gồm:
Bảng 1. Các huyện thị trong vùng nghiên cứu
Tỉnh Huyện/Thị xã
Kiên Giang Kiên Lương, Hòn Đất, Thị Xã Hà Tiên
An Giang Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Phú Tân,
TX Châu Đốc
Đồng Tháp Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông, Thanh Bình
Long An Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa,
Đức Huệ, Đức Hòa, Thủ Thừa, Bến Lức
- Thời gian nghiên cứu dựa trên bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư năm 2006
do Tổng cục thống kê thực hiện.
2
Hình 1. Bản đồ vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng nghiên cứu
6. Cơ sở lý thuyết về nghèo đói

6.1 Các định nghĩa về nghèo đói
Tại hội nghị Thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen,
Đan Mạch năm 1995 định nghĩa: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp
hơn dưới 1 đô la (USD) một ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua
những sản phẩm thiết yếu để tồn tại” (N.T.Hoai, 2005).
NHTG định nghĩa nghèo đói bao gồm tình trạng thiếu thốn các sản phẩm và dịch
vụ thiết yếu như giáo dục, y tế, dinh dưỡng. Đến năm 2000 và 2001, NHTG đã thêm
vào khái niệm tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội hay tình trạng dễ bị tổn thương. Xét về
mặt phúc lợi, nghèo có nghĩa là khốn cùng. Nghèo có nghĩa là đói, không có nhà cửa,
quần áo, ốm đau và không có ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường. Nhưng
Vùng nghiên cứu
3
đối với người nghèo, sống trong cảnh bần hàn còn mang nhiều ý nghĩa hơn thế. Người
nghèo đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất thường nằm ngoài khả năng
kiểm soát của họ (NHTG, 1990).
Như vậy, có thể thấy, khái niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của
từng quốc gia, vùng hay từng cộng đồng dân cư nhìn chung không có sự phân biệt
đáng kể. Hầu hết các tiêu chí xác định nghèo đói đều dùng mức thu nhập hay chi tiêu
đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của con người như: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn
hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau thường là ở chỗ mức độ thỏa mãn cao hay
thấp phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán
của từng vùng, từng quốc gia và các tiêu chí để xác định nghèo đói cũng biến đổi theo
thời gian.
Tại Việt Nam chính phủ đã thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị
chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng
Cốc, Thái Lan tháng 9/1993, theo đó: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không
được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập
quán của địa phương”(N.T.Hoài, 2005)
Như vậy, tất cả những định nghĩa về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba khía

cạnh chủ yếu của người nghèo:
- Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư;
- Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con
người trong cộng đồng đó;
- Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
6.1.1 Nghèo tuyệt đối
Khái niệm nghèo tuyệt đối được hiểu là một người hoặc một hộ gia đình khi có
mức thu nhập của họ thấp hơn tiêu chuẩn tối thiểu (mức thu nhập tối thiểu) được quy
định bởi một quốc gia hoặc tổ chức quốc tế trong khoảng thời gian nhất định.
(a) Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế do Tổng cục Thống
kê, Ngân hàng thế giới xác định và được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống
dân cư ở Việt Nam (năm 1992-1993 và năm 1997-1998). Đường đói nghèo ở mức thấp
4
gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm. Đường đói nghèo thứ hai ở mức cao
hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và
phi lương thực, thực phẩm).
Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định theo chuẩn mà hầu hết
các nước đang phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan khác đã xây
dựng mức Kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn về nhu cầu
2.100 Kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt
được lượng Kcal này gọi là nghèo về lương thực, thực phẩm.
Đường đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực,
thực phẩm. Tính cả chi phí này với đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm ta có
đường đói nghèo chung.
(b) Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo
quốc gia
Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo. Chuẩn nghèo
giai đoạn 2006-2010 đã được xây dựng trên 3 yêu cầu: (i) xóa đói giảm nghèo toàn
diện hơn, (ii) công bằng hơn và (iii) hội nhập theo chuẩn nghèo quốc tế. Theo đó,

những hộ gia đình ở nông thôn có mức thu nhập bình quân dưới 200.000
đồng/người/tháng (2,4 triệu đồng/người/năm) được coi là hộ nghèo. Ở khu vực thành
thị, những hộ có mức thu nhập bình quân dưới 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3,12
triệu đồng/người/năm) được coi là hộ nghèo (Đây cũng là phương pháp xác định hộ
nghèo được Bộ LĐTBXH áp dụng).
(c) Nghèo tương đối
Theo Đ.P.Hổ (2006), Nghèo đói tương đối là tình trạng mà một người hoặc một
hộ gia đình thuộc về nhóm người có thu nhập thấp nhất trong xã hội xét theo không
gian và thời gian nhất định. Như vậy, nghèo đói tương đối được xác định trong mối
tương quan xã hội về tình trạng thu nhập với nhóm người. Ở bất kỳ xã hội nào, luôn
luôn tồn tại nhóm người có thu nhập thấp nhất trong xã hội, do đó cũng theo khái
nhiệm này thì người nghèo đói tương đối sẽ luôn hiện diện bất kể trình độ phát triển
kinh tế nào.
Hộ gia đình là nghèo được định nghĩa là nếu mức độ chi tiêu bình quân đầu
người nằm trong 20% thấp nhất của chi tiêu hoặc 20% dân số có mức chi tiêu thấp
5
nhất. Lợi thế chính của phương pháp này là nó cho phép người ta xác định được rõ
hơn các nhân tố làm tách biệt các hộ giàu với các hộ có thu nhập gần bằng hoặc thấp
hơn giá trị trung vị.
6.2 Các thước đo chỉ số nghèo đói và bất bình đẳng
6.2.1 Chỉ số đếm đầu (P
0
) – Tỷ lệ hộ (người) nghèo
Thước đo được dùng rộng rãi nhất là chỉ số đếm đầu, chỉ số này đơn giản là đo tỷ
lệ người được tính là nghèo, thường ký hiệu là P
0
với công thức sau:

=
=≤=

N
i
p
i
N
N
zyI
N
P
1
0
)(
1
Trong đó:
- N là tổng số hộ hay tổng dân số và
- I(y
i
≤ z) là hàm chỉ thị có giá trị bằng 1 khi biểu thức trong ngoặc là đúng và
ngược lại không đúng là 0. Vì vậy nếu chi tiêu (yi) nhỏ hơn chuẩn nghèo
(z), thì I(y
i
≤ z) bằng 1 và hộ gia đình đó được tính là nghèo.
- Np là tổng số người nghèo.
Chỉ số đếm đầu người là công thức đơn giản, dễ tính toán và dễ hiểu, đây là
những đặc trưng quan trọng. Tuy nhiên, chỉ số không chỉ ra mức độ trầm trọng của đói
nghèo, không phản ánh được mức độ đói nghèo, hay sự chênh lệch giữa chi tiêu so với
đường chuẩn nghèo.
6.2.2 Chỉ số khoảng cách nghèo
Một thước đo nghèo phổ biến là chỉ số khoảng cách nghèo (P
1

), chỉ số xác định
mức độ thiếu hụt chung về thu nhập/chi tiêu của hộ nghèo (người nghèo) so với chuẩn
nghèo và được tính bằng phần trăm thiếu hụt bình quân so với chuẩn nghèo.

=
=
N
i
i
Z
G
N
P
1
1
1
Trong đó: Gi (khoảng cách nghèo) là phần chênh lệch giữa chuẩn nghèo (z) và
thu nhập (chi tiêu) thực tế (y
i
) của người nghèo, khoảng cách được coi là bằng không
đối với bất kỳ ai khác không nghèo. G
i
= (z – y
i
)*I(y
i
≤ z)
Thước đo này là tỷ lệ khoảng cách nghèo bình quân trong dân cư (trong đó người
không nghèo có khoảng cách bằng không). Đây cũng có thể coi là chi phí giảm nghèo
đói (tương đối so với chuẩn nghèo), bởi vì nó cho biết cần phải chuyển bao nhiêu cho

6
người nghèo để mang lại cho người nghèo có thu nhập (chi tiêu) vượt lên chuẩn
nghèo. Chi phí tối thiểu giảm nghèo đói dùng chuyển tiền đúng mục tiêu đơn giản là
tổng toàn bộ khoảng cách nghèo trong dân cư. Mỗi khoảng cách nghèo được lấp đầy
đến chuẩn nghèo.
Chỉ số này có thể cho ta thấy chi phí giảm nghèo đói tối đa. Từ công thức của chỉ
số, có thể xem xét tỉ lệ chi phí giảm nghèo đói tối thiểu đúng mục tiêu với chi phí tối
đa không đúng mục tiêu (tức là chuẩn nghèo z, liên quan đến việc cung cấp cho mọi
người đủ tin rằng họ không nằm dưới chuẩn nghèo). Do đó thước đo này là một chỉ
tiêu tiết kiệm tiềm năng theo mục tiêu của ngân sách giảm nghèo.
Ưu điểm của thước đo khoảng cách nghèo đó là chỉ ra được độ sâu và quy mô
của nghèo đói, phản ánh thu nhập/chi tiêu của người nghèo cách xa chuẩn nghèo bao
nhiêu. Nhưng hạn chế của thước đo này là chưa phản ánh phân phối thu nhập giữa
những người nghèo. Sự chuyển đổi từ hộ nghèo này sang hộ nghèo khác (biến đổi giữa
các nhóm trong hộ nghèo đói) về thu nhập/chi tiêu của những người nghèo không làm
P
1
thay đổi.
6.2.3 Chỉ số khoảng cách nghèo đói bình phương
Để thấy rõ thành phần của những hộ nghèo, người ta dùng chỉ số khoảng cách
nghèo đói bình phương

=






=

N
i
i
Z
G
N
P
1
2
1
1
6.2.4 Đường cong Lorenz và hệ số Gini
Dùng để nghiên cứu và phân tích vấn đề về bất bình đẳng. Giá trị của hệ số Gini
nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Hệ số Gini được tính trên cơ sở của đường cong Lorenz,
một đường cong cộng dồn các tần suất để so sánh phân phối của một biến (thí dụ biến
chi tiêu) với phân phối đơn vị thể hiện sự bình đẳng. Để xây dựng hệ số Gini và thiết
lập đường cong Lorenz, trước hết phải sắp xếp thứ tự hộ gia đình (người) có thu
nhập/chi tiêu từ thấp tới cao (ở đây giả sử chi tiêu), tiếp đến tính tỷ trọng số hộ gia
đình, và tỷ trọng chi tiêu cộng dồn của những người này trong tổng chi tiêu của cộng
đồng.
7
6.3 Các kết quả nghiên cứu có liên quan đến nghèo đói
Theo Báo cáo phát triển Việt Nam (2004) Các hộ gia đình lớn, đặc biệt là các hộ
có nhiều trẻ em và người già hoặc không chồng dường như có mức chi tiêu theo đầu
người thấp hơn. Nghèo cũng liên quan chặt chẽ tới nhóm dân tộc. Ngay cả khi tất cả
mọi đặc điểm khác là giống nhau, chi tiêu của một người thuộc hộ dân tộc thiểu số
thấp hơn chi tiêu của một người thuộc hộ người Kinh hoặc người Hoa là 13%. Trình
độ giáo dục cũng tạo sự khác biệt đáng kể. Một hộ gia đình có chủ hộ có trình độ trung
cấp có mức chi tiêu cao hơn mức trung bình gần 19% và nếu chủ hộ có trình độ đại
học thì mức cao hơn là 31%. Con số này là 29% nếu vợ/chồng có trình độ trung cấp và

48% nếu vợ/chồng có trình độ đại học.
Sự chênh lệch giữa các vùng thậm chí còn rõ nét hơn. So với các hộ gia đình ở
Đồng bằng sông Hồng, các hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long có mức chi tiêu
cao hơn gần 26% ngay cả khi tất cả các đặc điểm khác giống nhau. Khoảng cách này
lên tới 31% đối với các hộ ở vùng Đông Nam Bộ. Nhưng khoảng cách lớn nhất là giữa
các vùng thành thị và nông thôn. Với các đặc điểm khác giống nhau, một hộ gia đình ở
thành thị chi tiêu nhiều hơn một hộ gia đình tương đương ở nông thôn gần 78%. Tác
động này lấn át tất cả những tác động khác kể cả các đặc điểm liên quan tới trình độ
học vấn cao hơn. Các đặc điểm của cộng đồng cũng có có ảnh hưởng. Việc có đường
nông thôn hoặc có trường học tăng 5% mức chi tiêu trung bình của tất cả các hộ trong
xã.
Kế thừa nghiên cứu này, chúng ta có thể xem xét lại các nhân tố trên đối với vùng
nghiên cứu của đề tài. Do đặc điểm nghiên cứu trải dài dọc biên giới Tây Nam nên để
khắc phục sự khác biệt giữa các vùng nghiên cứu, số liệu điều tra sẽ được tính toán có
trọng số để loại bỏ yếu tố vùng, đồng thời chỉ chọn các hộ sống ở khu vực nông thôn
để nghiên cứu.
Theo kết quả nghiên cứu của Nhóm hành động chống đói nghèo (2004) Ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long, người nghèo ở vùng nông thôn chiếm 96% số người nghèo
trong cả vùng. Sự tăng trưởng trong các ngành sản xuất và dịch vụ nhanh hơn so với
ngành nông lâm ngư nghiệp và kết quả là tốc độ xoá đói giảm nghèo tăng nhanh hơn ở
khu vực thành thị. Người nghèo có những đặc trưng như sau:
8
Sống bằng nông nghiệp là chủ yếu
Hơn 77% số hộ nghèo làm việc trong các ngành như nông nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp, 9% làm việc trong ngành công nghiệp và 13% làm việc trong ngành dịch
vụ. PPA cũng khẳng định rằng đói nghèo có mối liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp với
lưu ý rằng phần lớn các hộ gia đình nghèo sống ở vùng nông thôn và chỉ trồng lúa.
Trong các hộ nông dân, những hộ nghèo thường là những hộ thiếu hoặc không có
đất, do vậy, phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập làm thuê. Trình độ học vấn thấp làm họ
có rất ít cơ hội tìm việc ngoài công việc nhà nông vốn là công việc không ổn định và

cho thu nhập thấp. Trong một số năm gần đây cũng có ít cơ hội việc làm phi nông
nghiệp ở đây. Có thể việc những người có trình độ và kỹ năng nhất định di cư đến các
thành phố lớn và trung tâm công nghiệp (như TP.HCM, Bình Dương) và tăng lao động
nông nghiệp mùa vụ cũng là nguyên nhân của việc tăng mức chi tiêu tổng thể trong
vùng.
Trình độ học vấn thấp
Tỉ lệ đói nghèo có tương quan đến trình độ học vấn. Tỉ lệ đói nghèo của những
người chưa hoàn thành tiểu học ở vùng đồng bằng sông Cửu Long là 30% (thấp hơn so
với tỉ lệ 40% của cả nước) trong khi hầu như không có tình trạng đói nghèo trong số
những người có trình độ học vấn cao hơn hoặc học nghề. Nếu không có trình độ học
vấn nhất định, công nhân sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc học hỏi những kỹ năng
và kỹ thuật mới để nâng cao năng suất. Các bậc cha mẹ có trình độ học vấn thấp
thường không nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của giáo dục, từ đó không cố
gắng tạo điều kiện cho con em đến trường, khuyến khích con em học tốt và học cao
hơn.
Có mối tương quan chặt giữa giáo dục và các đặc điểm khác của người nghèo.
Trình độ học vấn ở nông thôn thấp hơn ở thành thị, đặc biệt là trình độ học vấn của các
dân tộc thiểu số thấp hơn đáng kể so với người Kinh và Hoa.
Ít tài sản và đất
Việc không có đất là một trong những trở ngại chính trong xoá đói giảm nghèo ở
vùng ĐBSCL. So sánh năm 2002 giữa các vùng cho thấy ĐBSCL đứng thứ hai về tỉ lệ
nông dân không có đất ở nông thôn, chỉ sau vùng Đông Nam Bộ. Hơn nữa, chỉ ở vùng
9
ĐBSCL mới có tình trạng là không có đất tỉ lệ thuận với đói nghèo, trái ngược với các
vùng còn lại.
Việc sở hữu các tài sản lâu bền, đặc biệt là điện thoại, tủ lạnh, xe đạp và xe máy
là rất khác biệt giữa các hộ gia đình. Vùng ĐBSCL có tỉ lệ nhà tạm cao nhất so với các
vùng khác và người nghèo hầu hết sống trong các nhà tạm.
Nghèo đói với dân tộc thiểu số
Các dân tộc thiểu số chiếm khá nhiều trong diện nghèo ở ĐBSCL. Dân tộc

Khmer đông nhất trong số các dân tộc thiểu số ở đây. Các tỉnh có tỉ lệ nghèo cao nhất
cũng là các tỉnh có số người Khmer cư trú nhiều nhất. Ở các tỉnh có người Khmer sinh
sống tỉ lệ người Khmer nghèo luôn hơn hẳn các dân tộc thiểu số khác.
Theo kết quả nghiên cứu của AusAid (2004): Kết quả phân tích đặc điểm của
người nghèo ở ĐBSCL gồm có bốn nhóm bất lợi chính như sau:
Nhóm không có đất và ít đất canh tác
Số dân không có đất hoặc hầu như không có đất canh tác trong vùng ĐBSCL là
đáng kể và ngày càng tăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết các gia đình không có
đất là vì đã bán đất với các nguyên nhân: mất mùa và do những biến động kinh tế đột
ngột gây ra bởi bệnh tật hay thiên tai. Phải bán đất để lấy tiền, thường là để trả nợ. Bán
đất vì vậy là hậu quả, hơn là nguyên nhân gốc của nghèo. Tuy nhiên, bán đất có thể
dẫn đến nguy cơ cao hơn là người nghèo không có đất canh tác phải sống lệ thuộc vào
công việc làm thuê thu nhập thấp không ổn định. Nhóm nông dân không có đất canh
tác có tỉ lệ nghèo cao hơn các nhóm khác trong vùng.
Nhóm dân tộc thiểu số - Người Khmer
Trong số 3 nhóm dân tộc thiểu số sống trong vùng ĐBSCL (Khmer, Hoa và
người Chăm), người Khmer chiếm tỉ lệ cao nhất và là nhóm bị bất lợi nhất về mặt
kinh tế xã hội. Người nghèo Khmer giống như những người nghèo khác trong vùng,
với chiều hướng có ít hoặc không có đất và ít có cơ hội tìm được một công việc ổn
định. Công việc họ có thể kiếm được hầu hết là lao động chân tay với thu nhập
thấp. Đây là nhóm đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi các biến động về kinh tế vì họ có ít tài
sản. Người nghèo Khmer cũng có chiều hướng sống tách biệt với các tổ chức của điạ
phương, họ ít tiếp xúc với cán bộ xã và ít có cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết
định trong địa phương mình.
10
Nhóm “làm thuê”
Trên nửa số người nghèo ở một số tỉnh trong vùng ĐBSCL đang làm thuê trong
lĩnh vực nông nghiệp và đây là nguồn thu nhập chính của họ. Công việc như vậy
mang tính thời vụ cao và thường thu nhập không đủ sống. Số lượng lao động dư thừa
trong vùng dẫn đến mức tiền công thấp. Số lượng doanh nghiệp mới thành lập ở

ĐBSCL không nhiều, làm hạn chế cơ hội việc làm phi nông nghiệp. Trình độ thấp của
người nghèo cũng hạn chế cơ hội tìm việc làm tốt hơn và tăng thu nhập cao hơn.
Phụ nữ
Tiền công của phụ nữ trong lĩnh vực nông nghiệp ít hơn hai phần ba so với mức
của nam giới. Phụ nữ đặc biệt bất lợi do chiều hướng tại một số tỉnh ĐBSCL chuyển
làm lúa sang nuôi tôm, vì việc nuôi tôm được xem là công việc của đàn ông. Phụ nữ
phải làm công việc nặng nhọc cả trong nhà lẫn ngoài xã hội, dẫn đến suy kiệt sức
khỏe, làm hạn chế khả năng tiếp cận với giáo dục. Đặc biệt dễ bị ảnh hưởng là phụ nữ
Khmer.
Theo Nguyễn Trọng Hoài (2005) tình trạng đói nghèo ở Đông Nam Bộ chịu ảnh
hưởng nhiều nhất từ các yếu tố: tình trạng việc làm, tình trạng sở hữu đất đai, khả năng
tiếp cận nguồn vốn chính thức, vấn đề dân tộc thiểu số, qui mô hộ và giới tính của chủ
hộ. Công trình được nghiên cứu ở vùng gần vùng nghiên cứu và có nhiều điểm tương
đồng với vùng biên giới Tây Nam, ta có thể áp dụng phương pháp nghiên cứu và các
nhân tố ảnh hưởng của mô hình cho nghiên cứu ở vùng biên giới Tây Nam.
Theo Dominique Haughton (2001) tình trạng đói nghèo ở Việt Nam bị ảnh hưởng
bởi các nhân tố sau đây. Phụ nữ là chủ hộ có xu hướng rơi vào cả hai nhóm cực của
dãy phân bố chi tiêu, với một tỉ lệ tương đối lớn trở thành hộ giàu hoặc rơi vào hộ
nghèo; ảnh hưởng của yếu tố nữ giới đến nghèo đói không có ý nghĩa thống kê. Học
vấn, dân tộc, tỉ lệ phụ thuộc và vùng địa lý sinh sống có ảnh hưởng đến nghèo đói.
Công trình này là kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả dựa trên bộ số liệu của cuộc
điều tra mức sống dân cư Việt Nam lần thứ nhất (VLSS93) và lần hai (VLSS98).
Chúng ta có thể áp dụng phương pháp nghiên cứu này để áp dụng cho đề tài nghiên
cứu.
Theo Lilongwe và Zomba (2001), tình trạng đói nghèo ở Malawi bị ảnh hưởng
bởi: Tuổi người đứng đầu gia đình, tỉ lệ người phụ thuộc, Qui mô hộ gia đình, giáo
11
dục, nghề nghiệp, việc làm nông nghiệp, khả năng tiếp cận với các dịch vụ, vùng
miền. Trong đó: Tuổi người đứng đầu gia đình tỉ lệ thuận với đói nghèo ở nông thôn,
không có ý nghĩa với thành thị, tỉ lệ người phụ thuộc đặc biệt là trẻ em ảnh hưởng rất

lớn đến mức sống của hộ gia đình. Đối với các hộ ở khu vực thành thị, khi tăng một trẻ
dưới 9 tuổi thì mức chi tiêu của hộ đã giảm đến 30%, đối với khu vực nông thôn, mức
chi tiêu giảm xấp xỉ 20%. Công trình được nghiên cứu ở một nước kém phát triển với
các điều kiện kinh tế xã hội gần giống Việt Nam. Chúng ta có thể tham khảo phương
pháp nghiên cứu của các tác giả này để áp dụng cho Việt Nam.
Theo Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004), sống ở khu vực nông thôn, người dân
tộc, qui mô hộ gia đình, tỷ lệ phụ thuộc, giáo dục, khả năng tiếp cận đường ôtô, giao
thông chở khách, điện, khuyến nông, chợ là những nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Dựa trên bộ dữ liệu điều tra mức sống dân cư
năm 1998 và 2002 các tác giả đã phản ảnh được bức tranh tương quan về đói nghèo
của vùng miền núi phía Bắc. Phương pháp phân tích có thể được áp dụng cho vùng
biên giới phía Nam.
Theo Võ Tất Thắng (2004) tình trạng đói nghèo ở Ninh Thuận chịu ảnh hưởng
nhiều nhất từ 6 yếu tố, đó là tình trạng việc làm, tình trạng sở hữu đất đai, khả năng
tiếp cận nguồn vốn chính thức, vấn đề dân tộc thiểu số, quy mô hộ và giới tính của chủ
hộ. Đây là nghiên cứu đầu tiên có sử dụng mô hình kinh tế lượng để đánh giá nghèo ở
Ninh Thuận, điểm mới của nghiên cứu này là tác giả đưa vào biến tiếp cận nguồn vốn
chính thức mà loại bỏ biến vay nóng từ bên ngoài. Trong khi đó công trình nghiên cứu
của Hoff và Stiglitz (1993) cho thấy các định chế tài chính không chính thức cũng góp
phần làm tăng thu nhập cho người dân. Do đó, kế thừa khung phân tích của mô hình
này ta có thể thêm vào biến “vay ngoài ngân hàng” để phân tích cho vùng biên giới
Tây Nam bộ.
Theo Bùi Quang Minh (2007) quy mô đất của hộ và quy mô hộ là hai yếu tố
chính ảnh hưởng đến tình trạng đói nghèo ở Bình Phước. Công trình nghiên cứu của
tác giả này đã phản ánh được thực trạng nghèo đói của tỉnh Bình Phước đặc biệt là đã
tập trung vào nghiên cứu nhóm nghèo nhất trong các hộ nghèo. Các biến phân tích của
tác giả cũng gần giống các biến của các tác giả khác khi phân tích về nghèo đói. Từ
12
công trình nghiên cứu này chúng ta có thể sử dụng lại khung phân tích mà tác giả đã
áp dụng ở Bình Phước để phân tích cho vùng biên giới Tây Nam bộ.

Theo Trương Thanh Vũ (2007) khi nghiên cứu về nghèo đói ở vùng ven biển
ĐBSCL, cho thấy các nhân tố: trình độ học vấn của người lao động, số người không
có hoạt động tạo thu nhập trong hộ, loại công việc chính, giới tính của chủ hộ, diện
tích đất sản xuất của hộ và đường ôtô đến được thôn/ấp của hộ tác động có ý nghĩa
thống kê đến xác suất rơi vào nghèo đói của hộ. Đây là công trình nghiên cứu dựa trên
bộ số liệu VHLSS2004 áp dụng cho vùng ven biển của ĐBSCL. Chúng ta có thể sử
dụng lại các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói của mô hình này để phân tích, đánh giá
và so sánh cho nghiên cứu của đề tài.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Sử dụng chi tiêu bình quân làm tiêu chí phân tích nghèo
Trong phân tích, chúng tôi chọn chi tiêu bình quân đầu người làm tiêu chí phân
tích nghèo. Những lý do mà số liệu chi tiêu chính xác hơn thu nhập:
Do tâm lý, người dân thường có xu hướng khai thấp thu nhập của mình. Thu
nhập càng cao càng khai thấp. Hơn nữa, nguồn thu của nông hộ thường khó xác định
một cách đầy đủ. Do công việc của người dân không ổn định, nay làm việc này, mai
làm việc kia nên không nhớ tất cả các khoản thu của mình.
Mặc khác, thu nhập từ các loại cây lâu năm là rất khó tính được vào kỳ phỏng
vấn dù có chi phí chăm sóc. Thu nhập từ các loại gia súc không thể tính được hàng
năm, vì có thể nhiều năm hộ gia đình mới bán. Làm ăn, buôn bán, nuôi trồng luôn biến
động, lời lỗ thất thường. Tuy nhiên, trong một năm, một hộ có thể có thu nhập âm
nhưng không thể cho rằng đây là hộ nghèo được. Ngược lại, chi tiêu thường dựa vào
tài sản hiện có trong gia đình hoặc dựa vào kỳ vọng nguồn thu nhập sắp tới của hộ.
Nếu là hộ nghèo thì chi tiêu sẽ hạn chế do tâm lý, ngoài ra việc đi vay để chi tiêu là rất
khó khăn vì chủ nợ không cho vay, hơn nữa những khoản này thường là nhỏ.
Những loại chi tiêu tăng cao bất thường cũng có khi xảy ra, chẳng hạn như chi
tiêu cho việc chữa bệnh, mua các vật dụng đắt tiền, sửa chữa hay xây nhà nhưng
những loại chi tiêu này chỉ thường có ở những hộ không nghèo. Trong trường hợp chi
13
cho khám và chữa bệnh ở hộ nghèo thì đã có bảo hiểm y tế, nếu không thì họ cũng
không đi đến cơ sở y tế vì chi phí cao mà họ lại không có tiền

1
.
Chi tiêu không những ít bị khai thấp hơn thu nhập mà nó còn ổn định hơn từ năm
này qua năm khác, đồng thời kế thừa các nghiên cứu trước, chúng tôi dùng các thước
đo chi tiêu nhằm phản ánh mức sống trong nghiên cứu này.
7.2 Cở sở xác định nghèo
Với mục đích của nghiên cứu là xác định rõ các nhân tố làm tách biệt các hộ
nghèo và không nghèo, chúng tôi sử dụng phương pháp chọn hộ nghèo tương đối.
Phương pháp này đã được sử dụng để phân tích các Điều tra Mức sống dân cư ở Việt
Nam 1993-1998. Hộ gia đình là nghèo được định nghĩa là hộ nằm trong 1/5 nhóm hộ
có mức chi tiêu bình quân đầu người thấp nhất; hộ không nghèo được hiểu là hộ nằm
trong 80% dân số còn lại.
7.3 Nguồn số liệu
Sử dụng bộ số liệu điều tra mức sống hộ gia đình năm 2006 do Tổng Cục thống
kê tiến hành điều tra trong cả nước. Mẫu điều tra thu nhập và chi tiêu gồm 9.189 hộ
sống trong 3.100 xã/phường với đầy đủ 8 nội dung điều tra và phần mở rộng về giáo
dục và y tế, đại diện cho cả nước, thành thị nông thôn và 8 vùng sinh thái.
Nội dung điều tra của VHLSS bao gồm: Đặc điểm nhân khẩu học, giáo dục, y
tế và chăm sóc sức khoẻ, thu nhập, chi tiêu, tài sản và đồ dùng của hộ, nhà ở và
phương tiện vệ sinh, tham gia chương trình xoá đói giảm nghèo và tín dụng. Ngoài ra
còn bảng câu hỏi xã, trường và trạm y tế.
Tính ưu việt của bộ số liệu này là với số lượng lớn câu hỏi trong các mục khác
nhau tạo ra nhiều cách để kiểm tra lại tính nhất quán của nó. Do đó, VHLSS 2006 trở
nên quan trọng cho các nghiên cứu về nghèo đói và những vấn đề kinh tế - xã hội
khác.
Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi lọc lấy dữ liệu của các hộ gia đình sống
trong vùng biên giới Tây Nam, cụ thể là ở các huyện ven biên giới của ĐBSCL và
những huyện có điểm gần nhất của ranh giới huyện so với đường biên giới là 20km
2
.

Mẫu khảo sát có 231 hộ dân cư vùng nông thôn sinh sống trong 77 xã thuộc 24 huyện
1
Võ Tất Thắng (2004), Thực trạng và những yếu tố tác động đến nghèo ở tỉnh Ninh Thuận
2
Do người dân có quyền đi lại qua khỏi ranh giới huyện tự do. Người dân ở các huyện lân cận biên giới cũng có
điều kiện dễ dàng đi lại và làm ăn trong khu vực biên giới.
14
của 4 tỉnh giáp biên giới trong vùng ĐBSCL. Sau khi loại bỏ các mẫu bị khuyết,
không phù hợp chúng tôi sử dụng 225 mẫu để phân tích. Đối với số mẫu của vùng
ĐBSCL chúng tôi lấy tất cả 1.245 hộ sống trong khu vực nông thôn.
Bảng 2. 1: Số mẫu trong vùng nghiên cứu
Tỉnh
Huyện có biên
giới
Số
mẫu
Huyện cách biên
giới trong vòng
20km
Số
mẫu
An
Giang
An Phú 15 Châu Phú 18
Tân Châu 12 Phú Tân 15
Tịnh Biên 6

Tri Tôn 9

Phú Tân 3


Đồng
Tháp
Hồng Ngự 27 Tam Nông 9
Tân Hồng 6 Thanh Bình 15
Kiên
Giang
Kiên Lương 6 Hòn Đất 15
Thị Xã Hà Tiên 3

Long
An
Đức Huệ 6 Đức Hoà 12
Mộc Hoá 6 Tân Thạnh 6
Thạnh Hoà 6 Bến Lức 12
Vĩnh Hưng 6 Thủ Thừa 9
Tân Hưng 3

Tổng 23 huyện 114 111
7.4 Phương pháp trích dữ liệu
Chi tiêu: Chi tiêu dùng để so sánh với ngưỡng nghèo gồm chi tiêu bằng tiền
cho giáo dục, y tế, tiêu dùng, mua sắm đồ dùng lâu bền, nhà ở, điện nước, rác thải sinh
hoạt. Sau khi tính toán chi tiêu, cần điều chỉnh chi tiêu về giá trị thực để có thể so sánh
giữa các vùng, thời điểm điều tra. Trong bộ dữ liệu VHLSS 2006, biến chi tiêu dùng
thực bình quân đầu người có tên là pcexp1rl, ở tập tin có tên hhexpe06
Giới tính của chủ hộ: Trích từ mục 1A câu 2 (muc1ac2).
Tuổi của của hộ: Trích từ mục 1A câu 5 (muc1ac5).
Dân tộc của chủ hộ: Trang bìa phiếu phỏng vấn hộ (dantoc)
Qui mô hộ: Trích từ mục 1A câu 3 (muc1ac3).
Số người phụ thuộc: được tính là tổng của hai nhóm:

- Nhóm khuyết tật: Trích từ mục 3B gồm các câu 3 (bị mù), câu 5 (bị
điếc), câu 8 (bị tâm thần) và câu 11(bị liệt).
15
- Nhóm không nằm trong độ tuổi lao động: Trích từ mục 1A câu 3 và
mục 1A câu 5 (muc1ac3 và muc1ac5). Các thành viên có độ tuổi dưới 16 và
trên 55 đối với nữ, trên 60 đối với nam được gọi là những người không có sức
lao động và phụ thuộc vào những người còn lại trong hộ.
Trình độ học vấn chủ hộ: Được đo bằng số năm đi học, trích từ mục 2A câu 1
và câu 3 (muc2ac1 và muc2ac3). Đối với các bậc học trung học phổ thông, học nghề
thì được tính theo số năm đi học của bậc học phổ thông. Bậc cao đẳng được tính là 15
năm, đại học: 16 năm, thạc sĩ: 18 năm, tiến sĩ: 22 năm.
Trình độ học vấn trung bình của các thành viên trong hộ: Được đo bằng số
năm đi học, trích từ mục 2A câu 1 và câu 3 (muc2ac1 và muc2ac3). Đối với các bậc
học trung học phổ thông, học nghề thì được tính theo số năm đi học của bậc học phổ
thông. Bậc cao đẳng được tính là 15 năm, đại học: 16 năm, thạc sĩ: 18 năm, tiến sĩ: 22
năm.
Diện tích đất sản xuất: Được trích từ mục 4B0 câu 3 và câu 6 (muc4b0c3b và
muc4b0c6)
Làm nông: Được trích từ mục A4 câu 4 (m4ac4).
Có sử dụng điện: Trích từ mục 7 câu 34 (m7c34).
Vay tín dụng: Trích từ mục 8 câu 8 (muc8c8). Nếu hộ gia đình vay từ các
nguồn ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng NN&PTNN, ngân hàng khác, quĩ hỗ
trợ việc làm, các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị xã hội thì được xếp vào dạng
vay từ nguồn tín dụng chính thức. Nếu hộ gia đình vay từ người cho vay cá thể, bạn
bè, họ hàng hay các nguồn khác thì gọi là vay từ nguồn tín dụng không chính thức.
7.5 Phương pháp phân tích
7.5.1 Mục tiêu nghiên cứu 1: Sự khác biệt lớn nhất giữa những hộ nghèo và
không nghèo ở vùng biên giới Tây Nam
- Dùng phương pháp thống kê mô tả để nêu được hiện trạng của các hộ gia đình
ở vùng nghiên cứu.

- Tính toán các chỉ số nghèo đói, đường cong Loren, hệ số Gini.
- Phân tích phương sai để kiểm định sự khác nhau của hộ nghèo và không
nghèo.
16
7.5.2 Mục tiêu nghiên cứu 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng chi tiêu của
các hộ gia đình.
(a) Mô hình Kinh tế lượng lý thuyết
* Mô hình tổng quát
iiii
uXY ++=
ββ
0
Y
i
là chi tiêu bình quân đầu người hàng tháng
β
0
, β
i
là hệ số hồi quy của mô hình
X
i
là các biến độc lập (các nhân tố có ảnh hưởng đến chi tiêu bình quân)
* Dạng hàm áp dụng
iiii
uXY ++=
ββ
0
ln
lnY

i
là logarit chi tiêu bình quân đầu người hàng tháng
β
0
, β
i
là hệ số hồi quy của mô hình
X
i
là các biến độc lập (các nhân tố có ảnh hưởng đến chi tiêu bình quân)
* Phương pháp ước lượng
Phương pháp bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least Squares)
* Ý nghĩa của các hệ số hồi quy
Các hệ số hồi quy cho biết sự thay đổi tương đối của Y đối với sự thay đổi tuyệt
đối của biến X
i
. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, khi biến X
i
tăng/giảm
một đơn vị thì biến Y tăng giảm tương ứng
i
β
x100 (%) hoặc biến Y tăng/giảm tương
ứng
i
e
β
lần.
(b) Áp dụng trong nghiên cứu:
Kế thừa các nghiên cứu trước, chúng tôi đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:

uTONGVAYTTONGDATNONGLAM
TTHOCTUOICHUPHUTHUOCHOQUYMOGIOITINHDANTOCCHIBQLn
+++
+++++++=
987
6543210
_
__)(
βββ
βββββββ
Trong đó:
17
Bảng 2. 2: Các biến số của mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu
Ký hiệu Mô tả biến số Đơn vị Kỳ vọng
DANTOC Là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu hộ gia
đình thuộc dân tộc Kinh, nhận giá trị 1
cho trường hợp hộ thuộc nhóm dân tộc
thiểu số
(-)
GIOITINH là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu chủ hộ
là nữ, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ là nam
(+).
QUIMOHO là biến thể hiện tổng số người trong hộ người (-)
PHUTHUOC là biến thể hiện tổng số người không có
hoạt động tạo thu nhập trong hộ
người (-)
TUOICHU là biến thể hiện số tuổi của chủ hộ Năm (+)
HOC_TT là biến thể hiện số năm đi học của những
người trưởng thành trong một hộ gia đình.
Năm (+)

LAM_NONG là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu hộ làm
việc phi nông nghiệp, nhận giá trị 1 nếu
hộ hoạt động trong ngành trồng trọt, chăn
nuôi, thuỷ sản
(-)
TONGDATC Là biến thể hiện số mét vuông đất canh
tác của hộ gia đình
1.000 m
2
(+)
TONGVAYT Là biến thể hiện số tổng số tiền mà hộ
vay.
triệu đồng (+)
u là sai số ngẫu nhiên
7.5.3 Mục tiêu nghiên cứu 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các hộ gia
đình
(a) Mô hình Kinh tế lượng lý thuyết
* Mô hình tổng quát (trong trường hợp một biến)
3
Nếu ta đặt biến Y = 1: là hộ nghèo và Y=0 là hộ không nghèo thì
)(
21
1
1
)1(
i
X
ii
e
XYEP

ββ
+−
+
===
Pi là kỳ vọng xác suất Y=1 (hộ là nghèo) với điều kiện Xi đã xảy ra
β
1
, β
2
là hệ số hồi quy của mô hình
X
i
là biến độc lập (nhân tố có ảnh hưởng đến nghèo)
Bằng phương pháp tuyến tính hóa, mô hình trên trở thành:
1221
1
ln uX
P
P
i
i
++=










ββ
3
Gujarati (1995, tr.554)
18
* Phương pháp ước lượng
Phương pháp ước lượng thích hợp cực đại (maximum likelihood method)
* Ý nghĩa của các hệ số hồi quy
Hệ số odds
Gọi hệ số Odd
)__(
)_(
1
0
0
0
ngheokhonghoP
ngheohoP
P
P
O
=

=
là hệ số chênh lệch nghèo ban
đầu, trong đó P
0
là xác suất nghèo ban đầu.
Từ phương trình suy ra:
kk

XX
e
P
P
O
βββ
+++
=

=

0
0
0
110
1
Giả định rằng các yếu tố khác không thay đổi, khi tăng X
k
lên 1 đơn vị, hệ số
chênh lệch nghèo mới (O
1
) sẽ là:
kkkkkkkk
eeee
P
P
O
XXXXXX
βββββββββββ
×===


=
+++++++++++
)1(
1
1
1
110110110
1
Suy ra:
k
e
P
P
P
P
O
β
×

=

=
0
0
1
1
1
11
Công thức trên có thể được viết lại như sau:

k
eO
P
P
β
×=

0
1
1
1
Suy ra:
k
k
eO
eO
P
β
β
×+
×
=
0
0
1
1
Thế hệ số Odd vào, ta được:
)1(1
0
0

1
k
k
eP
eP
P
β
β
−−
×
=
Khi yếu tố X
k
tăng lên một đơn vị thì xác suất nghèo của một hộ gia đình sẽ
chuyển dịch từ P
0
sang P
1
Dự đoán xác suất nghèo của hộ gia đình :
( )
k
X
k
X
e
P
βββ
+++

+

=

110
1
1
(b) Xác định mô hình thực nghiệm.
Kế thừa các nghiên cứu trước, chúng tôi đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
Mô hình logit cho các p
i
được xác định như sau:
)_
__(
987
6543210
1
1
uTONGVAYTTONGDATNONGLAM
TTHOCTUOICHUPHUTHUOCHOQUYMOGIOITINHDANTOC
i
e
P
+++
+++++++−
+
=
βββ
βββββββ
Trong đó:
19
Bảng 2. 3: Các biến số của mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo

Ký hiệu Mô tả biến số Đơn vị Kỳ
vọng
NGHEO Là biến phụ thuộc đại diện trình trạng nghèo (nhận
giá trị 1) hoặc không nghèo (nhận giá trị 0) của hộ
gia đình.
DANTOC Là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu hộ gia đình
thuộc dân tộc Kinh, nhận giá trị 1 cho trường hợp
hộ thuộc nhóm dân tộc thiểu số
(+)
GIOITINH là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu chủ hộ là nữ,
nhận giá trị 1 nếu chủ hộ là nam
(-).
QUIMOHO là biến thể hiện tổng số người trong hộ người (+)
PHUTHUOC là biến thể hiện tổng số người không có hoạt động
tạo thu nhập trong hộ
người (+)
TUOICHU là biến thể hiện số năm tuổi của chủ hộ Năm (-)
HOC_TT là biến thể hiện số năm đi học của những người
trưởng thành trong một hộ gia đình.
Năm (-)
LAM_NONG là biến dummy, nhận giá trị 0 nếu hộ làm việc phi
nông nghiệp, nhận giá trị 1 nếu hộ hoạt động trong
ngành trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản
(+)
TONGDATC Là biến thể hiện số mét vuông đất canh tác của hộ
gia đình
1.000
m
2
(-)

TONGVAYT Là biến thể hiện số tổng số tiền mà hộ vay. triệu
đồng
(-)
u là sai số ngẫu nhiên
8. Dự kiến cấu trúc báo cáo kết quả nghiên cứu
Báo cáo kết quả dự kiến có các phần sau:
1. Phần mở đầu
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu liên quan
3. Phương pháp luận
4. Kết quả và thảo luận
5. Kết luận và gợi ý chính sách
6. Tài liệu tham khảo
7. Phụ lục số liệu và hình ảnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
20
Tiếng Việt
1. Bùi Quang Minh (2007), Những yếu tố tác động đến nghèo ở tỉnh Bình
Phước và một số giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh
tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Đinh Phi Hổ (2006), Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiễn, Nhà xuất bản
Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Dự án diễn đàn miền núi Ford (2004), Yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở
miền núi phía bắc.
4. Nghèo (2003), Báo cáo Phát triển Việt nam 2004, Báo cáo chung của các
nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà trợ Việt Nam, Hà Nội.
5. Nguyễn Trọng Hoài (2007), Kinh tế phát triển, Nhà xuất bản Lao động.
6. Nguyễn Trọng Hoài, Võ Tất Thắng, Lương Vinh Quốc Duy (2005), Nghiên
cứu ứng dụng các mô hình kinh tế lượng trong phân tích các nhân tố tác
động nghèo đói và đề xuất giải pháp xoá đói giảm nghèo ở các tỉnh Đông
Nam Bộ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Trường Đại học Kinh tế Thành

phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Nhóm hành động chống đói nghèo (2004), Đánh giá nghèo theo vùng, Vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long, Bản dịch tiếng Việt, 2004
8. Nicholas Minot, Bob Baulch và Michael Epprecht và Nhóm tác chiến bản
đồ đói nghèo liên Bộ (2003), Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam: Các
yếu tố về địa lý và không gian, Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực
Quốc tế và Viện nghiên cứu Phát triển, Hà Nội.
9. Tổng cục thống kê (2008), Bộ dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình Việt
Nam năm 2006.
10.Trương Thanh Vũ (2007), Các nhân tố tác động đến nghèo đói ở vùng ven
biển Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2003-2004, Luận văn thạc sĩ kinh
tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh.
11.Võ Tất Thắng (2004), Thực trạng và những yếu tố tác động đến nghèo ở
tỉnh Ninh Thuận, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
21
Tiếng Anh
12. AusAID (2004). MeKong Delta Poverty Analysis – Final Report
13.Dominique Haughton, Jonathan Haughton, Nguyen Phong (2001), Living
Standards During an Economic Boom The Case of Vietnam, Statistical
Publishing House, Hanoi, VietNam
14.Lilongwe và Zomba (2001), The Determinants Of Poverty In Malawi, 1998,
The National Economic Council, The National Statistical Office, Zomba,
Malawi and The International Food Policy Research Institute, Washington,
DC, USA
15.Guijarati (1995), Basic Econometrics, McGraw-Hill International Editions.
22

×