Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.95 KB, 111 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC




TRẦN PHƢƠNG THANH



RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN








HÀ NỘI – 2014
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





TRẦN PHƢƠNG THANH


RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC


LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 601410


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Ninh





HÀ NỘI – 2014
3

LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian nghiên cứu miệt mài, nghiêm túc, cuốn luận văn của tôi
đã hoàn thành. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự
quan tâm, giúp đỡ. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc

đến PGS.TS Nguyễn Quang Ninh, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ
bảo, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo của trường Đại
học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội - những người luôn nhiệt tình với
công tác đào tạo người thầy đã để lại những ấn tượng hết sức tốt đẹp trong
suốt 6 năm tôi học tập tại đây.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đang giảng
dạy tại trường Tiểu học Trung Tự, Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình triển khai đề tài. Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn gia
đình, người thân và bạn bè đã dành cho tôi sự quan tâm khích lệ và chia sẻ
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng luận văn khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và
các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn



Trần Phƣơng Thanh


4

DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


Viết tắt
ĐC

GV
HS
Nxb
Viết đầy đủ
Đối chứng
Giáo viên
Học sinh
Nhà xuất bản
PGS
SGK
TN
Th.S
TS
Tr

Phó giáo sư
Sách giáo khoa
Thực nghiệm
Thạc sĩ
Tiến sĩ
Trang




















ii
5

MỤC LỤC
Lời cảm ơn…………………………………………………… . ………………i
Danh mục các chữ viết tắt………… ………………………… . ………….….ii
Danh mục các bảng……………………………………………… ………….v
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA RÈN KĨ NĂNG
VIẾT CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC…….……………… 8
1.1. Cơ sở lí luận 8
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 8
1.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ Tiếng Việt liên quan đến Chính tả 13
1.1.3. Nguyên tắc dạy học Chính tả 16
1.1.4. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học (liên quan đến rèn kỹ
năng viết Chính tả). 20
1.2. Cơ sở thực tiễn 22
1.2.1. Chương trình phân môn Chính tả ở Tiểu học 22
1.2.2.Thực trạng kĩ năng viết Chính tả của học sinh Tiểu học 25
1.2.3. Thực trạng rèn kĩ năng viết Chính tả 31

1.2.4. Nguyên nhân của thực trạng 33
Kết luận chương 1 36
Chƣơng 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH
TẢ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC 37
2.1. Lưu ý trước khi rèn kĩ năng viết Chính tả cho học sinh Tiểu học. 37
2.2. Sử dụng hệ thống phương pháp dạy học trong Chính tả Đoạn bài 39
2.2.1. Phương pháp trực quan 39
2.2.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu 42
2.2.3. Phương pháp giải thích. 43
iii
6

2.3. Sử dụng hệ thống bài tập trong Chính tả Âm vần 45
2.3.1. Bài tập trắc nghiệm 47
2.3.2. Bài tập tình huống 56
2.3.3. Bài tập dùng để tổ chức trò chơi 66
Kết luận chương 2 71
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 72
3.1. Khái quát về thực nghiệm sư phạm 72
3.1.1. Mục đích thực nghiệm 72
3.1.2. Nội dung thực nghiệm 72
3.1.3. Đối tượng thực nghiệm 73
3.1.4. Kế hoạch thực nghiệm 73
3.2. Phân tích kết quả thực nghiệm 74
3.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả thực nghiệm 74
3.2.2. Kết quả thực nghiệm và đánh giá kết quả thực nghiệm 75
Kết luận chương 3 82
KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
PHỤ LỤC 87








7

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Chuẩn kĩ năng Chính tả Tiểu học
10
Bảng 1.2. Bảng thống kê lỗi chính tả của học sinh Bắc Trung Bộ
28
Bảng 3.1. Bảng tỉ lệ phần trăm điểm số lớp ĐC và TN (lớp 4)
75
Bảng 3.2. Bảng điểm số (x
i
) và tần số xuất hiện (n
i
) (Lớp 4)
76
Bảng 3.3. Điểm trung bình giữa hai lớp 4
76
Bảng 3.4. Bảng tỉ lệ phần trăm lớp TN và ĐC (lớp 3)
77
Bảng 3.5. Bảng điểm số (x
i
) và tần số xuất hiện điểm số (n

i
) (Lớp 3)
77
Bảng 3.6. Bảng điểm trung bình lớp 3
78
Bảng 3.7. Kỹ năng viết chính tả của học sinh
79

















8

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Là một đất nước đang phát triển, Việt Nam đã có sự phát triển mạnh

mẽ của khoa học kỹ thuật, công cuộc đổi mới của đất nước cũng đạt được
những thành tựu nhất định trên tất cả các lĩnh vực. Trong thời đại văn minh,
hiện đại này, ngành giáo dục cũng đứng trước những đòi hỏi mới, đó là đào
tạo được những con người có đủ trình độ, năng lực đáp ứng được những yêu
cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, chúng
ta phải bắt đầu từ bậc học Tiểu học bởi đây là nền móng cho toàn bộ hệ thống
của nền giáo dục quốc dân. Thay vì cung cấp tri thức đơn thuần, những nhà
sư phạm đã hướng tới việc giảng dạy để học sinh biết suy nghĩ độc lập, tích
cực, chủ động, sáng tạo trong việc tìm kiếm và chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng và
có thái độ ứng xử phù hợp với những tình huống luôn biến động trong cuộc
sống. Tuy nhiên, là một giáo viên dạy Văn, tôi có nhiều cơ hội được đọc các
bài văn của học sinh, sinh viên, thường xuyên nói chuyện, trao đổi với các em
về kiến thức cũng như lắng nghe các em chia sẻ về cuộc sống. Bên cạnh niềm
vui của nghề, tôi luôn cảm thấy lo lắng khi mà từ các em học sinh nhỏ tuổi tới
các sinh viên Đại học, Cao đẳng vẫn nói ngọng và viết sai chính tả. Các em
thường đổ lỗi cho lí do vùng miền, thói quen hoặc do bẩm sinh. Tuy nhiên, tôi
biết, một trong những yêu cầu của phân môn Chính tả tại các trường Tiểu học
nói riêng và môn Ngữ văn ở cấp học phổ thông nói chung, là giúp học sinh
biết viết đúng chính tả và sửa nói ngọng. Thiết nghĩ, nếu việc dạy Chính tả ở
trường Tiểu học đạt hiệu quả như mong đợi thì đã không dẫn tới tình trạng
trên.
Cùng với các môn học khác, môn Tiếng Việt cũng có nhiều đổi mới
nhằm nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu xã hội. Mục tiêu chung
của môn Tiếng Việt ở Tiểu học là: Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ
năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong
9

các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Để giúp cho học sinh khắc sâu được
kiến thức và rèn luyện được kỹ năng, trong quá trình dạy học người giáo viên
phải tổ chức được các hoạt động nhằm phát huy được tính tích cực, chủ động,

sáng tạo của học sinh. Trong đó, nhiều nhà giáo dục đã quan tâm tới việc xây
dựng kiến thức và kĩ năng Chính tả cho học sinh một cách hữu thức và vô
thức, tuy nhiên, việc làm này lại chưa thực sự đạt hiệu quả tối ưu.
Phân môn Chính tả có vị trí quan trọng trong cấu trúc chương trình
môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học ở trường tiểu học nói chung, giúp cho
học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, năng lực và thói
quen viết đúng tiếng Việt văn hoá, tiếng Việt chuẩn mực. Tuy nhiên, trong
thực tế dạy học Chính tả ở Tiểu học hiện nay, nhiều giáo viên vẫn chưa vận
dụng nhuần nhuyễn việc hình thành kĩ năng chính tả cho học sinh, quá trình
dạy học vẫn còn mang nặng lối dạy học theo phương pháp truyền thống. Do
đó, hiệu quả của giờ học chưa cao, học sinh bị hạn chế trong việc thích ứng
với vốn từ vựng phong phú của tiếng Việt mà đáng ra, các em đã có thể sử
dụng chính xác cả về nói, viết, hiểu rõ nghĩa, đồng thời thấy được cái đẹp của
tiếng mẹ đẻ.
Để khắc phục được tình trạng trên và đáp ứng yêu cầu của đổi mới
phương pháp dạy học Chính tả, chúng tôi nhận thấy, cần phải xây dựng một
hệ thống các biện pháp có thể sử dụng trong giờ học Chính tả ở Tiểu học, qua
đó rèn cho các em kĩ năng Chính tả cần thiết, đảm bảo cả chính tả hữu thức và
vô thức. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng
viết chính tả cho học sinh Tiểu học”.
2.Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho học sinh thế nào cho đạt hiệu quả,
vấn đề này đã được nhiều giáo viên và các nhà sư phạm quan tâm. Các tác giả
với các bài viết đã đề cập đến nhiều khía cạnh, phương diện, cụ thể như:
Năm 1969, với cuốn “Dạy học sinh viết đúng chính tả” của Trịnh Mạnh
và Trần Thành Lâm, chúng ta đã có những tài liệu ban đầu được dùng cho
10

giáo viên dạy cấp I và lớp 5, cung cấp những kiến thức cơ bản cho việc dạy
Chính tả ở Tiểu học như phương pháp, quy trình, nội dung cơ bản, tuy nhiên,

tới nay, sau nhiều cuộc cải cách giáo dục và quá trình hoàn thiện ngôn ngữ
tiếng Việt, những nội dung này còn ít tính phù hợp với dạy học hiện đại.
Đến năm 1989, trong cuốn “Luật và mẹo chính tả”, Phan Quang An đã
đưa ra những điểm cốt yếu trong mẹo - luật chính tả tiếng Việt: đại cương về
tiếng, âm, thanh; Luật hỏi, ngã; Luật chuyển âm, phụ âm đây là nội dung rất
hữu ích khi dạy Chính tả ở Tiểu học.
Năm 2003, Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân Thảo với cuốn “Dạy học chính
tả ở Tiểu học” đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy học Chính tả ở
Tiểu học, đồng thời đưa ra một số nguyên tắc, phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học Chính tả nhằm nâng cao chất lượng dạy học Chính tả nói riêng
và dạy học môn Tiếng Việt nói chung. Ngoài ra tác giả còn đề ra một số quy
tắc chính tả tiếng Việt giúp người đọc biết viết đúng, thành thạo âm tiết, từ đó
hình thành kỹ năng chính tả tiếng Việt.
Năm 2007, PGS.TS Nguyễn Quang Ninh tái bản giáo trình “Phương
pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học” đã cung cấp một số vấn đề chung về
phương pháp và nguyên tắc đặc trưng của việc dạy học tiếng Việt, cụ thể, với
phần môn Chính tả, tác giả đã đưa ra ba phương pháp đặc trưng của phân môn
này là Trực quan, so sánh - đối chiếu và giải thích, đồng thời cung cấp những
kiến thức cơ bản về nội dung phân môn, phân bố chương trình và quá trình
lên lớp của một tiết Chính tả.
Với cuốn “Chữ viết và dạy chữ viết ở tiểu học” được tái bản nhiều lần từ
năm 2002 tới nay, tác giả Lê A đã phân tích một số cơ sở lý luận và thực tiễn
của dạy học Chính tả ở tiểu học, đồng thời đưa ra một số nguyên tắc và một
số kiểu bài dạy chính tả ở tiểu học cũng như các vấn đề chính tả phương ngữ
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Chính tả. Cuốn sách đã bổ sung những thiếu
sót, đưa ra cách hiểu và giải thích đúng đắn hơn về các quy tắc chính tả mà
“Luật và mẹo chính tả” của Phan Quang An đã đề xuất.
11

“Phương pháp dạy học Tiếng Việt” của nhóm tác giả Lê Phương Nga,

Lê A được tái bản năm 2012 đã cung cấp một cách hệ thống và mạch lạc về
nội dung của cả bảy phân môn Tiếng Việt, trong đó, Chính tả được đề cập tới
ở các khía cạnh: nội dung chương trình, chuẩn kiến thức, kĩ năng của phân
môn, phương pháp, nguyên tắc dạy học, quá trình lên lớp một giờ Chính tả và
cung cấp một số mẫu giáo án cho bài cụ thể.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn chú ý tới Từ điển chính tả của Hoàng Phê,
đây là bộ từ điển liên tục được cập nhật với số lượng từ lớn, tương đối đầy đủ,
từ điển giúp cho người viết tìm thấy hầu hết các dạng viết chuẩn thông dụng
trong văn bản, giải quyết các trường hợp có vấn đề chính tả phổ biến trong
tiếng Việt, có ích lợi đối với người nghiên cứu, học tập, giảng dạy chính tả.
Ngoài ra, chúng tôi còn tìm hiểu một số các công trình nghiên cứu như:
luận văn của sinh viên Nguyễn Thị Vân được bảo vệ thành công tại đại học
Sư phạm Hà Nội năm 2006 với đề tài: “Rèn kĩ năng viết đúng phân môn
chính tả cho học sinh lớp 3”, một số sáng kiến kinh nghiệm của các thầy cô
giáo đang trực tiếp tham gia giảng dạy tại các trường Tiểu học như: “Biện
pháp nâng cao chất lượng chính tả cho học sinh lớp 4” của cô giáo Nguyễn
Thị Vân ở trường Tiểu học Hịa Long, tỉnh Đồng Nai năm 2008, “Làm thế nào
để giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả” của cô giáo Đỗ Thị Lành ở trường
Tiểu học Bình Chuẩn, tỉnh Bình Dương năm 2009… Các nghiên cứu khoa
học này đa phần đều đề cập tới các lỗi chính tả mà học sinh thường mắc như:
lỗi phụ âm đầu, vần, thanh điệu,… và đề xuất một số biện pháp cải thiện thực
trạng này như đổi mới phương pháp dạy học, luyện phát âm, giải nghĩa từ…
Qua quá trình tìm hiểu các tài liệu khoa học trên, chúng tôi nhận thấy
rằng, trong các cuốn sách, giáo trình, các tác giả bàn đến vấn đề một cách
chung chung, trường nghiên cứu còn rộng, chưa đi sâu vào khảo sát thực tế
tình trạng dạy học Chính tả một cách cụ thể, còn trong các nghiên cứu khoa
học phạm vi nhỏ, nội dung được đưa chi tiết, sát thực tế, song lại khá áp dụng
trên diện rộng với đối tượng đa dạng, phức tạp hơn. Trong đề tài này, chúng
12


tôi đi sâu khảo sát một cách cụ thể tại trường Tiểu học tại hà Nội, kết hợp với
kết quả khảo sát của các tác giả di trước về các vùng phương ngữ khác, từ đó
đưa ra những biện pháp thay đổi về việc sử dụng phương pháp và hệ thống
bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng viết chính tả cho học sinh tiểu học, từ đó nâng
cao hiệu quả dạy học Chính tả.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu vể các biện pháp
rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Tiểu học. Qua quá trình khảo sát
và nghiên cứu tài liệu, chúng tôi cho rằng, với các lỗi chính tả mà hiện nay
học sinh Tiểu học vẫn thường mắc phải như lỗi trình bày, lỗi âm đầu, vần…
thì giáo viên có thể vận dụng một hệ thống phương pháp và bài tập mang tính
đặc trưng của phân môn để luyện kĩ năng cho học sinh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát cơ sở lí luận về việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học
sinh Tiểu học.
Khảo sát thực trạng dạy phân môn Chính tả và việc rèn kĩ năng viết
đúng chính tả cho học sinh Tiểu học hiện nay (cụ thể tại trường Tiểu học
Trung Tự, Hà Nội)
Xây dựng một hệ thống các biện pháp đặc trưng cho phân môn Chính
tả và cách sử dụng các biện pháp này nhằm rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho
học sinh Tiểu học.
Thực nghiệm sư phạm tại tại trường Tiểu học Trung Tự, so sánh đối
chiếu kết quả dạy học để rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất quy
trình dạy học, nội dung bài tập để rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh
Tiểu học.
5. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi luận văn, chúng tôi tập trung nghiên cứu chương trình
phân môn Chính tả trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học,
đưa ra một số phương pháp và hệ thống bài tập để rèn kĩ năng viết chính tả
13


cho học sinh trong quá trình dạy học và tiến hành thực nghiệm tại trường tiểu
học Trung Tự.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa lý luận
Tổng kết cơ sở lý luận của việc rèn kĩ năng viết chính tả, xây dựng hệ
thống biện pháp và cách sử dụng chúng hợp lí trong bài Chính tả để rèn kĩ
năng viết chính tả cho học sinh Tiểu học
b. Ý nghĩa thực tiễn
Tổng kết thực trạng rèn kĩ năng viết chính tả trong trường Tiểu học, chỉ
ra những bài học thành công và hạn chế, vận dụng các biện pháp đã đề xuất
trong thực tế giảng dạy để rút ra kết luận. Kết quả nghiên cứu có thể được áp
dụng cho việc dạy phân môn Chính tả trong các trường Tiểu học của cả
nước. Nó còn có giá trị tham khảo cho các nhà sư phạm.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: tìm hiểu thực tế dạy học Tiếng
Việt ở Tiểu học hiện nay.
Phương pháp thống kê: khảo sát và phân loại các lỗi chính tả mà học
sinh thuộc phương ngữ Bắc Bộ thường mắc phải.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: xây dựng hệ thống phương pháp đặc
trưng của phân môn Chính tả và vận dụng trong các phần của bài Chính tả.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm: xử lý kết quả thu được để đánh
giá hiệu quả của quá trình thực nghiệm.
8. Bố cục của khoá luận
Luận văn chia thành ba phần, phần mở đầu đề cập tới lí do chọn đề tài,
những công trình khoa học đã đề cập tới vấn đề mà luận văn quan tâm,
14


phương pháp tiến hành luận văn cũng như mục đích mà chúng tôi hướng tới
khi tiến hành đề tài này. Phần nội dung chia thành ba chương, cuối mỗi
chương có kết luận của chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của rèn kĩ năng viết đúng chính tả
cho học sinh Tiểu học.
Chương 2: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học
sinh Tiểu học
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Phần thứ ba là kết luận và khuyến nghị sau khi chúng tôi tiến hành
nghiên cứu vấn đề, đưa ra đề xuất và thực nghiệm trong thực tế. Ngoài ra, đề
tài còn chưa các phụ lục và một số bảng biểu.



















15

CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA RÈN KĨ NĂNG
VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Chính tả, kỹ năng và kỹ năng viết đúng chính tả
Trong cuốn Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 tái bản năm 2012,
nhóm tác giả đã đưa ra định nghĩa về chính tả như sau: “Chính tả là viết đúng,
là cách viết hợp với chuẩn và những quy định mang tính quy ước xã hội, được
mọi người trong một cộng đồng chấp nhận và tuân thủ” [8, tr 182]. Còn trong
cuốn giáo trình Tiếng Việt do Lưu Thị Tình biên soạn và xuất bản năm 2013,
chúng tôi tìm thấy định nghĩa về chính tả như sau: “Chính tả là tiêu chuẩn hóa
chữ viết của một ngôn ngữ. Nói cách khác, chính tả là viết đúng chữ viết (các
âm, các thanh trong âm tiết, các chữ số, viết hoa) theo chuẩn mực ngữ âm của
ngôn ngữ” [14, tr 64]. Như vậy, chúng tôi kết luận rằng, chính tả là quy ước
mà xã hội đặt ra đối với chữ viết để người sử dụng biết viết đúng. Một số quy
định về chữ viết tiếng Việt như quy định đánh dấu phụ, dấu thanh, quy tắc
viết hoa tên riêng, quy tắc dùng dấu nối, quy tắc về việc sử dụng phụ âm đầu,
vần và thanh điệu… là những vấn đề chính tả mà người sử dụng ngôn ngữ
hay mắc phải, đây cũng là vấn đề mà chúng tôi quan tâm để tìm ra biện pháp
giải quyết trong luận văn này.
Tiếp theo, chúng tôi muốn tìm hiểu về kĩ năng. Theo quan niệm của
tâm lý học hiện đại, trong quá trình dạy học, giáo viên cần truyền đạt cho học
sinh những tri thức, kĩ năng và định hướng tâm tư, tình cảm cho các em một
cách đúng đắn. Nắm được tri thức là hiểu biết và ghi nhớ được khái niệm
khoa học. Tiến thêm một bước nữa là vận dụng tri thức, khái niệm, định
nghĩa, định luật… vào thực tiễn thì sẽ có kỹ năng, đó là một hành động ý chí

đòi hỏi phải “động não”, suy xét, tính toán, phải có sự nỗ lực ý chí thì mới
16

hoàn thành được. Như vậy, kỹ năng chính là sự vận dụng kiến thức đã thu
nhận được ở một lĩnh vực nào đó vào việc thực hiện có kết quả một thao tác,
một hoạt động tương ứng phù hợp với mục tiêu và điều kiện thực tế đã cho.
Kỹ năng không đơn thuần là những thao tác chân tay mà là những thao tác trí
tuệ. Nội dung của kỹ năng là một hệ thống phức tạp các thao tác nhằm làm
biến đổi và làm sáng tỏ những thông tin chứa trong tình huống và nhiệm vụ
để đối chiếu và xác lập quan hệ với các hành động cụ thể. Để hình thành kỹ
năng ở học sinh, giáo viên phải giúp học sinh biết cách tìm tòi để nhận ra yếu
tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ của chúng trong các tình huống và
trong các bài tập. Giáo viên đồng thời phải giúp học sinh hình thành một mô
hình khái quát để giải quyết các vấn đề, đối tượng cùng loại, đồng thời, còn là
người giúp học sinh xác lập được mối quan hệ giữa các kiến thức và vấn đề
cần giải quyết có tính mô hình tương ứng.
Trong thời gian ở trường Tiểu học, một loạt các kỹ năng cần và sẽ được
hình thành ở trẻ: kỹ năng học tập, lao động, vệ sinh,… có những kỹ năng
chung (lập kế hoạch công việc, tự kiểm tra, tự đánh giá,…) và những kỹ năng
riêng. Cũng trong quá trình học tập, mỗi bộ môn đòi hỏi có những kỹ năng
đặc trưng. Đối với môn Toán là kỹ năng tính toán. Đối với các môn Tìm hiểu
Tự nhiên đó là kỹ năng quan sát. Đối với môn Tiếng Việt, mỗi phân môn
cũng có một kỹ năng đặc trưng phù hợp với đặc điểm của từng phân môn đó.
Phân môn Chính tả cũng vậy, nó hình thành cho học sinh các kiến thức và kỹ
năng, đặc biệt là kỹ năng viết chính tả.
Sự vận dụng những tri thức về chữ viết, quy tắc chính tả cùng với sự
sáng tạo trong nhận thức để viết chữ và viết văn bản đúng theo quy định phân
môn Chính tả đề ra gọi là kỹ năng viết chính tả. Kỹ năng viết chính tả đối với
học sinh Tiểu học ở mức độ thấp là chép lại, ghi các văn bản đã có theo lời
người khác đọc hoặc dựa vào trí nhớ một cách chính xác, khoa học. Đó là loại

chính tả đoạn bài. Kĩ năng viết chính tả ở mức độ cao hơn đối với học sinh
Tiểu học là giải quyết hệ thống bài tập tương ứng trong sách giáo khoa bằng
17

cách vận dụng các kiến thức đã biết để so sánh, phân tích, tổng hợp rồi đưa ra
đáp án chính xác cho bài tập, đồng thời hình thành các kiến thức mới về
Chính tả. Đó là chính tả âm vần. Một tiết Chính tả sẽ có đủ cả hai nội dung
này, đoạn bài và âm vần. Chúng tôi xin khái quát chuẩn kĩ năng chính tả ở
Tiểu học trong bảng sau:
Bảng 1.1. Chuẩn kĩ năng Chính tả Tiểu học
Lớp
Mức độ cần đạt
1
Viết đúng chính tả bài viết có độ dài khoảng 30 chữ, tốc độ
30 chữ/15 phút, không mắc quá 5 lỗi theo hình thức nhìn –
viết (tập chép). Trình bày bài chính tả đúng mẫu.
2
-Viết đúng các chữ mở đầu bằng c/k, g/gh, ng/ngh, viết
được một số chữ ghi tiếng có vần khó (uynh,ươ, uyu, oay,
oăm…).
- Viết đúng một số cặp từ dễ lẫn âm đầu (l/n, s/x, d/r/gi,…)
vần (an/ang, iu/iêu, ưu/ươu…), thanh (?/~, ~/., …) do ảnh
hưởng của phát âm địa phương.
- Biết viết hoa chữ cái mở đầu câu, viết hoa tên người, tên
địa lí Việt Nam.
- Tập chép, Nghe – viết bài chính tả có độ dài khoảng 50
chữ, tốc độ 50 chữ/15 phút, trình bày sạch sẽ, đúng quy
định, không mắc quá 5 lỗi.
3
- Nghe – viết, Nhớ - viết bài chính tả có độ dài khoảng 60 –

70 chữ/15 phút, không mắc quá 5 lỗi, trình bày đúng quy
định, bài viết sạch.
- Viết đúng tên riêng Việt Nam và một số tên riêng nước
ngoài.
- Biết phát hiện và sửa lỗi chính tả trong bài viết.
4
-Viết được bài chính tả Nghe – viết, Nhớ - viết dài khoảng
18

80 – 90 chữ/20 phút, không mắc quá 5 lỗi, trình bày đúng
quy định, bài viết sạch.
- Viết đúng một số từ ngữ dễ lẫn do ảnh hưởng của phát âm
địa phương.
- Biết viết hoa tên người, tên địa lí nước ngoài.
- Biết tự sửa lỗi chính tả trong bài viết.
5
-Viết được bài chính tả Nghe – viết, Nhớ - viết dài khoảng
100 chữ/20 phút, không mắc quá 5 lỗi/bài.
- Viết đúng một số từ ngữ cần phân biệt phụ âm đầu, vần,
thanh điệu dễ lẫn do ảnh hưởng của phát âm địa phương.
- Biết tự phát hiện và sửa lỗi chính tả, lập sổ tay chính tả.

Như vậy, kĩ năng chính tả của học sinh Tiểu học chú trọng tới việc viết
đúng tốc độ, viết đúng các phụ âm đầu, vần, thanh điệu, trình bày đúng quy
cách, chữ sạch, đẹp. Rèn kĩ năng viết đúng chính tả sẽ bàn tới các biện pháp
để giáo viên có thể sử dụng nhằm giúp học sinh đảm bảo tốc độ viết với từng
khối lớp, nắm được các quy tắc, mẹo luật chính tả để viết đúng tiếng, đồng
thời rèn cho học sinh cách trình bày vở sạch, chữ đẹp.
Ngoài những khái niệm trên, chúng tôi còn muốn bàn thêm về chính tả
hữu thức và chính tả vô thức. Khi mới bắt đầu học về Chính tả, giáo viên

thường cung cấp các mẫu có sẵn của bài chính tả, giúp học sinh ghi nhớ bằng
mắt và bằng tai, từ đó hình thành những khái niệm cơ bản nhất về từ, đó là
chính tả vô thức. Sau khi học sinh đã có nền tảng cơ bản về Chính tả, giáo
viên sẽ sử dụng các phương pháp như so sánh, đối chiếu, giải thích… để học
sinh nắm lí thuyết về Chính tả, đó là chính tả hữu thức. Tuy nhiên, muốn có
kỹ năng viết chính tả, học sinh không chỉ biết lý thuyết mà chủ yếu phải thông
qua hoạt động viết, viết nhiều và viết đúng chính tả. Kỹ năng viết chính tả đó
là sự thể hiện chữ viết một cách chính xác, thành thục đúng với chuẩn chính
âm, phân biệt được các âm vần dễ lẫn lộn, nắm vững cách viết hoa, nắm được
19

các quy tắc chính tả tiếng Việt. Khi kỹ năng viết chính tả đạt đến mức thành
thạo, thuần thục thì gọi là kỹ xảo chính tả. Hình thành cho học sinh kỹ xảo
chính tả nghĩa là giúp học sinh viết đúng chính tả một cách tự động hoá,
không phải trực tiếp nhớ tới các quy tắc chính tả, không cần đến sự tham gia
của ý chí. Như vậy, quá trình chuyển hóa giữa chính tả vô thức và hữu thức
luôn vận động, biến đổi chứ không thụ động và khô cứng. Và mục đích của
việc rèn kĩ năng chính tả cho học sinh chính là hình thành cho các em chính tả
vô thức khi khả năng tiếp nhận của các em còn hạn chế, nâng dần lên thành
chính tả hữu thức qua quá trình học tập và làm bài tập, cuối cùng củng cố nó
trở thành phản xạ chính tả không điều kiện, gặp các trường hợp chính tả,
không cần sự hướng dẫn, giải thích của giáo viên, các em cũng có thể tự đưa
ra lựa chọn đúng. Cũng có thể nói, kĩ năng chính tả lúc này đã trở thành kĩ
xảo chính tả, và đó mới là mục đích cao nhất mà chúng tôi hi vọng có thể
mang lại cho học sinh.
1.1.2.2. Rèn kuyện và rèn kỹ năng viết chính tả
Thứ nhất, chúng tôi xin đưa những nhận đinh về rèn luyện như sau.
Rèn luyện là quá trình luyện tập nhiều trong thực tế để đạt tới những phẩm
chất hay trình độ vững vàng, thông thạo. Việc rèn luyện phải gắn với hoạt
động của các giác quan và gắn với hoạt động của tư duy, con người phải

luyện tập một cách thường xuyên. Ví dụ, một người muốn nói hoặc muốn viết
được trước tiên phải biết tiếp nhận được thông báo (lập mã), sau đó truyền
thông báo đi (bằng âm thanh hoặc chữ viết)… Như vậy, hàng loạt các tư duy
được huy động như lựa chọn, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống
hoá… trong quá trình rèn luyện. Quá trình rèn luyện phải dựa trên cơ sở vốn
tri thức. Qua rèn luyện giúp con người nhận diện, phát hiện, hoàn thiện các tri
thức.
Thứ hai, trong dạy học Tiếng Việt, rèn luyện kĩ năng chính tả có thể
hiểu là quá trình luyện tập để đạt tới việc viết đúng chính tả. Quá trình này
cần được thực hiện trong các hoạt động, tình huống cụ thể, ví dụ như các bài
20

tập trong giờ chính tả. Các nội dung và yêu cầu luyện tập phải gắn với sự
hành chức của tiếng Việt, các kỹ năng không nên dạy tách rời nhau, như khi
dạy Chính tả, dù nhấn mạnh yêu cầu viết nhưng cần kết hợp các kỹ năng
nghe, nói, đọc. Đặc biệt để phát huy được vai trò tích cực trong hoạt động
nhận thức, trong quá trình rèn luyện của học sinh, cần cho học sinh làm quen
với việc độc lập giải quyết vấn đề, và giáo viên có thể sử dụng các phương
pháp đặc trưng của phân môn Chính tả mà chúng tôi đề cập ở chương tiếp
theo để thực hiện việc này.
Việc rèn kĩ năng viết chính tả, chúng tôi cho rằng, trong phân môn
Chính tả, giáo viên chỉ có thể hình thành được cho học sinh các kỹ năng, kỹ
xảo chính tả thông qua quá trình thực hành, luyện tập vì tính chất nổi bật của
phân môn Chính tả là tính chất thực hành. Việc rèn luyện kỹ năng viết chính
tả có hiệu quả thấp hay cao phụ thuộc vào việc giáo viên tổ chức cho học sinh
quá trình rèn luyện như thế nào để học sinh nắm được các quy tắc, thủ thuật
chính tả. Quá trình đó sẽ có kết quả tốt nếu giáo viên sử dụng hệ thống
phương pháp và bài tập chính tả phù hợp trong quá trình dạy học. Qua việc
thực hiện các bài tập chính tả, kỹ năng viết chính tả sẽ dần dần hình thành ở
học sinh. Các em sẽ nắm được các quy tắc chính tả, luyện tập nhiều giúp các

em nhớ được các từ ngữ, các âm, vần dễ viết sai, dễ lẫn lộn, từ đó giúp các em
viết thông viết thạo hơn.
1.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ Tiếng Việt liên quan đến chính tả
Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập – âm tiết
tính, trong hệ thống các đơn vị ngữ âm tiếng Việt, âm tiết có vị trí đặc biệt
quan trọng. Âm tiết biểu hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất những đặc điểm của
tiếng Việt về mặt ngữ âm. Đồng thời âm tiết là đơn vị cơ bản trên bình diện
biểu hiện của hệ thống các đơn vị ngữ pháp và hệ thống các đơn vị từ vựng –
ngữ nghĩa tiếng Việt.
Âm tiết tiếng Việt có thể trực tiếp mang nghĩa và có kích thước giới
hạn trùng với kích thước giới hạn của các đơn vị từ vựng và ngữ pháp: hình
21

vị, từ (từ đơn, từ phức), câu,… Ở Tiểu học, âm tiết còn được gọi là tiếng, đơn
vị quen thuộc với các em học sinh.
Ví dụ: Trong đoạn trích sau có 28 tiếng, tương ứng với nó là 28 hình vị,
các hình vị này có thể đứng độc lập tạo thành từ đơn (16 từ), hoặc kết hợp với
nhau tạo thành các từ phức (5 từ):
Cây dừa/ xanh/ tỏa/ nhiều/ tàu/
Dang/ tay/ đón/ gió/, gật/ đầu/ gọi/ trăng/
Thân dừa/ bạc phếch/ tháng năm
Quả dừa/ – đàn/ lợn con/ nằm/ trên/ cao.
Cây dừa - Trần Đăng Khoa
Tuy phân ra thành các từ đơn và từ phức như vậy nhưng do đặc điểm
của ngôn ngữ đơn lập nên mỗi tiếng đều được phát âm rõ ràng, mạch lạt, dễ
nghe, mỗi âm tiết được ghi thành một khối, tách rời với âm tiết đứng trước và
đứng sau nó bằng khoảng cách gián đoạn, cho dù âm tiết đó có thể là một
thành tố của cấu trúc hình vị hay từ. Việc ghi mỗi âm tiết thành một chữ làm
cho việc nhận diện hình vị, từ đơn hay ghép, cụm từ… gặp khó khăn, nhưng
lại tạo nhiều thuận lợi về chính tả và đọc, cấu trúc chữ - âm tiết có sự tương

ứng với từng phần trong cấu trúc âm tiết. Nếu cấu trúc âm tiết bao gồm 5
thành phần: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu thì cấu trúc
chữ - âm tiết cũng gồm 5 thành phần, chữ phụ âm, chữ bán âm, chữ nguyên
âm, chữ phụ âm (bán âm) và dấu thanh.
Từ đó cho thấy, chính tả tiếng Việt về cơ bản là chính tả âm tiết, viết
đúng chính tả tiếng Việt chủ yếu là biết viết đúng các tổ hợp chữ cái ghi âm
tiết. Vì thế, giáo viên cần phát âm chuẩn theo chữ viết, bởi giữa cách đọc và
cách viết chính tả tiếng Việt là thống nhất với nhau. Đọc như thế nào thì sẽ
viết như thế ấy. Trong giờ Chính tả học sinh sẽ xác định được cách viết đúng
(đúng chính tả) bằng việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói (Ví dụ:
hình thức chính tả nghe – viết).
22

Ngoài ra, chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm nghĩa là mỗi âm vị chỉ
được ghi bằng một chữ. Tuy nhiên, chữ viết tiếng Việt hiện nay không đảm
bảo sự tương ứng 1 – 1 giữa âm và chữ. Chẳng hạn, âm vị /k/ được ghi bằng 3
chữ c, k, q. Có những chữ đọc giống nhau nhưng viết khác nhau như ng/ngh,
g/gh… Thêm vào đó, do ba vùng phương ngữ (Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và
Nam Bộ), nên có sự biểu hiện giữa mối quan hệ giữa đọc (phát âm) và viết
(viết chính tả) khá phong phú, đa dạng. Cụ thể, chính tả Tiếng Việt không
hoàn toàn dựa vào cách phát âm thực tế của một phương ngữ nhất định nào
đó. Cách phát âm thực tế của các phương ngữ đều có những sai lệch so với
chính âm, cho nên không thể thực hiện phương châm “nghe như thế nào, viết
như thế ấy” được (ví dụ, không thể viết là: bo vang, Ba Vi,… như cách phát
âm của phương ngữ vùng Tây Sơn; suy nghỉ, sạch sẻ,… ở vùng Thanh Hoá;
bắc bẻ, đi zìa,… trong phương ngữ Nam Bộ;…). Theo Hoàng Phê, tiếng Việt
hiện đại sử dụng 6718 tiếng, trong đó có 1075 tiếng hoàn toàn không có vấn
đề về chính tả, đối với từng phương ngữ, số âm tiết không có vấn đề chính tả
càng nhiều hơn. Với từng cá nhân thì số âm tiết có vấn đề chính tả lại càng ít
hơn do có nhiều từ ngữ cụ thể chúng ta thường gặp, thường dùng nên đã quen

viết đúng chính tả. Từ đó, chúng tôi cho rằng, giáo viên cần nắm được thực
trạng học sinh trong lớp mình viết chính tả như thế nào, từ đó đưa ra phương
pháp học tập thích hợp và các bài tập rèn luyện đúng đắn thì có thể giúp các
em rèn kĩ năng viết đúng một các nhanh chóng và hiệu quả.
Đặc điểm cuối cùng của ngôn ngữ liên quan tới việc dạy chính tả là:
Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm nhưng trong thực tế, muốn viết đúng
chính tả, việc nắm nghĩa của từ là rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một
trong những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả. Ví dụ, nếu giáo viên
đọc một từ có hình thức ngữ âm là /za/ thì học sinh có thể lúng túng trong
việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu đọc gia đình hoặc da
thịt hay ra vào (đọc trọn vẹn từ, mỗi từ gắn với một nghĩa xác định) thì học
sinh dễ dàng viết đúng chính tả. Vì vậy có thể hiểu rằng chính tả tiếng Việt
23

còn là loại chính tả ngữ nghĩa. Đây là một đặc trưng quan trọng về phương
diện ngôn ngữ của chính tả tiếng Việt mà khi dạy Chính tả, giáo viên cần chú
ý.
1.1.3. Nguyên tắc dạy học chính tả
Từ các đặc điểm trên, chúng tôi đưa ra một số nguyên tắc dạy học
chính tả như sau:
1.1.3.1. Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực:
Dạy chính tả theo khu vực nghĩa là nội dung giảng dạy về chính tả phải
sát hợp với phương ngữ. Nói cách khác, phải xuất phát từ tình hình thực tế
mắc lỗi chính tả của học sinh ở từng khu vực, từng miền để hình thành nội
dung giảng dạy, phải xác định được trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh
ở từng khu vực, từng địa phương. Vì như ta biết các phát âm địa phương có
ảnh hưởng trực tiếp đến chính tả. Đối chiếu với âm, ta thấy cách phát âm của
ba vùng phương ngữ chính đều có những chỗ chưa chuẩn xác còn sai lệch. Cụ
thể:
Hiện nay ở các vùng thuộc phương ngữ Bắc Bộ có hiện tượng phát âm

sai tr/ch.
VD: Trung/chung
Tre/che
Hiện tượng lẫn lộn khi đọc giữa phụ âm: ay/ây, dấu hỏi/ngã thường
xuất hiện ở các vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ.
Ví dụ: Cây/cay
Vẻ/vẽ thầy/thày
nghỉ/nghĩ thấy/tháy.
Qua thực tế mắc lỗi của học sinh giáo viên cần có sự khảo sát điều tra
cơ bản để nắm lỗi chính tả phổ biến của học sinh, từ đó lựa chọn nội dung
24

giảng dạy thích hợp (nhất là đối với hình chính tả so sánh) nguyên tắc này
cũng lưu ý giáo viên cần tăng cường sự linh hoạt sáng tạo trong giảng dạy, cụ
thể trong việc xây dựng nội dung bài sao cho sát hợp với đối tượng học sinh
lớp mình dạy. Ở một chừng mực nào đó, có thể lược bớt những nội dung
giảng dạy trong sách giáo khoa, xét thấy không phù hợp với học sinh lớp
mình dạy, đồng thời bổ sung những nội dung dạy cần thiết mà sách giáo khoa
chưa đề cập đến.
1.1.3.2. Nguyên tắc kết hợp chính tả hữu thức với chính tả vô thức
Ở trên đã nói tới những đặc điểm, những ưu thế của phương pháp có ý
thức và phương pháp không có ý thức trong việc dạy chính tả. Vấn đề đặt ra
là trong quá trình dạy chính tả cho học sinh, giáo viên không chỉ sử dụng một
phương pháp, mà phải sử dụng phối hợp hai phương pháp này một cách hợp
lý nhằm đạt tới một hiệu quả dạy học cao. Cũng cần nói rõ rằng, trong điều
kiện nhà trường,việc sử dụng phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu.
Phương pháp không có ý thức cần được khai thác, sử dụng hợp lý các lớp đầu
bậc tiểu học, gắn liền với những kiểu bài như tập viết (tập viết kỹ thuật), tập
chép Các kiểu bài này nhằm giúp HS nhanh chóng làm quen với hình thức
của các con chữ (Tự dạng), hình thức chữ viết của các từ. Đây là những tiền

đề, những xuất phát điểm rất cần thiết đối với học sinh mới làm quen với hệ
thống chữ viết của Tiếng việt. Phương pháp không có ý thức còn phát huy tác
dụng khi giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ các hiện tượng chính tả có
tính chất võ đoán, không gắn với một quy luật, quy tắc nào, như viết phân biệt
d/gi; tr/ch, l/n.
Trong nhà trường, giáo viên cần sử dụng, khai thác tối đa phương pháp
có ý thức. Muốn vậy, giáo viên cần phải được trang bị những kiến thức về
ngữ âm học, về từ vựng - ngữ nghĩa học có liên quan đến chính ta, cụ thể:
Giáo viên phải biết vận dụng những kiến thức về ngữ âm học Tiếng việt vào
việc phân loại lỗi chính tả phát hiện đặc điểm của từng loại lỗi, nhất là việc
25

xây dựng các quy tắc chính tả, các “Mẹo”, chính tả, giúp học sinh ghi nhớ
cách viết một cách khái quát có hệ thống.
VD:
+ Khi đứng trước các nguyên âm: i, iê, e, e
Âm “cờ” viết là k
Âm “gờ” viết là gh
â “ngờ” viết là ngh
+ Khi đứng trước các nguyên âm còn lại:
âm “cờ” viết là c
âm “gờ” viết là g
âm “ngờ” viết là ng
Ngoài ra, ngoài ra ta còn dựa vào những kiến thức về từ vựng ngữ
nghĩa để lập các quy tắc, các “mẹo” chính tả.
Ví dụ: Những từ nghi ngờ viết tr hay ch, nếu chúng chỉ những đồ dùng
trong gia đình, thì hầu hết được viết là ch  chai, chén chăn, chiếu, chảo,
chum, chỉnh, chạm, chỏng, chậu…
Tóm lại, phát huy tính có ý thức trong dạy chính tả sẽ tiết kiệm được
thì giờ và mang lại kết quả nhanh chóng, chắc chắn, cụ thể (có thể kiểm tra

được ngay), hơn nữa, còn gây được hứng thú cho học sinh. Nguyên tắc kết
hợp chính tả có ý thức với chính tả không có ý thức được coi là nguyên tắc cơ
bản, chủ đạo trong việc dạy chính tả cho học sinh.
1.1.3.3. Nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp
tiêu cực (xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai).
Bên cạnh phương pháp tích cực (cung cấp cho học sinh các quy tắc
chính tả, hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập nhằm hình thành các kỹ

×