Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp: Giải pháp hoàn thiện công tác Phân tích tài chính doanh nghiệp của Công ty TNHH phát triển công nghệ giáo dục Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.83 KB, 63 trang )

M ỤC L ỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU

v
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
- TS: Tiến sĩ
- TNHH: Trách nhiệm hưu hạn
- LNST: Lợi nhuận sau thuế
- TSLĐ: Tài sản lưu động
- TSCĐ: Tài sản cố định
- BHXH: Bảo hiểm xã hội
- BHYT: Bảo hiểm y tế
- KPCĐ: Kinh phí công đoàn
- GTGT: Giá trị gia tăng
i
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức bộ máy hoạt động công ty TNHH phát triển công
nghệ giáo dục Việt Nam
Bảng 2.1: Báo cáo kết quả hoạt đông kinh doanh năm 2007 – 2009
Bảng 2.2: Bảng cân đối kế toán năm 2007 – 2009
Bảng 2.3: Tình hình tăng giảm vốn chủ sở hưu và các quỹ
Bảng 3.1: Chỉ tiêu kế hoạch năm 2010
ii
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại, đứng
vững và ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có một tiềm lực tài chính mạnh mẽ để
tiến hành sản xuất kinh doanh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt khác, theo đà phát
triển của nền kinh tế, các mối quan hệ kinh tế tài chính ngày càng trở nên phong
phú và phức tạp.


Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải thường xuyên tiến hành
công tác phân tích tài chính và không ngừng hoàn thiện công tác này, trên cơ sở
đó, định hướng cho các quyết định nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực tiễn đã chứng minh, nếu các
nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm đúng mức tới công tác phân tích tài chính thì
họ sẽ có những quyết định đúng đắn và có nhiều cơ hội thành đạt trong kinh
doanh, ngược lại họ sẽ khó tránh khỏi những quyết định tài chính sai lầm và thất
bại.
iii
Công ty TNHH phát triển công nghệ giáo dục Việt Nam là một công ty
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Công tác phân tích tài chính của Công ty đã
bước đầu được quan tâm và có nhiều tiến bộ, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi
những khó khăn, hạn chế.
Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính, nghiên cứu thực
trạng công tác phân tích tài chính của Công ty, sau thời gian thực tập tại phòng Tài
chính - Kế toán, được sự giúp đỡ của Ban Giám đốc, các cô, chú trong phòng tài
chính - kế toán và thầy giáo hướng dẫn TS Đinh Ngọc Dinh em đã lựa chọn đề tài
“Giải pháp hoàn thiện công tác Phân tích tài chính doanh nghiệp của Công ty
TNHH phát triển công nghệ giáo dục Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề tốt
nghiệp của mình. Em xin chân thành cảm ơn các cô, các chú trong Công ty TNHH
phát triển công nghệ giáo dục Việt Nam và thấy giáo Đinh Ngọc Dinh đã tận tình
giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
TẠI CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC VIỆT
NAM
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG
TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN

CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC VIỆT NAM
iv
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1Khái niệm và mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1Khái niệm
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá
nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp
chứ không phải các cá nhân.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức
là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi.
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ
yếu là: quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, quan hệ giữa doanh nghiệp với
thị trường tài chính, quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác, quan hệ
trong nội bộ doanh nghiệp. Việc quản lý tài chính luôn luôn giữ một vị trí trọng
yếu trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự
thành bại của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, đặc biệt trong xu thế hội
nhập khu vực và quốc tế, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên
phạm vi toàn thế giới, quản lý tài chính càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Nghiên cứu phân tích tài chính là một khâu quan trọng trong quản lý doanh
nghiệp. Phân tích tài chính được các nhà quản lý bắt đầu chú ý từ cuối thế kỷ XIX.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, phân tích tài chính thực sự được phát triển và được chú
trọng hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lý doanh nghiệp có hiệu quả ngày càng

tăng, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính, sự phát triển của các tập đoàn
kinh doanh và khả năng sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và
các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý
1
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ
và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi
trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp
thuộc mọi hình thức, các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức
công cộng. Đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng và của thị
trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và
vô cùng cần thiết.
1.1.2 Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Thông qua việc tính toán các chỉ tiêu tài chính, xem xét các mối quan hệ
chiến lược, phân tích tài chính giúp cho người sử dụng thông tin đánh giá chính
xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi, triển vọng phát triển của doanh nghiệp
và là cơ sở để dự báo về tình hình tài chính, đưa ra các quyết định tài chính. Bởi
vậy, phân tích tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như:
Ban giám đốc, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các nhà
quản lý, kể cả các cơ quan Nhà nước và bản thân người lao động trong doanh
nghiệp. Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các
góc độ khác nhau, sử dụng các chỉ số và các thông tin thu được để đưa ra các
quyết định khác nhau.
Phân tích tài chính đối với các nhà quản trị
Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân
tích tài chính nội bộ khác với phân tích tài chính bên ngoài do các nhà phân tích
ngoài doanh nghiệp tiến hành, do có thông tin đầy đủ và hiểu rõ hơn về doanh
nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể
phân tích tài chính tốt nhất.

Phân tích tài chính nội bộ có nhiều mục tiêu:
- Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá
khứ, giúp nhà quản trị tài chính đánh giá được hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp từ đó tiến hành cân đối
tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ và rủi ro tài chính của
doanh nghiệp.
- Định hướng các quyết định của Ban giám đốc cũng như của Giám đốc tài
chính: quyết định về đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần…
2
- Là cơ sở cho các dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, phần ngân sách tiền
mặt…
- Cuối cùng phân tích tài chính là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản
lý.
Phân tích tài chính làm nổi bật tầm quan trọng của dự báo tài chính và là cơ
sở cho các nhà quản trị, làm sáng tỏ không chỉ chính sách tài chính mà còn làm rõ
các chính sách chung.
Phân tích tài chính với các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư có thể là các cá nhân hoặc các tổ chức đã giao vốn cho
doanh nghiệp - là cổ đông của doanh nghiệp hoặc là những người có vốn nhưng
chưa đầu tư và đang có nhu cầu sử dụng vốn mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Thu
nhập của các nhà đầu tư sẽ là tiền chia lợi tức và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư
(thu nhập trên cổ phiếu), hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của
doanh nghiệp. Ngoài ra, một phần không nhỏ thu nhập mà các nhà đầu tư kỳ vọng
là phần giá trị tăng thêm của vốn đầu tư do sự biến động của giá cổ phiếu trên thị
trường.
Các nhà đầu tư thường không hài lòng với lợi nhuận tính theo sổ sách kế
toán mà họ thường dựa vào kết quả phân tích tài chính của các nhà chuyên môn để
dự báo vể triển vọng của doanh nghiệp, đánh giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Họ
rất quan tâm tới tình hình thu nhập của chủ sở hữu, tới khả năng sinh lời của
doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp nhà đầu tư ra quyết định có bỏ

vốn vào doanh nghiệp hay không, có nên mua thêm hay bán cổ phiếu mà họ đang
nắm giữ?
Phân tích tài chính với người cho vay
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người
cho vay cần xem xét là doanh nghiệp có thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả
năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Vì vậy việc phân tích tài chính khách
hàng là rất cần thiết nhằm mục tiêu xác định rõ hiện trạng tài chính của khách
hàng: giá trị tài sản, tình hình công nợ, khả năng thanh toán. Dự báo về tình hình
tài chính của khách hàng trong tương lai, dự báo về các rủi ro có thể xảy ra ảnh
hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
3
Việc phân tích tài chính đối với những khoản nợ dài hạn và ngắn hạn là
khác nhau:
- Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm
đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
- Nếu là những khoản vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng
hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ
thuộc vào khả năng sinh lời này.
Phân tích tài chính với những người hưởng lương trong doanh nghiệp
Khoản tiền lương nhận được từ doanh nghiệp luôn là nguồn thu nhập đáng
kể của những người lao động trong doanh nghiệp vì vậy kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ có tác động lớn đến tiền lương và thu nhập
khác của họ. Ngoài ra, trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia
mua một lượng vốn cổ phần nhất định, nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với
doanh nghiệp như một nhà đầu tư. Do đó họ rất quan tâm đến tình hình tài chính
doanh nghiệp.
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với một số đối tượng
khác như các cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư…Dù họ công tác ở
các vị trí khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp

nhằm phục vụ cho công việc của mình.
1.2 Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1 Xây dựng quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, vì vậy công tác phân tích tài chính phải có hiệu quả, mang lại những
thông tin chính xác, đầy đủ phục vụ cho việc ra quyết định của người sử dụng
thông tin. Muốn vậy, công tác phân tích tài chính cần phải được tổ chức thực hiện
theo một quy trình hoàn thiện với nguồn thông tin chất lượng, với phương pháp và
nội dung phân tích phù hợp, khoa hoc. Công tác phân tích tài chính có thể được
tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích
- Xác định mục tiêu, kế hoạch phân tích, từ đó lập ra các kế hoạch chi tiết
về nguồn thông tin sử dụng, thời gian tiến hành phân tích, số lượng nhân sự, yêu
4
cầu trình độ, chuyên môn cán bộ cần cho công tác phân tích, tổ chức phân công
công việc khoa học…
- Lập kế hoạch phối hợp giữa các bộ phận trong quá trình phân tích.
- Lựa chọn các phương pháp và nội dung phân tích nhằm hoàn thành mục
tiêu đề ra.
- Thu thập và xử lý sơ bộ các nguồn thông tin bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp
Bước 2: Tiến hành phân tích
- Tính toán các chỉ tiêu, nhóm chỉ tiêu tài chính cần thiết, trên cơ sở đó, tuỳ
theo góc độ nghiên cứu khác nhau mà sẽ đi sâu vào phân tích các nội dung có liên
quan.
- Lập bảng biểu để so sánh, phân tích các chỉ tiêu đã tính toán, nhằm tìm ra
nguyên nhân gây ra thực trạng của tình hình tài chính.
Bước 3: Báo cáo kết quả phân tích tài chính.
- Đưa ra nhận xét đánh giá về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Dựa vào đó, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những thành

công và khắc phục những hạn chế.
- Lập kế hoạch, dự báo tài chính cho năm tới.
1.2.2 Thu thập và xử lý thông tin
* Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải, thuyết
minh thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp, phục vụ quá trình dự đoán
tài chính. Nó bao gồm cả những thông tin nội bộ và những thông tin bên ngoài,
những thông tin kế toán và cả những thông tin quản lý khác, những thông tin về số
lượng và giá trị trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo
cáo tài chính là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng.
Thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Trong thông tin bên ngoài, doanh nghiệp cần lưu ý thu thập những thông tin
chung (thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính
sách thuế, lãi suất), thông tin về ngành kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí
5
của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành tình trạng
công nghệ, thị phần, hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành)
- Các thông tin chung: hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
chịu tác động của nhiều yếu tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô, nên khi tiến hành
phân tích tài chính doanh nghiệp nhà phân tích cần đặt tình hình của doanh nghiệp
trong bối cảnh chung của nền kinh tế trong nước và khu vực.
Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ
hội kinh doanh, đến sự biến động của các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản
phẩm đầu ra, từ đó tác động đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh
doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên, khi các tác động diễn ra theo chiều
hướng bất lợi, nó sẽ tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Ngoài ra, các chính sách thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến

các quyết định tài trợ và sản xuất của doanh nghiệp. Bên cạnh đó các cơ hội kinh
doanh, các định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước, sự ổn định chính trị, xã
hội…cũng ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Chính vì vậy, để có sự đánh giá một cách khách quan, chính xác về tình
hình tài chính của doanh nghiệp chúng ta phải xem xét cả các thông tin kinh tế bên
ngoài có liên quan.
- Các thông tin theo ngành kinh tế: Nội dung nghiên cứu trong phạm vi
ngành là việc đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt
động chung của ngành kinh doanh.
Việc nghiên cứu theo ngành chỉ rõ:
+ Tầm quan trọng của ngành nghiên cứu trong nền kinh tế.
+ Các sản phẩm và hoạt động khác nhau của ngành.
+ Quy trình công nghệ
+ Các khoản đầu tư
+ Cơ cấu ngành (mức độ tập trung hoá, các tập đoàn chủ yếu…)
+ Độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển.
6
Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành
là cơ sở tham chiếu để người phân tích có thể đánh giá, kết luận chính xác về tình
hình tài chính doanh nghiệp.
Thông tin trong nội bộ doanh nghiệp
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của một doanh nghiệp, có
thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông
tin quan trọng bậc nhất. Đó là các thông tin tổng quát về tình hình tài sản, sự hình
thành tài sản, sự vận động và thay đổi của chúng qua mỗi chu kỳ kinh doanh của
doanh nghiệp. Tất cả các thông tin này được phản ánh khá đầy đủ trong các báo
cáo tài chính.
Hệ thống báo cáo tài chính gồm có:
Bảng cân đối kế toán: Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả

tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây
là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan
hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông
thường, Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài
khoản kế toán: Một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của
doanh nghiệp.
Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản
hiện có tại thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh
nghiệp bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh số
vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: đó
là vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán
được sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống dưới.
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô vốn và kết cấu các loại tài sản;
bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về
tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản và bên nguồn vốn của Bảng cân đối kế
toán đều có các cột chỉ tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội
bảng còn có một số khoản mục ngoài Bảng cân đối kế toán như: Một số tài sản
thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá nhận bán hộ,
ngoại tệ các loại…
7
Mặt hạn chế của Bảng cân đối kế toán cũng như của các báo cáo tài chính
nói chung làm ảnh hưởng đến công tác phân tích tình hình tài chính, đó là dữ liệu
mà chúng cung cấp thuộc về quá khứ trong khi phân tích lại hướng đến tương lai.
Tuy nhiên, Bảng cân đối kế toán vẫn là một tư liệu quan trọng bậc nhất
giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng
thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. Nhìn vào Bảng cân đối kế
toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ
tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
Báo cáo kết quả kinh doanh: Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch
chuyển của tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép

dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả
kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ
khi bán hàng hoá dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ,
nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm
năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất - kinh doanh của
doanh nghiệp.
Nội dung của Báo cáo kết quả kinh doanh là chi tiết hoá của các chỉ tiêu
của đẳng thức tổng quát quá trình kinh doanh:
Doanh thu – Chi phí = Lợi nhuận
Từ đó Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết tình hình sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp trong năm là lỗ hay lãi. Báo cáo kết quả kinh doanh bao gồm
các khoản mục: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt
động tài chính, doanh thu từ các hoạt động bất thường và chi phí tương ứng với
từng hoạt động đó.
Hạn chế của Báo cáo kết quả kinh doanh là các chỉ tiêu chi phí phụ thuộc
vào quan điểm của kế toán trong quá trình hoạch toán, doanh thu bán hàng được
ghi nhận ngay khi khách hàng chấp nhận thanh toán, trong khi việc thanh toán tiền
hàng lại xảy ra vào một thời điểm khác. Nhược điểm này dẫn đến sự cần thiết của
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo
được chi trả hay không, cần tìm hiểu tình hình Ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân
quỹ thường được xác định cho thời hạn ngắn (thường là từng tháng), xác định
hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh; dòng tiền thực
8
nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, dòng tiền thực nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
Xác định dự báo dòng tiền thực xuất quỹ bao gồm: Dòng tiền xuất quỹ thực hiện
sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính;
dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường.
Về cơ bản có hai phương pháp lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Phương
pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Phương pháp trực tiếp đơn giản với

người lập và dễ dàng cho người đọc thuộc mọi đối tượng, bắt đầu từ tiền thu bán
hàng, đi qua tất cả các nghiệp vụ kinh tế có liên quan đến chi, thu tiền thực tế để
đến dòng ngân lưu. Phương pháp gián tiếp khá trừu tượng dựa vào các suy luận
ngược, bắt đầu từ lợi nhuận ròng sau đó điều chỉnh các khoản hạch toán thu chi
không dùng đến tiền mặt, loại trừ các khoản lỗ lãi từ hoạt động đầu tư và hoạt
động tài chính, sau đó điều chỉnh những thay đổi của tài sản lưu động trên bảng
cân đối kế toán, để đi đến dòng ngân lưu. Phương pháp gián tiếp nói rõ mối quan
hệ giữa Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cùng với Báo cáo kết quả kinh doanh, Bảng cân
đối kế toán chỉ ra được chất lượng của lợi nhuận. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn
giúp nhà phân tích giải thích được nguyên nhân thay đổi về tình hình tài sản,
nguồn vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp và thiết lập mức ngân quỹ dự
phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
Thuyết minh báo cáo tài chính: Đây là báo cáo quan trọng được trình bày
bằng lời văn nhằm giải thích thêm chi tiết của những nội dung thay đổi về tài sản,
nguồn vốn mà các dữ liệu bằng số trong các báo cáo tài chính không thể thể hiện
hết được như: đặc điểm hoạt động kinh doanh (hình thức sở hữu, hình thức hoạt
động, lĩnh vực kinh doanh…), chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp, phương
thức phân bổ chi phí, phương thức trích khấu hao, tỉ giá hối đoái được dùng để
hạch toán trong kỳ, sự thay đổi trong đầu tư, tài sản cố định, vốn chủ sở hữu, tình
hình thu nhập của nhân viên và các tình hình khác.
Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà
phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết
được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân
tích của họ.
Thu thập thông tin trong phân tích tài chính là bước đầu tiên nhưng có ý
nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp. Trong bước này, căn
9
cứ vào mục đích của công tác phân tích tài chính, nhà phân tích sẽ lựa chọn thông
tin cho phù hợp.

* Xử lý thông tin: Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình
xử lý thông tin đã thu thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở
các góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lí thông tin khác
nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các
thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh
giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự
đoán và quyết định.
Tuy nhiên phân tích tài chính không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là công
việc tổng hợp và sắp xếp số liệu trong khi các đối tượng tài chính cần nghiên cứu
lại luôn luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên ở bước này, các
nhà phân tích tài chính phải biết đặt một đối tượng tài chính này trong mối quan hệ
biện chứng với các đối tượng khác và trong mối liên hệ với các tiêu chuẩn, các
định mức tài chính và kinh tế.
* Dự đoán và ra quyết định: Thu thập xử lí thông tin nhằm chuẩn bị những
tiền đề và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa
ra các quyết định tài chính. Có thể nói, mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra
các quyết định tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm đưa
ra các quyết định liên quan tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng
trưởng, phát triển, tối đa hoá giá trị xí nghiệp. Đối với người cho vay và đầu tư
vào xí nghiệp là đưa ra các quyết định về tài trợ và đầu tư, đối với cấp trên của
doanh nghiệp đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp …
Tuy nhiên hiệu quả của công tác dự đoán và ra quyết định tài chính còn phụ
thuộc vào trình độ chuyên môn của các nhà nhân tích cũng như những người sử
dụng thông tin từ hoạt động phân tích tài chính.
1.2.3 Lựa chọn phương pháp phân tích tài chính
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và
biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên
trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài
chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Lựa chọn phương pháp phân tích tài chính là một nội dung cơ bản của công

tác phân tích tài chính trong các doanh nghiệp, là chìa khoá để cung cấp thông tin
10
cho nhà quản trị theo các lợi ích khác nhau. Xuất phát từ đặc điểm hoạt động kinh
doanh của từng bộ phận, từng doanh nghiệp khác nhau trong quá trình phân tích
có thể vận dụng những phương pháp cho phù hợp với mục đích của việc nghiên
cứu.
Về lý thuyết có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng
trên thực tế người ta thường sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số và
phương pháp Dupont.
* Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến và quan trọng
trong phân tích kinh tế nói riêng và phân tích tài chính nói chung. Theo phương
pháp này, nhà phân tích thường đối chiếu các chỉ tiêu kinh tế với nhau để thấy
được mức độ biến động của các đối tượng đang nghiên cứu. Phương pháp này có
ưu điểm là đơn giản, ít tính toán khi phân tích nên được sử dụng rộng rãi.
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện để có thể
so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội
dung, tính chất và đơn vị tính toán ) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc
so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân
tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể lựa chọn
bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân.
Nội dung so sánh bao gồm:
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành,
của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình
tốt hay xấu, được hay chưa được.

- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng
thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số
tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
11
Phương pháp này thường được áp dụng rộng rãi trong hầu hết các doanh
nghiệp vì tính đơn giản, dễ thực hiện lại đánh giá được rất nhiều các chỉ tiêu kinh
tế, đặc biệt là các doanh nghiệp thường xuyên xây dựng định mức, kế hoạch,
doanh nghiệp thuộc các ngành đã xây dựng được hệ thống chỉ tiêu trung bình
ngành để làm chuẩn mực.
*Phương pháp tỷ số
Phương pháp truyền thống được áp dụng trong phân tích tài chính là
phương pháp tỷ số. Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử
dụng để phân tích, đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ
tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện do nguồn thông tin kế toán và tài chính
được cải tiến, cung cấp đầy đủ hơn là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu
đáng tin cậy; việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy
nhanh quá trình tính toán các tỷ số, hệ thống được hàng loạt các tỷ số theo chuỗi
thời gian liên tục.
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các tỷ số của đại lượng
tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ số phản ánh sự biến đổi
của các đại lượng tài chính. Các tỷ số này được phân thành các nhóm tỷ số đặc
trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh
nghiệp. Bao gồm nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu về cơ cấu
vốn, nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động và nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời.
Mỗi nhóm tỷ số lại bao gồm nhiều tỷ số phản ánh riêng lẻ từng bộ phận hoạt động
tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân
tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của
mình.
Cũng như phương pháp so sánh,phương pháp tỷ số đơn giản và được sử

dụng ở rất nhiều doanh nghiệp, nó yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các
định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so
sánh các tỷ số của doanh nghiệp với tỷ lệ tham chiếu. Vì vậy để nâng cao hiệu quả
phân tích tài chính, phương pháp tỷ số thường được sử dụng kết hợp với phương
pháp so sánh.
*Phương pháp Dupont
12
Ngoài hai phương pháp trên, người ta còn hay sử dụng phương pháp
Dupont. Phương pháp này do Công ty Dupont của Mỹ sử dụng trong phân tích tài
chính lần đầu tiên vào khoảng sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngay sau đó,
phương pháp này đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của giới chuyên môn vì tính
hữu dụng của nó và dưới nhiều hình thức được áp dụng rộng rãi tại các công ty lớn
ở Mỹ.
Bản chất của phương pháp phân tích tài chính Dupont là tách một tỷ số
tổng hợp thành tích của chuỗi các tỷ số có mối liên hệ nhân quả với nhau. Điều đó
cho phép phân tích những ảnh hưởng của các tỷ số thành phần với tỷ số tổng hợp.
Với phương pháp này, các nhà phân tích có thể nhận ra những nguyên nhân dẫn
đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp.
Ví dụ từ chỉ tiêu doanh lợi tài sản - ROA, áp dụng phương pháp Dupont ta
có một cách tính mới như sau:
Với cách tính ROA mới này có thể thấy khả năng sinh lợi của đồng vốn
doanh nghiệp bỏ ra đầu tư chịu ảnh hưởng bởi khả năng sinh lợi từ hoạt động tiêu
thụ sản phẩm và hoạt động quản lý tài sản của doanh nghiệp.
Phương pháp Dupont rất có hiệu quả trong phân tích, tuy nhiên nó không
được áp dụng rộng rãi mà chỉ áp dụng cho các công ty lớn, có đội ngũ cán bộ phân
tích chuyên trách, có trình độ là do phương pháp này không chỉ đòi hỏi đánh giá
sự tác động của chỉ tiêu thành phần với chỉ tiêu tổng hợp mà còn sử dụng kinh tế
lượng để đánh giá mức độ tác động của các chỉ tiêu thành phần với nhau.
Trong quá trình xây dựng quy trình phân tích tài chính, người làm công tác
quản lý phải biết lựa chọn những phương pháp phân tích phù hợp tuỳ thuộc vào ưu

nhược điểm, điều kiện áp dụng của từng phương pháp cũng như đặc điểm, điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp mình.
1.2.4 Xác định nội dung phân tích tài chính
*Phân tích khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp
Qua các số liệu từ Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng cân đối kế toán,
chúng ta tiến hành phân tích một cách khái quát nhất tài chính doanh nghiệp để
13
ROA = LNST / Tài sản = LNST / Doanh thu x Doanh thu / Tài sản
thấy được xu hướng thay đổi của từng khoản mục theo thời gian. Việc phân tích
được tiến hành ở 3 nội dung chủ yếu sau:
- Về tài sản: so sánh số đầu kỳ với số cuối kỳ về số tuyệt đối và tỷ trọng, so
sánh tỷ trọng từng khoản mục bên tài sản với tổng số tài sản hiện có để thấy được
xu hướng biến động của chúng qua các năm.
- Về nguồn vốn cũng so sánh tương tự như phần tài sản nhằm rút ra những
kết luận chung nhất về khả năng thanh mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, về
khả năng tài trợ cho các tài sản.
- Về kết quả kinh doanh: xem xét sự thay đổi của doanh thu thuần, lợi
nhuận thuần cũng như tỷ trọng của từng loại chi phí trong tổng doanh thu (giá vốn
hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý) để đánh giá xu hướng thay đổi của
từng chỉ tiêu và đánh giá kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
*Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét và đánh giá sự
thay đổi của các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên Bảng cân đối kế toán về nguồn
vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để tiến hành phân tích diễn biến
nguồn vốn và sử dụng vốn trước tiên nhà phân tích tiến hành lập bảng kê nguồn
vốn và sử dụng vốn (Bảng tài trợ), nó giúp nhà quản lý xác định rõ các nguồn
cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó.
Để lập bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên bảng
cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột:
Sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: nếu các khoản mục bên tài sản tăng

hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn;
nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì
điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
14
BẢNG TÀI TRỢ
ĐVT: vnđ
Khoản mục N-1 N Sử dụng vốn Nguồn vốn
I.Tài sản
1. Tiền và tương đương tiền
2. Phải thu
3. Dự trữ
4. Tài sản cố định hữu hình
5.Tài sản cố định vô hình
6.Tài sản tài chính
II. Nguồn vốn
1. Phải trả nhà cung cấp
2. Phải trả, phải nộp khác
3. Vay ngắn hạn
4. Vay dài hạn
5. Vốn ban đầu
6. Quỹ
7.Lợi nhuận chưa phân phối
Tổng cộng
Việc thiết lập Bảng tài trợ là cơ sở để chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn
và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư.
Ngoài phân tích việc sử dụng vốn và nguồn vốn, người ta còn phân tích tình
hình tài chính theo luồng tiền để xác định sự tăng (giảm) tiền và nguyên nhân tăng
giảm tiền. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp quản lý ngân quỹ
tốt hơn.
*Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh

Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm
Tài sản lưu động (TSLĐ) và đầu tư ngắn hạn, Tài sản cố định (TSCĐ) và đầu tư
dài hạn. Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao
gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
- Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong
khoảng thời gian dưới 1 năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm: nợ
ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác.
- Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt
động kinh doanh bao gồm: vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay trung và dài hạn.
15
Nguồn vốn dài hạn trước hết được dùng để hình thành TSCĐ, phần dư của
nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành TSLĐ. Chênh
lệch giữa vốn dài hạn với TSCĐ hay giữa vốn ngắn hạn với TSLĐ được gọi là vốn
lưu động thường xuyên (hay còn gọi là vốn lưu động ròng).
Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ
hoặc: Vốn lưu động thường xuyên = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn
Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào mức độ của vốn lưu
động thường xuyên. Khi vốn lưu động thường xuyên < 0 nguồn vốn dài hạn không
đủ đầu tư cho TSCĐ, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư một
phần TSCĐ. TSLĐ của doanh nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ
ngắn hạn đến hạn. Nếu vốn lưu động thường xuyên > 0, nguồn vốn dài hạn dư
thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ, phần dư thừa đầu tư vào TSLĐ. Đồng thời TSLĐ >
nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán tốt.
Vốn lưu động thường xuyên = 0 có nghĩa là nguồn vốn dài hạn đủ tài trợ
cho TSCĐ và TSLĐ đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài
chính như vậy là lành mạnh.
Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh
giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cho biết doanh nghiệp có đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không và TSCĐ của doanh nghiệp có được tài
trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không.

Ngoài vốn lưu động thường xuyên nghiên cứu tình hình bảo đảm nguồn
vốn cho hoạt động kinh doanh người ta còn sử dụng các chỉ tiêu như nhu cầu vốn
lưu động thường xuyên và vốn bằng tiền.
Nhu cầu vốn lưu động
thường xuyên
= Hàng tồn kho +
Các khoản
phải thu
- Nợ ngắn hạn
Vốn bằng tiền =
Vốn lưu động
thường xuyên
-
Nhu cầu vốn lưu động thường
xuyên
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp
cần để tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Nhu
cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ
ngắn hạn, tại đây các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn
16
ngắn hạn, doanh nghiệp phải dùng vốn dài hạn để tài trợ cho phần chênh lệch.
Ngược lại, nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0 nghĩa là các nguồn vốn
ngắn hạn dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn, doanh nghiệp không cần nhận
vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.
Vốn bằng tiền < 0 xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn
và dài hạn hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn.
Như vậy, để đảm bảo nguồn vốn và sử dụng vốn kinh doanh đảm bảo sự
lành mạnh về tài chính doanh nghiệp, trước tiên phải có vốn lưu động thường
xuyên > 0. Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 phải tìm cách làm giảm
hàng tồn kho, tăng thu từ các khoản phải thu; nếu nhu cầu vốn lưu động thường

xuyên < 0 phải hạn chế vay ngắn hạn từ bên ngoài.
*Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian
Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian nhằm đánh giá chi tiết tình hình
tài chính và dự báo những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ
tiêu này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số rất có ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn…
của doanh nghiệp.
Lãi gộp = Doanh thu - Giá vốn hàng bán
Thu nhập trước khấu
hao và lãi vay
= Lãi gộp -
Chi phí bán hàng,
quản lý
Thu nhập trước thuế
và lãi vay
=
Thu nhập trước khấu
hao và lãi vay
- Khấu hao
Thu nhập trước thuế =
Thu nhập trước thuế
và lãi vay
- Lãi vay
Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế -
Thuế thu nhập
doanh nghiệp
Trên cơ sở đó, nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức
tăng tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt động
của doanh nghiệp. Đồng thời, nhà phân tích cũng so sánh chúng với các chỉ tiêu
cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp.
17

*Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính
Có 4 nhóm chỉ tiêu chủ yếu là tỷ số về khả năng thanh toán, tỷ số về khả
năng cân đối vốn, tỷ số về khả năng hoạt động, tỷ số về khả năng sinh lời.
Tuỳ theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều
hơn tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc
biệt quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các
nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để
đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem
xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp.
Mỗi nhóm tỷ số bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số
được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Tuy
nhiên việc phân tích các tỷ số sẽ có ý nghĩa hơn nếu sử dụng số liệu trong các báo
cáo tài chính để minh hoạ bản chất, cách tính toán và ý nghĩa của chúng.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp luôn cần huy động
các nguồn tín dụng để tài trợ cho nguồn vốn thiếu hụt của mình. Việc doanh
nghiệp có huy động được nguồn vốn tín dụng hay không phụ thuộc vào uy tín và
khả năng tài chính của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đảm bảo được khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn thì các chủ ngân hàng, các tổ chức tín dụng yên
tâm cho doanh nghiệp vay vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ luôn đặt ra
câu hỏi liệu doanh nghiệp có khả năng trả các khoản nợ tới hạn hay không? Để trả
lời các câu hỏi đó thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Hệ số khả năng thanh toán hiện hành (hay khả năng thanh toán ngắn hạn)
Khả năng thanh toán hiện hành =
TSLĐ
Nợ ngắn hạn
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn
được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn

tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Giá trị của hệ số này còn phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ngành
nghề nào mà TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản thì hệ số này lớn và
18
ngược lại. Nếu hệ số này lớn hơn 1 thì được coi là an toàn, còn hệ số này nhỏ hơn
1 thì doanh nghiệp rất dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên
nếu hệ số này quá cao, khả năng thanh toán là khả quan nhưng khả năng sinh lời
chưa hẳn đã tốt bởi có thể do đầu tư quá nhiều vào TSLĐ so với nhu cầu, một sự
đầu tư không mang lại hiệu quả lâu dài, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách
phân phối vốn hợp lí hơn.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán nhanh =
Tiền + Phải thu
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh
với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu.
Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng TSLĐ
và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, hệ số khả năng thanh toán nhanh cho biết
khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ.
Hệ số này cao là tốt cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhưng nếu qua
cao có thể do tỷ trọng các khoản phải thu trong tổng TSLĐ quá lớn, điều chứng tỏ
doanh nghiệp đang bị chiếm dụng nhiều vốn hoặc có thể do doanh nghiệp đang
duy trì một mức dự trữ ngân quỹ không hợp lý.
- Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Hệ số khả năng thanh toán tức thời =
Tiền
Nợ đến hạn
Nợ đến hạn ở đây bao gồm các khoản nợ ngắn han, trung hạn và dài hạn
đến hạn trả. Tuy thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà các

doanh nghiệp có hệ số khả năng thanh toán tức thời hợp lý khác nhau. Tuy nhiên
nếu tỷ số này quá thấp thì các doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán,
còn nếu chỉ tiêu này quá cao có thể do tiền của doanh nghiệp bị ứ đọng quá nhiều,
vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay
Khả năng thanh toán lãi vay =
EBIT
Tổng số lãi vay phải trả trong kỳ
19
Trong đó EBIT là tổng số lợi nhuận trước thuế và lãi vay phản ánh toàn bộ
số lợi nhuận do các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ mang lại.
Tổng số lãi vay phải trả trong kỳ bao gồm lãi vay ngắn hạn của ngân hàng, công
nhân viên và lãi vay qua trái phiếu. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay cho biết
mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả
được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn
Trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp thì các nhà quản lý thường
mong muốn đạt tới cơ cấu vốn và nguồn vốn tối ưu để sử dụng vốn và nguồn vốn
có hiệu quả nhất. Nhưng trong quá trình phát triển của doanh nghiệp thì cơ cấu
này luôn bị thay đổi, phá vỡ do tình hình đầu tư. Vì vậy việc nghiên cứu về khả
năng cân đối vốn của doanh nghiệp sẽ cung cấp những thông tin cần thiết cho nhà
quản lý để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý.
Bên cạnh đó các chủ nợ cũng rất quan tâm đến các chỉ tiêu này vì nó đo
lường phần vốn góp của chủ sở hữu so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với
doanh nghiệp. Các chủ nợ nhìn vào số vốn của các chủ sở hữu để đánh giá mức độ
an toàn của các món nợ. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỉ lệ nhỏ trong tổng số
vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu.
- Tỷ số nợ trên tổng tài sản (Hệ số nợ)
Hệ số nợ =
Nợ phải trả

Tổng tài sản
Hệ số này phản ánh trong một đồng vốn doanh nghiệp đang sử dụng thì có
bao nhiêu đồng là vốn vay. Hệ số này dùng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh
nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ
này vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường
hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó các chủ doanh nghiệp lại ưa thích tỷ số
này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát
doanh nghiệp. Song, nếu hệ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán. Tỷ số này cao hay thấp cũng tuỳ thuộc vào lãi suất vì phải
đảm bảo một chi phí tài chính phù hợp.
20
- Hệ số tự tài trợ
Hệ số tự tài trợ =
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Hệ số tự tài trợ phản ánh trong nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng thì
số vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng là bao nhiêu, thể hiện mức độ hoạt động độc lập
về tài chính của doanh nghiệp hay mức độ tự tài trợ của chủ doanh nghiệp đối với
nguồn vốn kinh doanh của mình. Các chủ nợ thường quan tâm đến hệ số này khi
quyết định cho vay, vì nó thể hiện mức độ đảm bảo cho các khoản nợ của doanh
nghiệp.
- Hệ số cơ cấu tài sản
Hệ số cơ cấu tài sản =
TSLĐ (TSCĐ)
Tổng tài sản
Tỷ số này phản ánh cơ cấu đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp.
Phân tích chỉ tiêu này cho phép xây dựng và điều chỉnh cơ cấu tài sản phù hợp với
môi trường kinh doanh của từng doanh nghiệp, tuy nhiên nó cao hay thấp chưa
phản ánh được hiệu quả đầu tư vào tài sản nếu không căn cứ vào loại hình và lĩnh
vực sản xuất kinh doanh.

Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Các tỷ số về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử
dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho
các loại tài sản khác nhau như TSCĐ, TSLĐ. Do đó, các nhà phân tích không chỉ
quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng sử dụng tổng tài sản mà còn chú
trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh
nghiệp
- Vòng quay tiền
Vòng quay tiền =
Doanh thu thuần
Tiền và tương đương tiền bình quân
Tiền là một khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh
nghiệp. Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp
nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, hưởng chiết khấu thanh toán do
thanh toán tiền hàng sớm. Chỉ tiêu vòng quay tiền phản ánh số vòng quay của tiền
21

×