Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Rèn luyện năng lực giải bài tập toán học cho học sinh trung học phổ thông qua phương pháp dạy học hợp tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 147 trang )




đại học quốc gia hà nội
Khoa s- phạm















Nguyễn thị kim xuyến












rèn luyện năng lực giảI bài tập toán học
cho học sinh trung học phổ thông
qua ph-ơng pháp dạy học hợp tác





Chuyên ngành: Lý luận và ph-ơng pháp giảng dạy
(Bộ môn Toán học)
Mã số : 60 14 10


Luận văn thạc sĩ s- phạm toán học






Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: ts. Hoàng lê minh















Hà Nội - 2009


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới phƣơng pháp dạy học đang là nhiệm vụ cấp bách trong giai
đoạn hiện nay. Mục tiêu của đổi mới PPDH là đào tạo đƣợc những con ngƣời
mới đáp ứng thời đại công nghiệp hoá và toàn cầu hoá phát triển nhanh chóng
nhƣ hiện nay. Bốn trụ cột của GD trong thế kỷ XXI là “học để biết, học để
làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình” mà UNESCO đã đề
ra [36] là mục tiêu để GD Việt Nam hƣớng tới một nền GD tiến bộ, hiện đại
ngang tầm với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Với mục tiêu đó thì HS
không những cần phải chiếm lĩnh đƣợc kiến thức mà còn phải có năng lực hoà
nhập trong xã hội, một trong những năng lực đó là khả năng hợp tác.
Trong cuộc sống, toán học giữ một vị trí quan trọng, giúp cho con ngƣời
rèn luyện phƣơng pháp tƣ duy, phƣơng pháp suy luận, phƣơng pháp giải quyết
vấn đề một cách khoa học nên việc rèn luyện năng lực giải bài tập toán là
nhiệm vụ cần thiết và thƣờng xuyên của ngƣời giáo viên.
Phƣơng pháp dạy học hợp tác đã đƣợc nghiên cứu và áp dụng ở các bậc
học tại nhiều nƣớc trên thế giới. Với PPDH này đã huy động đƣợc sự tham gia
tích cực của mọi học sinh vào quá trình học tập, tăng cƣờng khả năng tiếp thu
kiến thức và phát triển kỹ năng xã hội của học sinh một cách rõ rệt. Việc vận
dụng PPDH hợp tác không đơn giản là chỉ áp dụng một cách máy móc việc

ghép học sinh vào các nhóm nhỏ để tiến hành quá trình dạy học mà nó còn tuỳ
thuộc vào môn học, điều kiện học tập, đối tƣợng học sinh, tính chất bài học và
năng lực sƣ phạm của ngƣời thầy. Những điều đó khẳng định việc vận dụng tổ
chức cho học sinh học hợp tác trong quá trình dạy học môn Toán ở trƣờng
THPT luôn là vấn đề mới mẻ và rất cần thiết. Bản chất của phƣơng pháp dạy
học hợp tác là đƣợc tổ chức ở dạng các nhóm nhỏ sao cho các cá nhân làm việc
cùng nhau để đạt đƣợc đến mức tối đa sản phẩm và thành tích chung của
nhóm, mà thành tích đó gắn liền với mục tiêu của mỗi cá nhân[30, tr.18].
Trong học tập, mỗi cá nhân phấn đấu đạt đƣợc kết quả lợi nhất cho mình đồng


2
thời có lợi nhất cho nhóm của mình, các cá nhân nhân thấy họ có thể đạt đến
mục tiêu của mình khi và chỉ khi các thành viên trong nhóm cũng đạt đƣợc
điều đó (Deutsch, 1962). Sự đạt đƣợc các mục tiêu của mỗi thành viên trong
nhóm có mối quan hệ liên đới tích cực thƣờng xuyên. Trong nhóm, các cá
nhân phải bàn luận về công việc của nhau, phân công công việc rõ ràng cho
mỗi thành viên, mọi thành viên trong nhóm cần hỗ trợ nhau, động viên nhau
làm việc tích cực hơn thì sản phẩm của nhóm đạt đƣợc mới có chất lƣợng cao
nhất[18, tr.15].
Vấn đề đặt ra là: “ Làm thế nào để vừa rèn luyện năng lực giải bài tập
toán học, vừa rèn luyện khả năng hợp tác cho HS?”. Với những lý do đó chúng
tôi chọn đề tài nghiên cứu là: “Rèn luyện năng lực giải bài tập toán học cho
học sinh trung học phổ thông qua phương pháp dạy học hợp tác”.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu: Thông qua phƣơng pháp dạy học hợp tác rèn
luyện cho học sinh trung học phổ thông năng lực giải bài tập toán học.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi nội dung dạy giải
bài tập toán học cho học sinh THPT.
3. Mẫu khảo sát: Học sinh trƣờng THPT Lê Hồng Phong – Hải Phòng

4. Câu hỏi nghiên cứu: Biện pháp và ý nghĩa việc rèn luyện năng lực giải bài
tập toán học cho học sinh THPT?
5. Giả thuyết khoa học: Sử dụng PPDH hợp tác vừa có tác dụng rèn luyện năng
lực giải bài tập toán học cho HS vừa có tác dụng rèn luyện kỹ năng hợp tác.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về rèn luyện năng lực toán học và PPDH hợp tác.
- Thiết kế một số tình huống dạy học hợp tác và một số giáo án nhằm
rèn luyện năng lực giải bài tập toán học cho học sinh THPT.
- Tiến hành thử nghiệm sƣ phạm đối với những biện pháp đã đề ra.
7. Phương pháp nghiên cứu


3
- Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu về Tâm lý học, Giáo dục học,
lý luận và phƣơng pháp dạy học Toán, Đo lƣờng và đánh giá trong giáo dục, các
luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ có liên quan để phân tích các nguyên nhân và
xây dựng các biện pháp dạy học nhằm hạn chế, sửa chữa các sai lầm của HS
trong khi giải bài tập toán, góp phần rèn luyện năng lực toán học cho HS.
- Quan sát: Tiến hành dự giờ quan sát, ghi hình các giờ dạy học theo
phƣơng pháp dạy học hợp tác nhằm bổ sung cho lý luận và chỉnh lý các biện
pháp sƣ phạm.
- Phỏng vấn: Đƣa ra các câu hỏi tham khảo ý kiến một số giáo viên và
học sinh để có nhận xét khách quan về những ƣu khuyết điểm của những giờ
học rèn luyện giải bài tập toán thông qua phƣơng pháp dạy học hợp tác.
- Tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết và rút kinh nghiệm sau mỗi giờ học
- Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm dạy học một số tình
huống và giáo án đã thiết kế cho học sinh lớp 10 và lớp 11.
8. Dự kiến luận cứ
Luận cứ lý thuyết: Nghiên cứu cơ sở lý luận về rèn luyện năng lực toán
học và PPDH hợp tác.

Luận cứ thực tế:
+ Thiết kế một số tình huống, tổ chức và tiến hành giờ dạy học hợp tác
một số bài thuộc phần luyện tập, ôn tập toán.
+ Tổ chức kiểm tra, khảo sát, phỏng vấn, thực nghiệm, đánh giá để rút ra
bài học thực tế và kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục nội dung luận
văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận
Chƣơng 2: rèn luyện năng lực giảI bài tập toán học thông qua phƣơng
pháp dạy học hợp tác
Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm


4


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái quát về phương pháp dạy học hợp tác
1.1.1 . Quan niệm về phương pháp dạy học hợp tác
1.1.1.1. Một số quan niệm về dạy học hợp tác
(Phần này được trình bày dựa theo [19],[28], [29], [31], [32], [35])
PPDH hợp tác bao gồm cả phƣơng pháp dạy của thầy và phƣơng pháp
học của trò. Làm việc hợp tác theo nhóm là một phần quan trọng để tạo ra một
lớp học hiệu quả, đúng nhƣ câu thành ngữ: “Một cây làm chẳng nên non, hai
cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tuy nhiên đây không chỉ là học sinh làm việc
cùng nhau một cách đơn thuần mà là cùng hợp tác học tập. Mục tiêu chính yếu
của làm việc nhóm là giúp học sinh chủ động học tập để đạt đƣợc mục tiêu học
tập chung. Việc tạo nhóm nhƣ vậy cho phép học sinh làm việc cùng nhau để
tối ƣu hoá việc học tập của mình và của các bạn khác trong nhóm.

“Trong một tình huống học hợp tác, quá trình tƣơng tác đƣợc đặc trƣng
bởi sự ràng buộc giữa mục tiêu tích cực và trách nhiệm cá nhân”[31].
(D.Johnson & R.Johnson, 1990)
“Học hợp tác là một chiến lƣợc học tập có cấu trúc, có chỉ dẫn một cách
hệ thống, đƣợc thực hiện cùng nhau trong các nhóm nhỏ, nhằm đạt đƣợc nhiệm
vụ chung”. ( J.Cooper, 1990)
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những thành tựu lớn lao thu đƣợc liên
quan đến sự nỗ lực chung của tập thể chứ không phải là kết quả của một cá
nhân tạo lập.
Hầu hết sự học tập của chúng ta đều có gốc ở sự thành công thu đƣợc
thông qua hợp tác. Cùng với những ngƣòi khác, chúng ta có thể làm nhiều hơn
và thu đƣợc nhiều hơn mức chúng ta làm một mình[29].


5
Theo Vygotsky: “Điều ngƣời học có thể làm qua hợp tác hôm nay thì họ
có thể làm một mình ngày mai” và học tập cùng nhau có thể phát triển đƣợc kỹ
năng nhận thức và xã hội.
Trong việc tổ chức lớp học, làm việc hợp tác theo nhóm mang lại cho
học sinh nhiều cơ hội để học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau, chia sẻ với nhau niềm
vui thắng lợi và nỗi buồn thất bại. “Vào những năm 90 của thế kỷ 20, làm việc
theo nhóm là yếu tố đánh giá năng lực quản lý thƣờng xuyên nhất trong các
nghiên cứu của các tổ chức trên khắp thế giới” (Goleman, 1998). Chúng ta có
thể chuẩn bị cho học sinh của mình bƣớc vào môi trƣờng làm việc thực tế bằng
cách tạo cho họ những cơ hội thực nhƣ vậy để làm việc với nhau, cùng tạo ra
sản phẩm và giải quyết vấn đề.
Học hợp tác ( Cooperative Learning) là một quan điểm học tập rất phổ
biến ở các nƣớc đang phát triển và đem lại hiệu quả giáo dục cao. Học hợp tác
là một định hƣớng giáo dục mà trong đó học sinh cùng làm việc để đạt đƣợc
mục tiêu học tập. Quan điểm học tập này yêu cầu sự tham gia, đóng góp trực

tiếp của học sinh vào quá trình học tập, đồng thời yêu cầu học sinh phải làm
việc cùng nhau để đạt đƣợc kết quả học tập chung. Trong quá trình hợp tác,
mỗi cá nhân phải tìm thấy lợi ích cho chính mình và cho tất cả các thành viên
trong lớp nghĩa là thúc đẩy sự ảnh hƣởng tích cực lẫn nhau trong tập thể. Học
sinh học bằng cách làm (Learning by doing) chứ không phải chỉ học bằng cách
nghe giáo viên giảng(Learning by listerning). Quan điểm học tập này tạo nên
môi trƣờng hợp tác giữa trò - trò, thầy - trò, học sinh sẽ là trung tâm của quá
trình dạy học và giáo viên không độc chiếm diễn đàn. Đồng thời quan điểm
này thể hiện tính dân chủ và dựa trên nguyên tắc tƣơng hỗ. Vì thế có thể nói
học hợp tác là một quan điểm học tập nhằm phát huy tính tích cực, khả năng tự
học và tinh thần hợp tác cho học sinh. Kiểu học hợp tác đang đƣợc áp dụng có
hiệu quả ở tất cả các bậc học và xuất hiện trong nhiều môn học[35].
Mục tiêu cuối cùng của viêc tổ chức lớp học thông qua nhóm hợp tác là
để học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập của mình. Chia học sinh


6
làm việc theo nhóm nhỏ hoặc theo cặp sẽ tăng cƣờng cơ hội tham gia ý kiến
của học sinh. Khi đƣợc yêu cầu hoàn thành một công việc cùng với một ngƣời
bạn học, học sinh sẽ cảm thấy ít bị áp lực hơn là phải tự mình hoàn thành công
viêc đó. Theo D.Johnson & R.Johnson học sinh thƣờng có thái độ tích cực hơn
về nhà trƣờng, môn học và giáo viên khi họ đƣợc yêu cầu làm việc hợp tác với
nhau. Nơi nào thực sự áp dụng học hợp tác, nơi đó học sinh học đƣợc nhiều
hơn, nhà trƣờng dƣờng nhƣ tốt hơn, học sinh thân thiện với nhau hơn, tự trọng
hơn và học các kỹ năng xã hội có hiệu quả hơn[31]
Sự hợp tác giữa các con ngƣời với nhau tạo nên sự tồn tại của xã hội loài
ngƣời. Về cơ bản, xã hội là một tổ chức hợp tác, đƣợc tạo ra nhằm duy trì mối
quan hệ giữa ngƣời với ngƣời. Vì thế dạy học hợp tác cho học sinh nhằm tạo
tiền đề và phát triển khả năng hợp tác của con ngƣời nhằm tạo nên một xã hội
văn minh, hiện đại. Dạy học hợp tác không những giúp học sinh lĩnh hội kiến

thức, mà còn đạt đƣợc mục đích cao hơn là dạy cho học sinh cách sống. Đặc
điểm của dạy học hợp tác là nó tạo nên sự chấp nhận, tôn trọng, liên kết và tin
tƣởng lẫn nhau giữa các đối tƣợng trong giáo dục. Dạy học hợp tác khẳng định
tầm quan trọng của sự ủng hộ về mặt xã hội. Trong học tập hợp tác, sức ép
thành tích luôn đặt ra phù hợp và cân bằng với mức độ của sự ủng hộ về mặt
xã hội. Mỗi khi sự tăng cƣờng học tập đòi hỏi cao thì cũng là lúc phải phát
triển sự ủng hộ nhau một cách tích cực [32]. Để đạt đƣợc thành tích trong học
tập, học sinh cần cùng nhau tìm kiếm và khai thác thông tin. Chính việc học
hợp tác sẽ giúp học sinh làm đƣợc điều đó.
Chúng tôi quan niệm DH hợp tác là một PPDH. Trong PPDH hợp tác,
vai trò của GV là ngƣời tổ chức, điều khiển việc học của học sinh thông qua
học hợp tác bằng việc thiết kế các giờ học hợp tác, vai trò của HS là ngƣời học
tập trong sự hợp tác, trong đó mỗi HS đƣợc học tập trong một nhóm, có sự
cộng tác giữa các thành viên trong nhóm, giữa các nhóm để đạt đƣợc mục đích
chung. Hợp tác vừa là phƣơng tiện vừa là mục tiêu dạy học. Hoạt động trong


7
giờ dạy học hợp tác bao gồm: hợp tác giữa các HS trong một nhóm, hợp tác
giữa các nhóm, hợp tác giữa HS với GV[19, tr.18].
Tóm lại, PPDH hợp tác là một mắt xích quan trọng trong quá trình dạy
học. Có thể vận dụng PPDH hợp tác trong việc rèn luyện năng lực giải bài tập
toán học cho học sinh THPT. Với phƣơng pháp học tập này HS đƣợc tham gia
vào các nhóm học tập không chỉ thúc đẩy quá trình học tập, tăng tính chủ
động, sáng tạo trong quá trình giải bài tập, tạo niềm vui khi giải đƣợc một bài
toán làm tăng thêm hứng thú, kích thích sự tìm tòi lời giải bài toán, mà còn
giúp HS phát triển các kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ, phát triển tƣ duy hội
thoại, nâng cao lòng tự trọng, ý thức trách nhiệm và sự tự tin của ngƣời học,
giúp thúc đẩy những mối quan hệ cạnh tranh mang tính tích cực trong học
tập[19, tr.18]. Trƣớc giờ học hợp tác, GV cần phổ biến và hƣớng dẫn cho HS

cách học hợp tác, cách tổ chức và phân công nhiệm vụ của từng cá nhân trong
nhóm, GV cũng cần thông báo cho HS nhiệm vụ và hình thức học tập của giờ
học tiếp theo để HS có sự chuẩn bị về tâm lý và kiến thức. Trong giờ học hợp
tác, để các hoạt động có hiệu quả thực sự thì nghệ thuật điều hành của GV có ý
nghĩa quan trọng, ngƣời GV cần khéo léo dẫn đắt các hoạt động của HS sao
cho họ luôn cảm thấy mình tự tìm ra kiến thức mà không có sự áp đặt của
GV[19, tr. 60].
1.1.1.2 . Các yếu tố cơ bản của dạy học hợp tác
(Phần này được trình bày dựa theo [19, tr.21-24] và [35], [40])
Dạy học hợp tác bao gồm 5 yếu tố cơ bản sau:
Yếu tố 1. Sự phụ thuộc tích cực lẫn nhau: Đây là dấu hiệu cơ bản đầu tiên
của học hợp tác. Điều này mang hàm nghĩa: Mỗi nhóm chỉ đạt đƣợc hiệu quả
hoạt động khi tất cả các thành viên đều tích cực tham gia, thành công hay thất
bại của mỗi ngƣời cũng là thành công hay thất bại của cả nhóm. Sự phụ thuộc
này khuyến khích các cá nhân cùng nhau làm việc một cách tích cực nhất để
nhóm đạt thành tích cao nhất. Sự phụ thuộc lẫn nhau thể hiện ở những nhƣ sau:


8
- Mục đích cùng đƣợc thiết lập. Một ngƣời đạt đƣợc mục đích nếu tất cả
cùng đạt đƣợc mục đích. Tất cả học sinh trong nhóm đều nhận đƣợc phần
thƣởng nhƣ nhau nếu đạt đƣợc mục đích chung của nhóm.
- Nhiệm vụ chung đƣợc chia thành những nhiệm vụ nhỏ và đƣợc phân
công một cách phù hợp theo năng lực của từng cá nhân trong nhóm, không để
có sự chồng chéo công việc giữa các thành viên trong nhóm. Sự phân công có
thích hợp hay không sẽ giúp cho sự thành công hay thất bại của mỗi nhóm.
- Mỗi thành viên trong nhóm đều có một vai trò, có tính phụ thuộc và
liên kết với các thành viên khác. Các thành viên trong nhóm cùng chia sẻ niềm
vui hay nỗi buồn của sự thành công hay thất bại nên tất cả đều phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ vì thành tích chung của cả nhóm. Do đó các thành viên trong

nhóm sẽ gắn bó với nhau do chính môi trƣờng làm việc tạo nên.
Yếu tố 2. Tương tác “mặt đối mặt”: Trong cách học tập này học sinh
đƣợc bố trí ngồi đối diện nhau tạo nên bầu không khí thoải mái, cởi mở, dễ
dàng hợp tác với nhau. Chính cách sắp xếp này tạo nên những tác dụng tích
cực đối với mọi học sinh. Đó là:
- Tăng cƣờng tính tích cực trong hoạt động học tập, làm nảy sinh những
hứng thú mới trong quá trình trao đổi bình đẳng với nhau.
- Rèn luyện đƣợc những kỹ năng xã hội nhƣ cách diễn đạt ý tƣởng, cách cƣ
xử, cách phản hồi đối với những ý kiến của bạn qua lời nói, ánh mắt, cử chỉ…
- Phát triển mối quan hệ thân thiện với nhau, gắn bó, yêu thƣơng, giúp
đỡ lẫn nhau.
Yếu tố 3. Trách nhiệm cá nhân: Mỗi thành viên trong nhóm đƣợc phân
công nhiệm vụ khác nhau nhƣng có liên quan, phụ thuộc lẫn nhau để đạt mục
tiêu chung của cả nhóm. Do đó, mỗi thành viên đều phải nỗ lực và có ý thức
chịu trách nhiệm cá nhân trƣớc nhiệm vụ chung của nhóm. Mỗi thành viên
trong nhóm cần đƣợc phân công thực hiện một vai trò nhất định. Vai trò của
các thành viên trong nhóm có thể thay phiên nhau nhƣ sau:


9
- Nhóm trƣởng: Điều khiển hoạt động của nhóm, phân công nhiệm vụ
phù hợp cho các thành viên trong nhóm
- Thƣ ký: Ghi chép lại tất cả các ý kiến gợi ý của các thành viên trong
nhóm. Tóm tắt các câu trả lời cho từng câu hỏi cho đến khi cả nhóm hài lòng
và đi đến thống nhất.
- Ngƣời điều khiển thời gian: Nhắc nhở nhóm giới hạn về thời gian, điều
chỉnh hoạt động của nhóm theo thời gian quy định.
Để tăng trách nhiệm của cá nhân cần chia nhóm phù hợp với từng nội
dung học tập, có phiếu học tập quy định nhiệm vụ học tập cụ thể, bất ngờ kiểm
tra thành viên bất kỳ trong nhóm trình bày công việc và kết quả của

nhóm…Đồng thời có thể đề ra một số quy định nhƣ:
- Trừ điểm đối với nhóm có thành viên không nghiêm túc, làm việc
riêng , thiếu ý thức hợp tác, không thực hiện nhiệm vụ đƣợc nhóm phân
công…
- Thƣởng điểm đối với nhóm thực hiện đƣợc nhiệm vụ của nhóm khác.
Yếu tố 4. Kỹ năng hoạt động nhóm: Để có thể cùng hoạt động cho một mục
tiêu chung, mỗi thành viên trong nhóm cần có những kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
xã hội. Trong đó kỹ năng xã hội có xu hƣớng đƣợc nâng cao đó là: kỹ năng quyết
đoán, kỹ năng giải quyết cấc vấn đề bất đồng, học sinh biết cách lắng nghe, biết
cách kiềm chế, biết cách lập luận để bảo vệ quan điểm của mình một cách thuyết
phục, qua đó tạo bầu tin tƣởng lẫn nhau, trao đổi, chấp nhận và ủng hộ lẫn nhau,
giải quyết các mâu thuẫn của nhóm trên tinh thần xây dựng.
Yếu tố 5. Nhận xét nhóm: Sau mỗi lần hoạt động nhóm các nhóm cần
nhìn nhận lại toàn bộ quá trình hoạt động của nhóm mình. Sự nhận xét của các
thành viên cho nhóm sẽ là thông tin phản hồi có ý nghĩa quan trọng cho các
hoạt động sau của nhóm đạt kết quả cao hơn. Có hai hình thức kế tiếp nhau
trong nhận xét nhóm: nhận xét của các thành viên trong nhóm, nhận xét của
giáo viên và của nhóm bạn. Nội dung nhận xét có thể bao gồm các vấn đề sau:
- Hoạt động của thành viên nào có lợi nhất cho nhóm


10
- Cách làm việc của nhóm đã có hiệu quả chƣa, cần thay đổi nhƣ thế nào
để hoạt động của nhóm đạt hiệu quả hơn.
1.1.2.3. Một số hình thức tổ chức học hợp tác hiệu quả
(Phần này được trình bày dựa theo [19] và [35])
Để học hợp tác có hiệu quả, GV phải đảm bảo rằng trong nhóm có sự
“phụ thuộc tích cực”, trao đổi trực tiếp, thảo luận trong nhóm và trách nhiệm
của cá nhân cũng nhƣ của cả nhóm. Sự “phụ thuộc tích cực” nhấn mạnh tầm
quan trọng và tính độc đáo sự đóng góp của mỗi thành viên trong nhóm khi

thực hiện các hoạt động nhận thức và giao tiếp giữa các cá nhân. Trong quá
trình HS trao đổi, thảo luận sẽ phát sinh những ý kiến trái ngƣợc nhau nên sẽ
nảy sinh những vấn đề phải tranh luận, gây ồn ào trong lớp học. Bên cạnh đó
còn nảy sinh những vấn đề khác nhƣ:
HS ỉ lại, lƣời suy nghĩ, lƣời học.
HS mất trật tự, đùa nghịch không tham gia vào thực hiện nhiệm vụ đƣợc
giao
HS tự ti, ít nói, không tham gia ý kiến, cũng không phản đối ý kiến,
HS không đồng đều về năng lực học tập.
Mặc dù trong lớp học dù có ít học sinh đến đâu đi chăng nữa, thì trong tất
cả các phƣơng pháp dạy học mà GV vận dụng vẫn nảy sinh những vấn đề trên.
Do đó trong dạy học hợp tác GV sẽ rất lo ngại những vấn đề về điều
khiển, kiểm soát lớp học, giữ nội quy lớp học bởi vì kiểm soát, quản lý tốt lớp
học là một phần quan trọng của công việc dạy học, đó chính là bƣớc ban đầu
hƣớng vào những mục tiêu quan trọng có liên quan đến học tập một cách ý
thức và có hiệu quả.
Trong vấn đề quản lý lớp, GV có thể vận dụng những hình thức nhƣ sau:
- Làm nhiệm vụ hoà giải khi nảy sinh mâu thuẫn: Có thể nảy sinh nhiều
mâu thuẫn trong quá trình học hợp tác nhƣ do bất đồng quan điểm, tranh nhau
đƣa ra ý kiến của mình, tranh chấp về quyền chỉ đạo nhóm, do các thành viên
chƣa quen với cách làm việc nhóm, do một số thành viên trong nhóm tự ti, học


11
yếu làm ảnh hƣởng tới kết quả chung của nhóm…Lúc này ngƣời GV cần làm
nhiệm vụ hoà giải, nhắc nhở HS về các yếu tố quan trọng về sự phụ thuộc tích
cực , trách nhiệm cá nhân và các hành vi mong đợi vốn là các khía cạnh cần
thiết của nhóm học hợp tác. Giao cho mỗi thành viên một vai trò đặc trƣng mà
có thể tránh hoặc giải quyết đƣợc các mâu thuẫn. Giao cho một quan sát viên
theo dõi các công việc của nhóm, qua đó tạo ra lời giải cần thiết cho việc hoà

giải các mâu thuẫn nảy sinh.
- Cử những HS có kỹ năng hoà giải, có khái niệm rõ ràng và có khả năng
tháo gỡ những phức tạp trong quan hệ giữa mọi thành viên trong nhóm làm đội
trƣởng. Trải qua quá trình đó HS có thể học đƣợc nhiều hơn những gì đƣợc giảng
giải, nên quá trình học hợp tác nhƣ thế sẽ nâng cao hiệu quả tự học của HS.
- Tạo điều kiện để HS tự quản lẫn nhau: Trong tình huống hợp tác, HS
làm việc cùng nhau để đạt đƣợc những mục tiêu chung và do đó dễ ảnh hƣởng
lẫn nhau. Nhiều nghiên cứu cho thấy những ngƣời hợp tác với nhau đều tạo ra
ảnh hƣởng và chấp nhận ảnh hƣởng của nhau. Sự ảnh hƣởng đôi bên này đƣợc
tạo ra từ sự khuyến khích đạt thành tích của nahu và trong một môi trƣờng
hƣớng về tham giahọc tập nhiều hơn. Điều đó có đƣợc từ bạn học chứ không
phải từ GV. HS không thể xem thƣờng điểm số của bài tập do GV chấm thì
cũng sẽ quan tâm nhiều đến sự nhìn nhận của bạn về sự nỗ lực của bản thân
mình. Những HS thiếu động lực học tập, nghịch ngợm, phá rối về cơ bản đƣơc
giúp đỡ tích cực từ bạn bè qua mối quan hệ hợp tác trong nhóm. Trong học
hợp tác, hiệu quả giao tiếp, mức độ tin cậy, sự giúp đỡ, bảo ban lẫn nhau giữa
các thành viên sẽ cao hơn bởi vì các thành viên trong nhóm cần hiểu nhau, lại
có chung sở thích và phải chịu trách nhiệm chung.
- Giao nhiệm vụ vừa sức: Đây là một trong những phần hết sức quan
trọng vì nếu nhiệm vụ quá sức HS sẽ không có hứng thú hoàn thành nhiệm vụ
của mình, sẽ gây ra sự ỉ lại trông chờ ngƣời khác thực hiện, không tạo đƣợc
niềm vui khi chƣa hoàn thành nhiệm vụ, không kiểm tra đƣợc năng lực của HS
khi HS chƣa hoàn thành nhiệm vụ, cũng không tạo đƣợc sự tự tin, hứng thú để


12
hoàn thành nhiệm vụ tiếp theo. Vì thế, ngƣời GV cần nắm rõ mục tiêu giảng
dạy, cần bám sát đối tƣợng để biết đƣợc rõ về năng lực HS của mình, giao
nhiệm vụ từ rất nhỏ, rất dễ, rất đơn giản để nhằm thu hút động viên đƣợc HS
tham gia thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tự giác. Khi các em làm đƣợc

nhiều việc nhỏ sẽ là động cơ thúc đẩy cũng nhƣ tạo đƣợc sự tự tin và là cơ sở
để các em thực hiện đƣợc nhiệm vụ phức tạp hơn, khó hơn. Cứ nhƣ vậy GV sẽ
tăng dần về mức độ khi mỗi lần giao nhiệm vụ, và cuối cùng là đạt đƣợc mục
tiêu của mình.
- Động viên, khen thƣởng kịp thời: HS thƣờng rất thích đƣợc khen
thƣởng, dù là một thành công tuy nhỏ nhƣng nếu có một sự động viên kịp thời
sẽ là động lực thúc đẩy sự chăm chỉ, tích cực của các em rất nhiều. Có khi lời
khen, hay sự động viên và phần thƣởng chỉ cần là một tràng pháo tay, một lời
động viên của GV cũng giúp và thúc đẩy các em nỗ lực và cố gắng nhiều hơn
trong quá trình học tập để thực hiện nhiệm vụ của mình. Nhất là trong nhóm,
nếu một thành viên trong nhóm đƣợc khen nghĩa là thành viên đó mang đƣợc
thành tích về cho nhóm sẽ làm gia tăng sự hứng thú, sự tự giác của cả nhóm.
Tuy nhiên sự khen thƣởng cần đảm bảo chính xác và công bằng.
Đối với những HS ỉ lại, lƣời suy nghĩ, lƣời học. Nhiều quan điểm cho
rằng với phƣơng pháp học hợp tác sẽ hạn chế đƣợc tình trạng ỉ lại, lƣời suy
nghĩ, lƣời học của HS bởi chính sự phụ thuộc tích cực lẫn nhau của các thành
viên trong nhóm hợp tác. Nhƣng cũng có quan điểm cho rằng học hợp tác
nhóm có thể tạo điều kiện cho những HS lƣời- những HS không hoàn thành
nhiệm vụ mà vẫn đƣợc điểm do thành tích của cả nhóm. Để hạn chế tình trạng
này, GV có thể áp dụng các hình thức sau:
- Trao đổi để HS đó hiểu rõ về trách nhiệm của bản thân và của nhóm:
Thành tích của cá nhân chính là thành tích của nhóm, nếu bản thân mình ỉ lại,
lƣời suy nghĩ sẽ không những không đóng góp đƣợc thành tích gì cho nhóm
mà còn làm thành tích chung của nhóm bị ảnh hƣởng do sự lƣời biếng của
mình.


13
- Giao cho HS đó đảm nhiệm một vai trò cụ thể trong nhóm
- Phân công HS khác bám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ của HS đó.

- Kiểm tra, động viên ngay sau khi HS đó hoàn thành một nhiệm vụ nào
đó, dù là nhỏ nhất.
- Để chính các thành viên trong nhóm tự giải quyết vấn đề của nhóm
mình. GV chỉ can thiệp khi HS đó cố ý không hoàn thành nhiệm vụ. Cần thiết
phải tổ chức một bài kiểm tra kèm theo nhằm đánh giá về điểm số và ý thức
của cá nhân và tính điểm số cho nhóm để đánh giá đóng góp của từng thành
viên trong nhóm. Vì vậy sẽ luôn tồn tại hai mức độ trách nhiệm cá nhân và
nhóm[35].
Đối với những HS mất trật tự, đùa nghịch không tham gia vào thực hiện
nhiệm vụ đƣợc giao. Đây là những HS gây cản trở nhiều nhất cho quá trình
dạy học, đối với những HS này nhất thiết phải kèm theo vấn đề về trách nhiệm
tập thể. Thƣờng thì những HS này là những HS có cá tính, tự mình sẵn sàng
nhận kỷ luật về mình theo cách “mình làm mình chịu” thậm chí sẵn sàng nhận
thay cả khuyết điểm của thành viên khác, nhƣng khi đƣợc ràng buộc vào trách
nhiệm tập thể thì tình hình sẽ đƣợc cải thiện nhiều đáng kể, chúng sẽ tỏ ra năng
động, bớt quấy phá, bớt đùa nghịch vì sợ mình vi phạm mà tập thể phải gánh
chịu. Các thành viên trong nhóm tỏ ra biết bảo ban nhau, cùng giữ hoà khí làm
việc để đƣợc thành tích nhất định nào đó.
Đối với những HS tự ti, ít nói, không tham gia ý kiến, cũng không phản
đối ý kiến. Đó là những HS nhút nhát, ngại nói trƣớc đám đông. Những HS
này nếu không đƣợc rèn luyện khả năng giao tiếp sẽ ít có sự thành đạt sau này,
vì thế GV cần gần gũi, quan tâm nhiều hơn và cũng cần tạo không khí cởi mở
để tạo điều kiện cho HS đó có môi trƣờng tập nêu ý kiến của mình. Có thể
nhiều lần nhƣ vậy sẽ tạo đƣợc thói quen phát biểu ở HS đó. Hoặc cần thiết thì
bắt buộc nêu ý kiến, có thể ý kiến đƣợc gợi ý, đó chỉ là một câu hỏi, hay chỉ là
phát biểu một định lý, một công thức quen thuộc.


14
HS không đồng đều về năng lực học tập. Thƣờng thì trong lớp học hay

nhóm học sẽ có những HS rất yếu, nhƣng cũng có những HS giỏi. Học hợp tác
chính là môi trƣờng để các em đƣợc học tập ở nhau, đặc biệt là những HS yếu
hơn sẽ học từ các bạn giỏi hơn, các HS khá, giỏi tiếp thu nhanh hơn sẽ truyền
đạt cho các em học yếu tiếp thu chậm. Và chính những HS yếu sẽ thúc đẩy HS
khá giỏi phải giải thích và làm rõ chi tiết những gì đã đƣợc học, khuyến khích
các bạn có cách nghĩ đa dạng và độc đáo trong quá trình hợp tác. HS khá, giỏi
có cơ hội để tự rèn luyện khả năng diễn đạt, tự điều chỉnh và củng cố kiến thức
cho mình thông qua quá trình giảng giải cho bạn. HS yếu, kém sẽ đƣợc học cả
về kiến thức, cả về cách suy nghĩ cách làm bài từ các bạn khá. Không những
thế, học hợp tác còn làm nảy sinh sáng tạo, tốn ít thời gian làm bài, giải quyết
đƣợc nhiều vấn đề hoặc làm đƣợc nhiều bài tập hơn, do đó HS giỏi cũng không
cảm thấy bị thiệt thòi và HS yếu, kém lại có kết quả học tập cao hơn khi tham
gia học hợp tác. PPDH hợp tác chính là môi trƣờng thuận lợi để HS đƣợc rèn
luyện và nâng cao năng lực học tập của mình. Vấn đề đặt ra là ngƣời GV cần
phải thiết kế nhiệm vụ học tập sao cho mỗi HS, dù ở trình độ nào cũng giải
quyết đƣợc ít nhất một phần của nhiệm vụ đó, vì thế trong phiếu học tập, GV
không đƣa ra một nhiệm vụ duy nhất, mà chia nhỏ theo hƣớng phân bậc thành
nhiều nhiệm vụ cụ thể (từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trìu tƣợng, giải
nhiều loại bài tập khác nhau, hoặc tìm nhiều cách giải cho một bài toán…).
Khi đó mỗi HS trƣớc hết sẽ tự chọn nhiệm vụ phù hợp với năng lực của mình,
sau đó là cùng chia sẻ những nhiệm vụ còn lại thông qua sự hợp tác[19, tr. 51].
1.1.2. Quá trình dạy học hợp tác:
1.1.2.1. Lập kế hoạch cho bài dạy học hợp tác
(Phần này được trình bày dựa theo [19] và [32])
Khi tiến hành giờ học hợp tác, GV cần xác định rõ hai loại mục tiêu:
- Một là mục tiêu về kiến thức bao gồm: kiến thức, kỹ năng, tƣ duy,
thái độ.
- Hai là mục tiêu về kỹ năng hợp tác



15
Theo TS. Hoàng Lê Minh, để đạt đƣợc hai mục tiêu trên GV cần lập một
kế hoạch, chuẩn bị cho bài dạy thật cẩn thận, chu đáo. Kế hoạch này bao gồm
những phần thảo luận có trọng tâm, trƣớc và sau bài giảng (theo chiều hƣớng
đi lên) đó là những vấn đề, những câu hỏi xung quanh bài giảng, những phiếu
học tập để học sinh trao đổi, thảo luận, thực hành trong suốt quá trình học tập.
- Những câu hỏi trong kế hoạch giảng dạy cần xoay quanh những vấn đề
để làm rõ đƣợc bài học. Cho học sinh đọc kỹ câu hỏi và thảo luận theo từng
nhóm, sau đó các nhóm trả lời và nhận xét nhau. Mục đích của phần thảo luận
này là phát hiện những ý tƣởng của học sinh về vấn đề sẽ trình bày và thiết lập
những mong muốn hay kỳ vọng mà bài giảng sẽ đề cập tới.
- Chia bài học ra theo từng đơn vị kiến thức, chuẩn bị nhiệm vụ cho một
thảo luận ngắn cho từng nhóm học sinh sau mỗi phần của bài học. Nhiệm vụ
đó có thể là một câu hỏi để phản hồi những nội dung lý thuyết hay khái niệm
của thông tin vừa trình bày, hoặc một bài tập nhỏ vận dụng trực tiếp kiến thức
vừa học, liên hệ với phần đã học để gắn đƣợc kiến thức mới vào vốn kiến thức
đã có. Nhiệm vụ cũng có thể là dự đoán vấn đề sẽ đƣợc trình bày tiếp theo, giả
định câu trả lời cho những vấn đề đặt ra nhằm tiếp cận kiến thức mới, tìm quy
trình giải bài tập. Tuy nhiên nhiệm vụ phải ngắn gọn, vừa sức để học sinh có
thể hoàn thành trong thời gian ngắn( khoảng 3 – 4 phút), với mục đích là mọi
học sinh đều tham gia tƣ duy một cách tích cực vào nhiệm vụ đó. Mỗi nhiệm
vụ thảo luận cần có 4 phần: Trình bày câu trả lời cho những vấn đè đƣợc nêu,
chia sẻ câu trả lời với những ngƣời bạn cùng nhóm, lắng nghe câu trả lời của
bạn và đƣa ra câu trả lời mới hoàn chỉnh hơn câu trả lời ban đầu của từng
thành viên thông qua quá trình kết hợp, xây dựng và tổng hợp dựa trên ý tƣởng
của nhóm. Mỗi HS đều phải nắm kinh nghiệm trong thảo luận này để có khả
năng thực hiện nhiệm vụ trong một thời gian ngắn.
- Cuối cùng chuẩn bị thảo luận để tóm tắt lại những kiến thức mà HS
học đƣợc từ bài học. Phần thảo luận này giúp HS gắn đƣợc những kiến thức



16
vừa học vào vốn kiến thức đã có, hoặc chỉ ra cho HS thấy nhiệm vụ ở nhà sẽ
đề cập tới vấn đề gì, có liên hệ gì với bài sau. Sau đó kết thúc bài học.
Khi chuẩn bị xong phần thảo luận, chuẩn bị khâu tổ chức lớp học hợp
tác
- Tạo ra các nhóm học sinh tự nguyện hoặc ngẫu nhiên theo vị trí ngồi
của HS. GV có thể sắp xếp chỗ ngồi khác nhau trong từng giờ học để HS đƣợc
gặp gỡ trao đổi với nhiều bạn khác trong lớp.
- Phân công cho mỗi nhóm thực hiện nhiệm vụ ban đầu
- Thực hiện phần đầu của bài học. Đƣa ra nhiệm vụ thảo luận cho mỗi
nhóm từ 3 đến 4 phút để hoàn thành. Sử dụng cách thức trình bày/chia sẻ/lắng
nghe/đƣa ra câu trả lời mới. Chọn ngẫu nhiên 2 hoặc 3 HS trình bày tóm tắt
phần thảo luận của mình, dùng cách này để tăng cƣờng trách nhiệm cá nhân,
các nhóm đều nghiêm chỉnh thực hiện nhiệm vụ và tự kiểm ttra lẫn nhau để
chắc chắn rằng cả nhóm đều chuẩn bị tinh thần trả lời câu hỏi.
- Tiếp tục thực hiện phần hai của bài giảng, đƣa ra nhiệm vụ thứ hai.
Lặp lại trình tự này cho tới khi hoàn thành bài học.
- Kết thúc bài học là đƣa ra nhiệm vụ cuối cùng, thƣờng là những bài tập
để rèn luyện năng lực của mỗi cá nhân. Dành 5-6 phút để tóm tắt và thảo luận
về những vấn đề đã đƣợc đề cập trong giờ học.
Thực hiện trình tự này đều đặn để giúp HS nâng cao kỹ năng và đẩy
nhanh tốc độ hoàn thành những nhiệm vụ thảo luận ngắn. Có thể đƣa vào một
số câu hỏi nhƣ: “ Em đã tham gia thảo luận nhƣ thế nào?”, “Trong quá trình
nhóm thảo luận em có tham gia ý kiến gì?”, “ Em thƣờng lắng nghe ý kiến của
bạn hay đƣa ra ý kiến của mình?”, “ Em cần chuẩn bị những gì để thảo luận
tốt hơn?”…Điều đó sẽ thúc đẩy HS học tập tích cực hơn, bổ xung kiến thức
mình còn hạn chế để có thể đƣa ra đƣợc ý kiến của mình, phản hồi những ý
kiến của bạn trong quá trình lắng nghe nhóm thảo luận.
Quá trình học hợp tác nhóm không chỉ giúp HS chủ động nhận thức, mà

còn tạo cho GV có thời gian để suy nghĩ, tổ chức lại giáo án, bao quát lớp học,


17
lắng nghe HS trao đổi. Việc lắng nghe HS trao đổi, thảo luận giúp ngƣời GV
hiểu đƣợc tình hình học tập của từng HS và có những thay đổi cần thiết cho
phù hợp với năng lực của từng học sinh[32].
1.1.2.2. Tổ chức các nhóm học hợp tác
(Phần này được trình bày dựa theo [19] và [35])
Học nhóm là một hình thức học hợp tác nâng cao chất lƣợng của HS.
Với phƣơng pháp học tập này học sinh đƣợc giao lƣu với nhau và có đƣợc
những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt. Theo cách này HS đƣợc tạo cơ hội
tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan điểm và thực hiện học hợp tác. Để có
thể phát huy đƣợc những lợi ích của việc học nhóm, GV có thể khơi gợi hứng
thú bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tƣơng ứng với trình độ của học
sinh, hoặc đặt câu hỏi hoặc đƣa ra vấn đề dẫn dắt học sinh đạt tới mức độ tƣ
duy sâu sắc hơn. Bên cạnh đó quá trình hợp tác cũng phải đƣợc sắp xếp để đảm
bảo tất cả các thành viên trong nhóm có tham gia một cách tích cực. Có ba loại
nhóm học hợp tác:
Nhóm học tập chính thức là nhóm những HS đƣợc duy trì cho đến khi
hoàn thành nhiệm vụ.
Tuỳ theo mục đích dạy học hợp tác trong phạm vi một tiết học, một
chƣơng hay cả quá trình học tập mà GV có thể quyết định việc tổ chức lớp học
bằng cách chia thành các nhóm học hợp tác cho phù hợp. Có thể lựa chọn một
trong số cách chia nhóm nhƣ sau:
Chia nhóm nhỏ cùng thảo luận: Chia HS thành các nhóm nhỏ gồm 5-7 HS để
thảo luận một khía cạnh xoay quanh một vấn đề nào đó. Sau thời gian thảo
luận có quy định( 10-30 phút), GV chỉ định một thành viên bất kỳ trình bày ý
kiến của nhóm mình trƣớc lớp.
Chia nhóm theo sở thích: Chia lớp học thành các nhóm mà mỗi nhóm cùng

làm một nhiệm vụ đƣợc giao ở bên ngoài trong một thời gian nhất định. Trong
lần thảo luận tiếp theo với GV, các nhóm phải trình bày kết quả cho lớp.


18
Chia nhóm đánh giá: Một nhóm chịu trách nhiệm thảo luận một chủ đề nào đó
và một nhóm khác có trách nhiệm đƣa ra các quan sát, nhận xét và đánh giá kết
quả của nhóm kia.
Chia nhóm cập nhật kết quả : Cuối mỗi bài học, HS phải trả lời những câu hỏi
hoặc những bài tập nhỏ của GV hoặc của nhóm bạn đặt ra và chứng minh câu
trả lời của mình. Các nhóm cập nhật các câu trả lời sau đó thảo luận, tổng hợp,
so sánh các câu hỏi và các câu trả lời để có đƣợc phƣơng án trả lời đúng. Sau
đó, GV tổ chức một buổi thảo luận để kiểm tra các câu trả lời hợp lý và tổng
hợp thành chuỗi kiến thức của cả một chuyên đề hoặc của cả một chƣơng nào
đó. Thích hợp với bài ôn tập chƣơng.
1.1.2.3. Các bước tiến hành dạy học hợp tác
(Phần này được trình bày dựa theo [19] và [35])
a. Các bƣớc tiến hành dạy học hợp tác:
Dạy học hợp tác dựa trên hoạt động của các nhóm đƣợc tiến hành theo
các bƣớc sau:
Hoạt động của giáo viên:
Bƣớc 1: Thành lập nhóm học sinh từ 5 -10 HS một cách ngẫu nhiên
Bƣớc 2: Phát cho các nhóm nội dung về những nhiệm vụ và yêu cầu mà
nhóm phải thực hiện
Bƣớc 3: Định hƣớng sự hoạt động cho nhóm
Bƣớc 4: Tổ chức thảo luận trên lớp
Bƣớc 5: Đánh giá kết quả, tính điểm của mỗi nhóm
Bƣớc 6: Nhận xét, rút kinh nghiệm về sự hoạt động của các nhóm
Hoạt động của học sinh:
Để nhóm đạt thành tích cao thì mọi thành viên trong nhóm đều phải cố gắng

và nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đồng thời mỗi nhóm cần có sự phân
công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên. Có thể tiến hành theo các bƣớc sau:
Bƣớc 1: Nắm bắt về năng lực của các thành viên trong nhóm để phân
công nhiệm vụ phù hợp tuỳ theo mỗi nội dung của nhiệm vụ


19
Bƣớc 2: Thực hiện nhiệm vụ cá nhân
Bƣớc 3: Hợp tác thảo luận, trao đổi
Bƣớc 4: Tổng hợp kiến thức của nhóm,
Bƣớc 5:Thể hiện sản phẩm của nhóm
Bƣớc 6: Rút kinh nghiệm.
b. Rèn luyện kỹ năng hợp tác
Hợp tác là bản năng của con ngƣời, nhƣng để hợp tác có hiệu quả thì
con ngƣời cần đƣợc rèn luyện để thích ứng với từng hoàn cảnh và trong từng
mối quan hệ cụ thể. Nhà trƣờng nên dạy cho HS các kỹ năng hợp tác, bởi vì
nếu HS không biết chia sẻ, không biết cách giao tiếp phù hợp, không duy trì
bầu không khí tin tƣởng lẫn nhau cũng nhƣ không biết cách giải quyết các mâu
thuẫn, các ý kiến bất đồng trên tinh thần xây dựng thì không nâng cao đƣợc
hiệu quả giáo dục. Mặt khác các kỹ năng hợp tác liên quan trực tiếp tới nghề
nghiệp tƣơng lai và sự thành đạt trong cuộc sống của HS, do vậy kỹ năng hợp
tác là một trong những mục tiêu dạy học quan trọng của nhà trƣờng.
- Có 5 loại kỹ năng cơ bản là: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xây dựng và
duy trì bầu không khí tin tƣởng lẫn nhau, kỹ năng kèm cặp nhau, kỹ năng lãnh
đạo và kỹ năng tƣ duy phê phán[19,tr. 97]
Kỹ năng giao tiếp: Giao tiếp là bƣớc khởi đầu trong sự hợp tác. “ Giao
tiếp là sự trao đổi và chia sẻ những ý nghĩ và cảm xúc thông qua hệ thống các
ký hiệu đƣợc hiểu gần nhƣ thống nhất giữa những ngƣời cùng tham gia”. Đối
với học sinh, có hai loại kĩ năng giao tiếp là: truyền đạt và tiếp nhận. Mỗi học
sinh phải có khả năng truyền đạt một thông tin trực tiếp thể hiện ý tƣởng, niềm

tin, cảm nhận, ý kiến phản ứng, nhu cầu, mục đích, mối quan tâm, các nguồn
lực, và những điều trung thực khác. Mỗi HS cũng phải có khả năng tiếp nhận
thông tin một cách chính xác sao cho bản thân có thể hiểu đƣợc các ý tƣởng,
niềm tin, cảm nhận,…của ngƣời khác. Qua truyền đạt và tiếp nhận, nhóm HS
có thể làm sáng tỏ mục tiêu chung, theo dõi bạn mình, thuyết phục bạn, thống


20
nhất hành động, giúp đỡ lẫn nhau, chia sẻ cho nhau và thúc đẩy nhau hoạt
động
Kỹ năng xây dựng và duy trì bầu không khí tin tƣởng lẫn nhau: Sự tin
tƣởng thể hiện ở những hành vi cởi mở và chia sẻ, chấp nhận, ủng hộ và những
ý muốn hợp tác. Khi đánh giá hành vi đƣợc tin tƣởng của một HS, điều quan
trọng cần nhớ là sự chấp nhận và ủng hộ của một ngƣời đối với những đóng góp
của các thành viên khác không có nghĩa là ngƣời đó phải đồng ý với mọi điều mà
những ngƣời khác nói ra. Một cá nhân có thể bộc lộ sự chấp nhận và ủng hộ trƣớc
sự cởi mở và chia sẻ với ngƣời khác trong khi vẫn nói lên các ý tƣởng khác thậm
chí cả những quan điểm đối lập. Vì thế kỹ năng xây dựng và duy trì bầu không
khí tin tƣởng lẫn nhau hết sức quan trọng trong quá trình hợp tác.
Kỹ năng kèm cặp nhau: Kèm cặp, giúp đỡ nhau để cùng hoàn thành mục
tiêu học tập. Điều này giúp các em thân thiện với nhau, hiểu nhau hơn và gần
gũi hơn.
Kỹ năng lãnh đạo: Thể hiện những hành động giúp cho nhóm hoàn
thành nhiệm vụ. Thƣờng làm nổi bật vai trò của những học sinh có năng lực tốt
hơn.
Kỹ năng tƣ duy phê phán: Những xung đột giữa các tƣ tƣởng, ý kiến, kết
luận, lý thuyết, lời giải và đặc biệt là phƣơng pháp giải toán,… gây ra những
cuộc tranh luận là một khía cạnh quan trọng của học hợp tác. Qua sự tranh
luận, đƣa ra ý kiến của mình, phản bác ý kiến của bạn, HS đƣợc rèn luyện tƣ
duy phê phán và tạo cho mình sự tự tin, mạnh dạn, tin tƣởng năng lực của bản

thân, khắc phục đƣợc sự dụt dè, nhút nhát.
- Các bƣớc rèn luyện kỹ năng hợp tác cho HS:
Bƣớc 1. Tạo ra bối cảnh hợp tác: Làm cho HS nhận thức đƣợc sự phụ
thuộc lẫn nhau và trách nhiệm của mình, biết quan tâm tới sự vui buồn của
ngƣời khác.
Bƣớc 2. Xây dựng và tổ chức các cuộc tranh luận về kiến thức. Tạo ra
những mâu thuẫn về nhận thức để HS có cơ hội rèn luyện tƣ duy phê phán.


21
Bƣớc 3. Dạy cho HS biết cách thoả thuận
Bƣớc 4. Dạy cho HS biết cách hoà giải
Tiến trình rèn luyện kỹ năng hợp tác cho HS là GV chọn một số kỹ năng
quan trọng cần quan sát, cử ra HS làm nhiệm vụ cụ thể trong vai trò của mình
nhƣ: nhóm trƣởng, thƣ ký, quan sát viên, sau đó GV quan sát và can thiệp khi
cần thiết. Những HS đƣợc cử làm quan sát viên đánh giá xem các bạn trong
lớp đã thể hiện những kỹ năng hợp tác nhƣ thế nào. GV tổ chức cho HS tiến
hành nhận xét nhóm, sử dụng các quan sát viên nhƣ một nguồn phản hồi. Nhận
xét toàn lớp, tóm tắt thông tin phản hồi từ những dữ liệu quan sát đƣợc của
GV. Các thành viên nhóm đặt ra các mục tiêu trong việc thể hiện các kỹ năng
hợp tác ở lần hoạt động nhóm lần sau[19, tr.97].
1.2. Rèn luyện năng lực giải bài tập toán học
1.2.1. Vai trò và chức năng của bài tập toán
1.2.1.1. Vai trò, vị trí, mục tiêu của môn Toán THPT
a. Vai trò, vị trí của môn Toán: Môn Toán có một vai trò, vị trí và ý nghĩa
quan trọng trong nhà trƣờng phổ thông.
Thứ nhất, môn Toán có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
chung của giáo dục phổ thông. Cùng với việc tạo điều kiện cho học sinh kiến
tạo những tri thức và rèn luyện những kỹ năng toán học cần thiết góp phần
phát triển năng lực trí tuệ chung nhƣ phân tích, tổng hợp, trìu tƣợng hoá, khái

quát hoá…môn toán còn có tác dụng góp phần phát triển nhân cách, rèn luyện
những đức tính, phẩm chất của ngƣời lao động mới nhƣ tính cẩn then, chính
xác, tính kỷ luật, tính phê phán, tính sáng tạo, bồi dƣỡng óc thẩm mỹ.
Thứ hai, môn toán cung cấp vốn văn hoá phổ thông tƣơng đối hoàn
chỉnh bao gồm kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và phƣơng pháp tƣ duy
Thứ ba, môn toán còn là công cụ giúp cho việc dạy và học các môn học
khác. Do tính trìu tƣợng cao, Toán học còn có tính thực tiễn phổ dụng. Những
tri thức và kỹ năng toán học trở thành công cụ để học tập những môn học khác
trong nhà trƣờng, là công cụ của nhiều ngành khoa học khác nhau vì vậy môn


22
toán là thành phần không thể thiếu của trình độ văn hoá phổ thông của con
ngƣời mới. Cùng với việc kiến tạo tri thức, môn toán trong nhà trƣờng phổ
thông còn rèn luyện cho HS những năng lực tính toán, năng lực vẽ hình, năng
lực vận dụng toán học vào các môn học khác…Môn toán còn giúp HS hình
thành và phát triển năng lực của bản thân trong việc giải quyết vấn đề thực tế
trong công việc và trong cuộc sống. Vì thế, môn Toán càng có ý nghĩa quan
trọng hơn trong giai đoạn hiện nay, thời kỳ phát triển mới của đất nƣớc.
b. Mục tiêu và nhiệm vụ dạy học môn Toán THPT:
Theo mục tiêu GD hiện nay, trong dạy học môn Toán nếu chỉ truyền thụ
kiến thức toán học cho HS là chƣa đủ, mà ngƣời GV còn cần phải truyền thụ
cho HS cách chủ động học tập, khơi gợi niềm say mê, hứng thú, sáng tạo, chủ
động rèn luyện các năng lực xã hội[25]. Với vai trò và vị trí đã đƣợc xác định,
mục tiêu cụ thể của môn toán đƣợc xác định nhƣ sau:
Mục tiêu về kiến thức, tƣ duy: Nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục trong
giai đoạn hiện nay, việc dạy học không chỉ trang bị tri thức cho ngƣời học mà
quan trọng hơn là dạy HS biết cách học, làm nảy sinh ở HS tính ham hiểu biết,
kích thích năng lực hội thoại phê phán, say mê tự học nên trong dạy học môn
Toán, chúng ta cần tập luyện cho HS năng lực tập trung học tập bao gồm: rèn

luyện năng lực nhớ kiến thức và rèn luyện năng lực vận dụng kiến thức, phát
triển khả năng tƣ duy, đặc biệt là tƣ duy hội thoại, tƣ duy phê phán. Dạy cho
HS biết đúc kết kinh nghiệm thông qua thành công và thất bại của bản thân và
ngƣời khác, lấy thành công nuôi thành công. Dạy cho HS biết cách học ở thầy,
ở bạn, ở tài liệu học tập …Dạy cho HS cách tự học thông qua tự đọc sách, tự
nghiên cứu những tài liệu vừa sức hoặc hƣớng dẫn HS hợp tác với nhau để có
thể tự khám phá đƣợc kiến thức, nắm đƣợc cách gợi vấn đề, cách suy nghĩ để
từng bƣớc giải quyết những nhiệm vụ học tập. Sau mỗi bài học, HS biết đâu là
kiến thức trọng tâm, biết vận dụng kiến thức toán một cách linh hoạt và sáng
tạo trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Ví dụ: Trong tiết học về giải phƣơng trình
quy về bậc hai – lớp 10, GV thiết kế 3 HĐ tƣơng ứng với 3 nhiệm vụ: giải


23
phƣơng trình dạng chứa ẩn ở mẫu, pt chứa ẩn trong dấu căn bậc chẵn, pt chứa
ẩn trong dấu giá trị tuyệt đối ( hƣớng dẫn HS tự nghiên cứu nhiệm vụ trƣớc giờ
học). Trong giờ học có thể cho HS thảo luận để các em có cơ hội đƣợc tƣ duy
theo nhiều hƣớng khác nhau, phát triển năng lực hội thoại, rèn cho HS cách
biết tự đánh giá năng lực của nhau thông qua đó HS sẽ tự đúc kết đƣợc kinh
nghiệm cho bản thân. Nhƣ vậy HS sẽ học đƣợc cách học.
Mục tiêu về kỹ năng: Thực tế công việc ở thời đại nào cũng vậy luôn đòi
hỏi mỗi con ngƣời có năng lực “biết làm”. “Nói đƣợc, làm đƣợc”. Biết làm cần
có kỹ năng, có kiến thức, có phƣơng pháp và biết vận dụng nó trong công việc
một cách linh hoạt, sáng tạo. Đối với môn Toán “biết làm” bao gồm sự kết hợp
giữa quy trình thuật giải và tính linh hoạt, sáng tạo. Với quy trình thuật giải thì
không phải chỉ vận dụng máy móc thuật giải để có lời giải mà quan trọng là
phải biết cách suy nghĩ, biết vận dụng linh hoạt thuật giải vào từng loại bài tập.
Có những dạng toán có thể hình thành đƣợc quy trình thuật giải, những quy
trình đó hình thành nên tính làm việc khoa học, nền nếp ở mỗi HS. Nhƣng
cũng có những dạng toán đòi hỏi tính linh hoạt, sáng tạo, không thể dập khuôn,

máy móc. Vì vậy ngƣời GV cần để ý cả 2 phƣơng diện này để giúp mọi đối
tƣợng HS “biết làm” toán. Điều đó sẽ giúp mỗi HS hình thành năng lực “biết
làm” trong thực tiễn công việc của các em sau này. Ví dụ: trong giờ thực hành
vẽ đồ thị hàm số bậc hai-lớp 10. HS đƣợc rèn luyện quy trình vẽ Parabol, qua
cách vẽ các em hợp tác phát hiện và phân biệt số giao điểm của Parabol với
trục hoành, trục tung từ đó liên hệ với số nghiệm của phƣơng trình bậc hai đã
học. Qua đó các em vừa đƣợc rèn luyện năng lực vẽ đồ thị tạo đà cho việc vẽ
đồ thị ở lớp 12, vừa đƣợc rèn luyện kỹ năng làm bài linh hoạt. Mặt khác trong
quá trình học hợp tác, HS đƣợc thử nghiệm các vai trò cá nhân trong nhóm
nhƣ: nhóm trƣởng, thƣ ký, quan sát viên, thành viên. Sau nhiều lần tham gia
nhƣ vậy làm kỹ năng giao tiếp và tình bạn đƣợc tăng lên, HS sẽ dần nhận ra
năng lực của mình trong việc lĩnh hội kiến thức cũng nhƣ trong giao tiếp, từ đó
tạo điều kiện để HS có thể tự tin chọn ngành nghề của mình.


24
Mục tiêu về thái độ: Thông qua học toán, rèn luyện cho HS khả năng
nhìn nhận sự vật hiện tƣợng, các mối quan hệ giữa con ngƣời với nhau theo
quy luật. Đồng thời tính chính xác và chặt chẽ của toán học sẽ rèn luyện cho
HS cách nhìn sự vật một cách tƣờng minh, rõ ràng, tuy nhiên lại hạn chế tính
mềm dẻo, uyển chuyển trong các tình huống cƣ xử thực tế. Do đó cần kết hợp
học tập toán với các HĐ học tập có tính chất xã hội nhƣ: học hợp tác nhóm, thi
đố vui toán học, hoạt động ngoại khoá…Chúng ta cũng nên tạo điều kiện để
HS đƣợc học tập ở bạn, phát huy tính tự trọng, tinh thần trách nhiệm đối với
công việc, đối với mọi ngƣời, tạo không khí học cùng nhau vì lợi ích chung,
tạo cơ hội để HS đƣợc chia sẻ suy nghĩ, biết cảm thông, biết sẵn sàng giúp đỡ
bạn học. Ví dụ: trong giờ học luyện tập chứng minh bất đẳng thức - lớp 10, GV
tổ chức cho HS học tập theo PP hợp tác nhóm, hình thức các nhóm thi đua lẫn
nhau, tìm ra nhiều cách chứng minh bất đẳng thức:
a

2
+ b
2
+ c
2
≥ ab + bc + ca với mọi a, b, c. (1)
Có thể dùng những cách đã chứng minh bất đẳng thức (1) để chứng minh bất
đẳng thức sau đây không?
(a + b)( b + c)( c + a) ≥ 8abc với mọi a, b, c ≥ 0
Với cách tổ chức nhƣ vậy tất cả HS đều hào hứng tham gia, để có thể đóng góp
ý kiến của mình vào sự chiến thắng cảu nhóm thì mỗi HS đều hết sức tự giác,
khẩn trƣơng làm bài và tìm ra cho mình những cách giải hay nhất, sau đó cả
nhóm hợp tác lại xem có bao nhiêu cách trình bày lời giải. Qua đó, HS đƣợc
học hỏi lẫn nhau, biết lắng nghe ý kiến của nhau, biết đƣa ra chính kiến của
mình. Nhƣ vậy trong một giờ học, HS không những học đƣợc nhiều cách
chứng minh bất đẳng thức mà còn đƣợc phát triển khả năng giao tiếp, thái độ
cƣ xử, tự đánh giá về năng lực của bản thân. Giờ học đã thành công và đạt
đƣợc các mục tiêu nhƣ trên.
1.2.1.2 . Vai trò và chức năng của bài tập toán
(Phần này được trình bày dựa theo[16],[17], [27])

×