Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Xây dựng và sử dụng phương tiện dạy học kỹ thuật số trong dạy học sinh học lớp 6, trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.9 MB, 123 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC




NGUYỄN THỊ HỒNG







XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG PHƢƠNG TIỆN
DẠY HỌC KỸ THUẬT SỐ TRONG DẠY HỌC
SINH HỌC LỚP 6, TRUNG HỌC CƠ SỞ



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM SINH HỌC










HÀ NỘI - 2013


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC



NGUYỄN THỊ HỒNG



XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG PHƢƠNG TIỆN
DẠY HỌC KỸ THUẬT SỐ TRONG DẠY HỌC
SINH HỌC LỚP 6, TRUNG HỌC CƠ SỞ


CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN SINH HỌC)
Mã số: 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM SINH HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Dƣơng Tiến Sỹ






HÀ NỘI - 2013

1
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BGĐT
Bài giảng điện tử
CNTT
Công nghệ thông tin
ĐC
Đối chứng
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
KBGA
Kịch bản giáo án
KTS
Kỹ thuật số
PHT
Phiếu học tập
PMCC
Phần mềm công cụ
PMDH
Phần mềm dạy học
PPDH

Phương pháp dạy học
PTDH
Phương tiện dạy học
PTTQ
Phương tiện trực quan
QTDH
QTTT
SD
SGK
SH
THCS
TLDH
TN
TV
Quá trình dạy học
Quá trình thông tin
Sử dụng
Sách giáo khoa
Sinh học
Trung học cơ sở
Tư liệu dạy học
Thực nghiệm
Thực vật








2

DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 2.1: Tổng hợp các PTDH kỹ thuật số đã sưu tầm và xây dựng
38
Bảng 2.2: Qui trình sử dụng PTDH KTS để tổ chức các hoạt động
nhận thức cho HS

49
Bảng 3.1: Tần suất điểm các bài kiểm tra trong TN
63
Bảng 3.2: Tần suất hội tụ tiến điểm của các bài kiểm tra trong TN
64
Bảng 3.3: Kiểm định
X
theo tiêu chuẩn U kết quả kiểm tra trước TN
65
Bảng 3.4: Phân tích phương sai kết quả các bài kiểm tra trong TN.
66
Bảng 3.5: Tần suất điểm các bài kiểm tra sau TN
68
Bảng 3.6: Tần suất hội tụ tiến điểm các bài kiểm tra sau TN.
69
Bảng 3.7: Kiểm định
X
theo tiêu chuẩn U kết quả kiểm tra sau TN
70

Bảng 3.8: Phân tích phương sai kết quả kiểm tra sau TN
70






















3


DANH MỤC CÁC HÌNH



Trang
Hình 1.1: Sơ đồ mối quan hệ giữa PTTQ trong mối quan hệ chặt chẽ
với các yếu tố cấu trúc khác của quá trình dạy học

12
Hình1.2: Sơ đồ vai trò nói truyền của PTTQ giữa thầy giáo và học
sinh

19
Hình 2.1: Sơ đồ mối quan hệ giữa mục tiêu, nội dung và phương pháp
dạy học

24
Hình 2.2: Sơ đồ giới thiệu các nhóm sinh vật và đặc điểm chung của cơ
thể sống

33
Hình 3.1. Biểu đồ tần suất điểm các bài kiểm tra trong thực nghiệm
64
Hình 3.2: Đồ thị tần suất hội tụ tiến điểm các bài kiểm tra trong TN
65
Hình 3.3: Biểu đồ tần suất điểm các bài kiểm tra sau TN
68
Hình 3.4: Đồ thị tần suất điểm của các bài kiểm tra sau TN
69

















4
MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn
i
Dạnh mục viết tắt
ii
Danh mục các bảng
iii
Danh mục các hình
iv
Mục lục
v
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
6
1.1. Cơ sở lý luận

6
1.1.1. Các khái niệm có liên quan đến đề tài
6
1.1.2. Cơ sở lý luận của phương tiện dạy học trong lý luận dạy học
13
1.1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng PTTQ trong dạy học Sinh
học ở Việt Nam

19
1.2. Cơ sở thực tiễn
21
1.2.1. Điều tra thực trạng trang bị các thiết bị kỹ thuật dạy học phục
vụ cho việc sử dụng các PTDH kĩ thuật số (như máy vi tính, đầu đĩa
DVD, tivi, radio, máy chiếu, mạng internet…)


21
1.2.2. Điều tra phương pháp sử dụng các PTDH kĩ thuật số trong dạy
học SH 6

22
1.2.3. Điều tra mức độ sử dụng các PTDH kĩ thuật số trong dạy học
sinh học lớp 6

22
1.2.4. Điều tra nhu cầu của GV về các PTDH kĩ thuật số trong dạy
học sinh học lớp 6

23
Kết luận chương 1

23
Chƣơng 2: XÂY DỰNG TƢ LIỆU DẠY HỌC KỸ THUẬT SỐ
ĐỂ DẠY HỌC SINH HỌC LỚP 6

24
2.1. Các nguyên tắc xây dựng PTDH KTS
24
2.1.1. Nguyên tắc thống nhất giữa mục tiêu – nội dung – PPDH
24
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính chính xác của nội dung dạy học
25
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan trong dạy học
26
2.1.4. Nguyên tắc phát huy tối đa vai trò của các giác quan trong QTDH
27
2.1.5. Nguyên tắc thu hẹp không gian và rút ngắn thời gian trong QTDH
29

5
2.2. Quy trình xây dựng PTDH KTS
30
2.2.1. Xác định mục tiêu dạy học
31
2.2.2. Phân tích lôgic cấu trúc nội dung dạy học
32
2.2.3. Sưu tầm, gia công sư phạm và gia công kỹ thuật hệ thống
PTDH kỹ thuật số phù hợp với nội dung dạy - học

37
2.2.4. Thiết kế trang Web quản lí thư viện PTDH kỹ thuật số

40
2.2.5. Thiết kế KBGA để chỉ định việc nhập liệu thông tin vào phần
mềm PowerPoint hình thành BGĐT

43
2.3. Qui trình sử dụng PTDH KTS để tổ chức các hoạt động nhận
thức cho HS

49
2.4. Một số ví dụ về qui trình sử dụng PTDH KTS trong dạy học Sinh
học lớp 6

52
Kết luận chương 2
60
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
61
3.1. Mục đích thực nghiệm
61
3.2. Nội dung thực nghiệm
61
3.3. Phương pháp thực nghiệm
61
3.4. Kết quả thực nghiệm
62
3.4.1. Phân tích kết quả các bài kiểm tra trong thực nghiệm
62
3.4.2. Phân tích kết quả các bài kiểm tra sau thực nghiệm
68
3.4.3. Đánh giá về mặt tâm lý sư phạm đối với học sinh

71
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
73
1. Kết luận
73
2. Khuyến nghị
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
75
PHỤ LỤC
78









6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ mục tiêu dạy học sinh học 6 ở trƣờng THCS
Chương trình sinh học 6 giúp học sinh bắt đầu làm quen với môn khoa học
chuyên nghiên cứu về thế giới sinh vật. Các kiến thức về thực vật và một số
nhóm sinh vật khác trong chương trình này vừa góp phần làm cho học sinh có
được những kiến thức sinh học cơ bản, phổ thông và hoàn chỉnh, vừa giúp học
sinh có cơ sở để tiếp tục học những kiến thức về di truyền, sinh thái ở cấp học
trên, đồng thời làm cơ sở cho việc nắm vững các biện pháp kỹ thuật sản xuất

nông nghiệp, lâm nghiệp được học trong môn công nghệ ở lớp 7 và lớp 9. [15]
1.2. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học
Từ thập niên 90 của thế kỉ trước, vấn đề ứng dụng CNTT vào dạy học là
một chủ đề lớn được UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình hành
động trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI. Ngoài ra, UNESCO còn dự báo:
CNTT sẽ làm thay đổi nền giáo dục một cách cơ bản vào đầu thế kỉ XXI.
Trước tình hình CNTT với giáo dục trên thế giới như vậy, Nghị quyết
TW2, khóa VIII đã được cụ thể hóa bằng Chỉ thị 58-CT/TW (17/10/2000) của
Bộ Chính trị, nội dung Chỉ thị có đoạn: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong
công tác GD & ĐT ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức
đào tạo từ xa phục vụ nhu cầu học của toàn xã hội”.
Luật giáo dục nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua
tháng 12 năm 1998 tại mục 2 trong điều 4 cũng nêu rõ :“ Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của người
học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập, ý chí vươn lên”.
Như vậy, ứng dụng CNTT vào giáo dục, tăng cường vận dụng các
phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn sinh học theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của học sinh là một xu thế mới của nền giáo dục Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai lâu dài. [3]

7
1.3. Xuất phát từ nguyên tắc vận dụng PPDH không thể tách rời PTDH
PTDH ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới PPDH, đặc
biệt là những PTDH kĩ thuật số trong thời đại phát triển CNTT. PTDH giúp
người thầy tiến hành bài học không phải bắt đầu bằng giảng giải, thuyết trình,
độc thoại,… mà bằng vai trò đạo diễn, thiết kế, tổ chức, kích thích, trọng tài,
cố vấn,… trả lại cho người học vai trò chủ thể, không phải học thụ động bằng
nghe thầy giảng, mà học tích cực bằng hành động của chính mình.
1.4. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 6
Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát

triển của trẻ em, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành
và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ“, “tuổi
khó bảo“, “tuổi khủng hoảng “, “tuổi bất trị “…Đây là lứa tuổi có bước nhảy
vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến
sang giai đoạn phát triển cao hơn (người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ
bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát triển: thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo
đức… của thời kỳ này. Các em hầu hết chưa ý thức được vai trò của việc học
tập mà chỉ học khi mình thấy hứng thú. Do đó, muốn học sinh tích cựu học và
ham học thì việc thiết kế và sử dụng phương tiện kỹ thuật số để kích thích tinh
thần học tập của các em là rất cần thiết.
1.5. Xuất phát từ đặc điểm chƣơng trình và SGK SH 6
SGK SH 6 được biên soạn theo hướng hạn chế việc cung cấp tri thức có
sẵn, buộc HS phải hoạt động tích cực tự lực dưới sự tổ chức hướng dẫn của
GV mới có thể phát hiện và lĩnh hội được. Cách biên soạn như vậy không
những buộc HS phải thay đổi cách học mà còn buộc GV thay đổi cách dạy.
Nội dung kiến thức SH 6 bao gồm những kiến thức về cấu tạo cơ thể
cây xanh từ cơ quan sinh dưỡng (rễ, thân, lá) đến cơ quan sinh sản (hoa, quả,
hạt) trong mối quan hệ với chức năng của chúng và với môi trường; những
kiến thức về vai trò của cây xanh đối với đời sống con người; đặc biệt là

8
những kiến thức về các cơ chế, quá trình như: Sự lớn lên và phân chia tế bào, sự
hút nước và muối khoáng ở rễ, sự vận chuyển nước và muối khóang trong thân,
quang hợp, hô hấp, sự thụ tinh kết quả và tạo hạt, Đây là những kiến thức trừu
tượng. Những kiến thức này đã gây khó khăn cho quá trình dạy và học của GV
và HS, nhất là đối với đặc điểm tâm lí nhận thức của lứa tuổi HS lớp 6. Đặc biệt
hơn nữa là các kiến thức về các cơ chế, quá trình đó lại phải được rút ra từ việc
quan sát các thí nghiệm. Trong đó, có nhiều thí nghiệm là những thí nghiệm
trường diễn, không thể tiến hành trên lớp, lại rất khó có kết quả như mong muốn.
Do đó, cần sưu tầm và xây dựng các PTDH ở dạng kỹ thuật số như: hình ảnh tĩnh

và động, âm thanh, phim, video,… tạo thuận lợi cho GV tổ chức những hoạt
động tìm tòi và phát hiện kiến thức cho HS. [2] [3] [15]
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: "Xây dựng và sử
dụng phƣơng tiện dạy học kỹ thuật số để dạy học sinh học lớp 6, trung
học cơ sở”
2. Mục đích nghiên cứu
Sưu tầm, tuyển chọn, xử lí sư phạm và kĩ thuật các hình ảnh tĩnh, ảnh
động, phim video… (gọi chung là các PTDH ở dạng kỹ thuật số) phù hợp với
nội dung dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học SH 6
3. Đối tƣợng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Hệ thống phương tiện dạy học kỹ thuật số để dạy
học sinh học 6 ở trường THCS.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học sinh học 6 ở trường THCS.
4. Giả thuyết khoa học
Xây dựng được hệ thống phương tiện dạy học kỹ thuật số phù hợp với
nội dung SH 6 và xác định được phương pháp sử dụng hợp lý sẽ góp phần
nâng cao chất lượng dạy học môn học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.

9
 Nghiên cứu thực trạng dạy học SH ở trường THCS.
 Xác định hệ thống nguyên tắc sư phạm chỉ đạo quá trình xây dựng các
phương tiện dạy học kỹ thuất số.
 Xác định các quy trình sưu tầm và xây dựng các phương tiện dạy học kỹ
thuật số.
 Xác định tổ hợp phương pháp sử dụng phương tiện dạy học kỹ thuật số
theo hướng tích cực.
 Thiết kế kịch bản một số giáo án thực nghiệm để chỉ định việc nhập liệu
thông tin vào phần mềm công cụ (Powerpoint) hình thành BGĐT.

 Thực nghiệm sư phạm
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
 Phương pháp điều tra cơ bản.
 Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
 Phương pháp thống kê toán học.
7. Những kết quả nghiên cứu và đóng góp mới của đề tài
 Hệ thống hóa cơ sở lí luận của đề tài về bản chất, vai trò và giá trị dạy học
của phương tiện dạy học nói chung và vận dụng vào xây dựng và sử dụng
phương tiện dạy học kỹ thuật số trong dạy học SH 6.
 Xác định hệ thống nguyên tắc sư phạm chỉ đạo quá trình xây dựng phương
tiện dạy học kỹ thuật số.
 Xác định các quy trình sưu tầm và xây dựng các phương tiện dạy học kỹ
thuật số phù hợp với nội dung chương trình SH 6.
 Xác định tổ hợp phương pháp sử dụng phương tiện dạy học kỹ thuật số để
tổ chức các hoạt động nhận thức tích cực cho học sinh trong quá trình dạy học.
 Thiết kế 3 KBGA mẫu cho TNSP để chỉ định việc nhập liệu thông tin vào
phần mềm công cụ ( Powerpoint) hình thành BGĐT.

10
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Xây dựng phương tiện dạy học kỹ thật số sinh học lớp 6
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


11
CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm có liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm phương tiện dạy học [1]
Phương tiện dạy học là các phương tiện được sử dụng trong qua trình dạy
học, bao gồm các đồ dùng dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dùng trong dạy
học, các thiết bị hỗ trợ và các điều kiện cơ sở vật chất khác.
Theo Lotsklinbo: “PTDH là tất cả các phương tiện vật chất cần thiết
giúp GV hay HS tổ chức và tiến hành hợp lý, có hiệu quả quá trình giáo dục
và giáo dưỡng ở các cấp học, ở các lĩnh vực, các môn học để có thể thực hiện
được những yêu cầu của chương trình giảng dạy, để làm dễ dàng cho sự
truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo”.
PTDH là các phương tiện được sử dụng trong QTDH, bao gồm các đồ
dùng dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dùng trong dạy học, các thiết bị hỗ
trợ và các điều kiện cơ sở vật chất khác.
Để đạt được mục đích trong quá trình dạy học, việc vận dụng các
phương pháp dạy học không thể tách rời việc sử dụng các phương tiện dạy
học, trong đó có các PTTQ. Phương tiện trực quan thuộc phạm trù phương
pháp, vì ngoài nó ra phương pháp còn bao gồm theo nghĩa hẹp là cách thức
hành động cụ thể, thủ pháp cụ thể trong dạy học và hình thức tổ chức dạy học.
Do đó, khi nói đến phương pháp dạy học là nói đến PTTQ và cách thức sử
dụng nó trong tất cả các khâu của quá trình dạy học.
1.1.1.2. Khái niệm phương tiện trực quan [1]
PTTQ là khái niệm phụ thuộc khái niệm phương tiện dạy học. PTTQ
được hiểu là một hệ thống bao gồm mọi dụng cụ, đồ dùng, thiết bị kỹ thuật từ
đơn giản đến phức tạp dùng trong quá trình dạy - học với tư cách là mô hình
đại diện cho hiện thực khách quan về sự vật hiện tượng, làm cơ sở và tạo điều

12
kiện thuận lợi cho việc lĩnh hội kiến thức, kỹ năng kỹ xảo về đối tượng đó cho

học sinh.
PTTQ là nguồn chứa đựng thông tin tri thức hết sức phong phú và sinh
động, giúp học sinh lĩnh hội tri thức đầy đủ và chính xác, đồng thời giúp củng
cố, khắc sâu, mở rộng, nâng cao và hoàn thiện tri thức. Qua đó rèn luyện
những kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy tìm tòi sáng tạo, năng lực quan sát,
phân tích tổng hợp, hình thành và phát triển động cơ học tập tích cực, làm
quen với PP nghiên cứu khoa học. Từ đó có khả năng vận dụng những tri thức
đã học vào thực tiễn, giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
PTTQ là một công cụ trợ giúp đắc lực cho giáo viên trong quá trình tổ
chức hoạt động dạy học ở tất cả các khâu của quá trình dạy học.Nó không thể
thiếu được trong quá trình vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học cụ
thể, giúp GV trình bày bài giảng một cách tinh giảm nhưng đầy đủ, sâu sắc và
sinh động, điều khiển quá trình nhận thức của học sinh hiệu quả sáng tạo.
1.1.1.3. Khái niệm đa phương tiện (Multimedia) [23]
Đa phương tiện là một thuật ngữ gắn với CNTT, có thể hiểu “đa phương
tiện là việc sử dụng nhiều phương tiện khác nhau để truyền thông tin ở các
dạng như văn bản, đồ hoạ, hình ảnh (bao gồm cả hình tĩnh, hình động) và âm
thanh, cùng với siêu liên kết giữa chúng với mục đích giới thiệu thông tin đến
người nghe”.
1.1.1.4. Phân loại PTTQ [6]
Việc phân loại PTTQ hiện nay vẫn còn là một vấn đề phức tạp có nhiều ý
kiến khác nhau. Nếu dựa vào cấu tạo PTTQ có thể chia thành hai nhóm:
 Các PTTQ truyền thống.
 Các phương tiện nghe, nhìn.
Theo Tô Xuân Giáp có thể phân loại PTTQ như sau:
 Các tài liệu trực quan là các vật thật trong tự nhiên, kĩ thuật, đời sống
(các mẫu vật, các bộ sưu tập, các sản phẩm lao động ).

13
 Các phương tiện phản ánh đẳng cấu các đối tượng và hiện tượng của thế

giới hiện thực ( mô hình, maket, vật gỗ, tranh ảnh ).
 Các phương tiện để tái tạo các hiện tượng tự nhiên hoặc các sản phẩm
lao động ( các dụng cụ thí nghiệm, hoá chất, máy móc )
 Các phương tiện mô tả đối tượng và hiện tượng bằng lời nói, bằng kí
hiệu, bằng ngôn ngữ tự nhiên và nhân tạo ( sách giáo khoa, sách hướng
dẫn, tài liệu tham khảo ).
 Các phương tiện kĩ thuật để truyền tải thông tin. ( máy chiếu, băng hình,
computer ).
Trong dạy học sinh học, có thể phân loại các PTTQ như sau:
1- Các vật tự nhiên: mẫu sống, mẫu ngâm, mẫu nhồi, tiêu bản khô, tiêu
bản hiển vi v.v Các mẫu vật thật là nguồn cung cấp những hình tượng cụ thể,
chính xác và gần gũi với học sinh về hình dạng, kích thước, màu sắc và cấu
tạo ngoài. Song việc nghiên cứu cấu tạo trong, các cơ quan bộ phận nhỏ lại
gặp khó khăn trong việc quan sát và phân biệt.
2- Các vật tượng hình: mô hình, tranh vẽ, ảnh, phim, phim đèn chiếu,
phim video, phần mềm dạy học, sơ đồ, biểu đồ:
- Mô hình: là những vật thay thế cho đối tượng nghiên cứu duới dạng các
biểu tượng trực quan được vật chất hoá hoặc mô tả các cấu trúc, những
hiện tượng, quá trình Mô hình còn cho phép mô tả sự vật, hiện tượng
trong không gian ba chiều, có thể tĩnh hoặc động làm cho quá trình nhận
thức được đầy đủ trực quan hơn.
- Tranh, ảnh: Mô tả các sự vật, hiện tượng, cấu trúc, quá trình ở trạng thái
tĩnh, có thể được chụp trực tiếp hoặc mô phỏng lại qua sơ đồ hình vẽ.
- Băng, đĩa hình: Miêu tả sự vật, hiện tượng ở trạng thái động, diễn cảm
chính xác và sống động.
- Bản trong: là các hình ảnh, sơ đồ về cấu trúc, quá trình được ghi lên
một bản trong, sau đó được chiếu lên màn hình qua máy chiếu Overhead.

14
- PMDH: có khả năng cung cấp thông tin dưới nhiều dạng khác nhau nhờ

tích hợp được truyền thông đa phương tiện, như chứa được cả hình ảnh,
âm thanh, phim vidio có hiệu quả trực quan cao nhất.
Các vật tượng hình giúp tạo điều kiện cho học sinh hình thành những
biểu tượng về sự vật, hiện tượng mà trong điều kiện bình thường khó quan sát
được.
3- Các bộ dụng cụ thí nghiệm, thực hành
1.1.1.5. Vai trò của PTTQ [4] [6]
PTTQ có vai trò quan trọng trong quá trình dạy - học, nó thay thế cho
những sự vật hiện tượng và các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà GV và HS
không thể tiếp cận trực tiếp được, nó giúp cho GV phát huy được tất cả các
giác quan của HS trong quá trình tiếp thu kiến thức, giúp cho HS nhận biết
được quan hệ giữa các hiện tượng, các khái niệm, quy luật làm cơ sở cho việc
rút ra những tri thức và sự vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế. Như
vậy, nguồn tri thức HS thu nhận được trở nên đáng tin cậy và được nhớ lâu
bền hơn.
PTTQ làm cho việc giảng dạy trở nên cụ thể, dễ dàng hơn, làm tăng thêm
khả năng tiếp thu những sự vật hiện tượng và các quá trình phức tạp mà trong
điều kiện bình thường HS khó nắm bắt được. Nhờ đó nó rút ngắn thời gian
giảng dạy, đồng thời việc lĩnh hội những kiến thức của HS lại diễn ra nhanh
hơn. Mặt khác, nó cũng giúp cho GV giảm nhẹ được lao động của mình trên
lớp, do đó làm tăng thêm khả năng nâng cao chất lượng dạy học. PTTQ còn là
phương tiện vật chất dễ dàng gây được sự chú ý và chiếm được tình cảm của
HS hơn cả. Bằng việc sử dụng PTTQ, GV có thể kiểm tra một cách khách quan
khả năng tiếp thu tri thức mới cũng như hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo của HS.
Ngày nay, sự truyền đạt thông tin tri thức cho người học không phải chỉ
có mỗi hình thức dựa vào sự trình bày hay hướng dẫn của GV (dạy học có
GV) mà còn có hình thức dạy học không phụ thuộc vào sự trình bày của GV

15
đó là hình thức dạy học từ xa hay dạy học chương trình hoá (Angolit hoá) và

tự học thông qua sử dụng PMDH - (dạy học không có thầy giáo). Tuy nhiên, ở
những giai đoạn nhất định vẫn cần có sự tham gia của GV, mặc dù khác nhau
ở hình thức tổ chức nhưng ở cả 2 kiểu dạy học này PTTQ đều có những tác
động đặc biệt quan trọng đến kết quả cuối cùng của quá trình dạy học.
Vai trò của PTTQ là hỗ trợ cho GV trên lớp, các PTTQ được thiết kế để
có thể nâng cao và thúc đẩy việc học tập, lĩnh hội tri thức của HS và hỗ trợ đắc
lực cho thầy giáo. Nhưng hiệu quả của chúng lại phụ thuộc nhiều vào khả
năng sư phạm của thầy giáo. PTTQ cũng được sử dụng có hiệu quả trong
trường hợp dạy học không có GV, đó là những sản phẩm nghiên cứu ứng dụng
CNTT là những PMDH thông minh. Nó có thể giúp cho HS tự học ở mọi nơi,
mọi lúc; giúp cho HS tin tưởng vào khả năng nhận thức của mình trong quá
trình học tập. Trong trường hợp này, nhiệm vụ dạy - học ta có thể hoàn toàn
giao cho PMDH. Tuy vậy, không có nghĩa là công nghệ dạy học ngày càng
phát triển sẽ có thể thay thế hoàn toàn công việc của thầy giáo. Các PMDH
này có thể giúp cho GV trở thành những người tổ chức hoạt động nhận thức,
điều hành việc học tập của HS một cách sáng tạo hơn.
Đối với trẻ em khuyết tật, thì PTTQ lại càng chiếm vị trí quan trọng, ví
dụ trẻ em chậm phát triển trí tuệ cần có các khoá học được cấu trúc cao hơn
tuỳ khả năng tiếp thu và tổ hợp các thông tin vào bộ nhớ có nhiều hạn chế.
Chúng cần được cung cấp các thông điệp thuộc phạm vi của bài học được lặp
đi lặp lại nhiều lần để chúng có thể phát triển các vấn đề đã được học. Còn các
HS nghe kém và nhìn kém cần nhiều tư liệu học tập khác nhau. Phải tăng
cường các phương tiện nghe cho các em nhìn kém hơn bình thường. PTTQ có
vai trò cực kỳ quan trọng đối với trẻ em khuyết tật, nó không những giúp cho
các em học hỏi được thêm nhiều tri thức mà còn giúp các em hoà nhập được
với cộng đồng không bị mặc cảm.

16
Trong những năm gần đây, trên thế giới đã có những công trình khoa học
xem xét quá trình dạy học dưới góc độ định lượng bằng cách sử dụng các công

cụ toán học hiện đại. Việc này có tác dụng nâng cao hiệu quả của hệ dạy học
cổ truyền, đồng thời mở ra những hệ dạy học mới đang ở giai đoạn thí điểm
như dạy học chương trình hoá, dạy học giải quyết vấn đề Xu hướng hiện đại
này tăng cường việc khách quan hoá, cá thể hoá (nâng cao tính tích cực tự lực
và vừa sức ) hệ dạy học và tăng cường mối quan hệ nghịch ( kiểm tra và tự
kiểm tra ) của hệ dạy - học nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Theo thuyết
thông báo, quá trình dạy học là một hệ thông báo, trong hệ này có liên hệ từ
thầy đến trò và ngược lại. Nghĩa là bao gồm sự truyền đạt thông tin (của thầy)
và sự lĩnh hội thông tin (của trò), giữa thầy và trò có những liên hệ thông tin
tức là kênh truyền tải thông tin. Các kênh thông báo gồm: kênh thị giác, kênh
khứu giác, kênh thính giác, kênh xúc giác Lượng thông báo truyền đi trong
một đơn vị thời gian gọi là năng lực chuyển tải. Năng lực chuyển tải ở các
kênh khác nhau thì khác nhau. Như vậy có nhiều đường liên hệ để chuyển tải
thông báo cho nên nhiệm vụ của dạy học là làm sao cho chất lượng chuyển tải
cao nhất, nghĩa là tìm ra con đường liên hệ tốt nhất.
Năng lực chuyển tải của một số kênh như sau:
o Kênh thị giác : 1,6. 106 bit/s
o Kênh thính giác: 0,32. 106 bit/s
o Kênh xúc giác : 0,16. 10
6
bit/s
Như vậy, kênh thị giác là kênh nhanh nhất, rộng nhất và xa nhất. Chứng
tỏ kênh này có hiệu quả cao nhất trong quá trình thông báo. Đó là một bằng
chứng của vai trò trực quan trong dạy học.
Ngày nay, với những thành tựu của khoa học và công nghệ thì PTTQ
càng được phát triển cùng với sự ra đời của các phương tiện nghe nhìn hiện
đại như điện ảnh, vô tuyến truyền hình, computer Những thành tựu đó đã
cho phép đưa vào những nội dung diễn cảm và hứng thú làm thay đổi phương

17

pháp và hình thức tổ chức dạy - học, tăng nhịp độ của quá trình dạy - học, tạo
nên phong cách mới và trạng thái tâm lý mới. Nhưng dù PTTQ có hiện đại đến
đâu vẫn chỉ là công cụ trong tay người GV, giúp họ thực hiện có hiệu quả quá
trình dạy - học. Trong dạy - học, GV cần tính đến mối quan hệ giữa PTTQ
trong mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố cấu trúc khác của quá trình dạy -
học theo sơ đồ sau:


Hình 1.1: Sơ đồ mối quan hệ giữa PTTQ trong mối quan hệ chặt chẽ với
các yếu tố cấu trúc khác của quá trình dạy học
Mỗi môn học đều cần có các PTTQ phù hợp, đặc biệt là trong thế kỉ 21
này với sự bùng nổ của thông tin thì PTTQ lại càng có vai trò quan trọng hơn.
Đối với sinh học - là khoa học nghiên cứu thế giới sinh vật, nếu chỉ giải thích
bằng lời và với sự hiểu biết của mình thì chưa đủ sức để thuyết phục. Vì vậy,
cần phải có những PTTQ để giúp HS quan sát, phát hiện lại những sự kiện,
hiện tượng tự nhiên xảy ra trong thế giới sinh vật.
QTDH chỉ có ngôn ngữ và chữ viết thì người học sẽ thấy nội dung bài
học khô khan, buồn tẻ và nhàm chán. Điều đó ắt sẽ dẫn đến kết quả dạy và học
sẽ không cao.

18
Tích hợp đa phương tiện trong dạy học sẽ đem lại một kết quả là cùng
một nội dung, người học được tiếp nhận cùng một lúc các dạng thông tin từ
nhiều kênh khác nhau, tác động đồng thời vào các giác quan của người học
làm cho quá trình lĩnh hội kiến thức của người học trở nên nhanh và hiệu quả.
Thật vậy, kỹ thuật siêu liên kết (hyperlink) của CNTT đã giúp kết nối
mau lẹ nhiều cơ sở dữ liệu gồm mọi loại văn bản, đồ hoạ, âm thanh trở thành
nguồn PTDH đa năng và phong phú, và tăng tốc độ tương tác giữa người sử
dụng và nguồn tư liệu. Khi ngồi trước một máy tính có nối mạng là bạn được
ngồi trước một kho dữ liệu vô tận, bao gồm các cơ sở dữ liệu ghi trên máy tính

và các đĩa CD, DVD kèm theo, và vô vàn các trang Web liên quan trên toàn
thế giới, mà mọi cơ sở dữ liệu đó được kết nối rất nhanh chóng khi tìm kiếm
bằng công cụ siêu liên kết. Rõ ràng nếu hiểu “đa phương tiện’’ theo cách như
trên chúng ta mới thấy hết quy mô và sức mạnh diệu kỳ của nó.
1.1.2. Cơ sở lý luận của phương tiện dạy học trong lý luận dạy học [21]
Trực quan trong dạy học là một nguyên tắc lý luận dạy học ra đời sớm
nhất. Từ cổ xưa, người ta đã sử dụng nó trong quá trình truyền đạt những kinh
nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, ở những chỗ mà lời giảng không đủ để đảm bảo cho
trẻ em hiểu thấu được đối tượng.
Theo J.A.Cômenxki (1592-1679) nhà giáo dục nổi tiếng Slovakia được
xem là người đầu tiên nêu lên luận đề cơ bản về giảng dạy trực quan. Theo
ông, không có gì hết trong trí não nếu như trước đây không có gì trong cảm
giác. Vì vậy, dạy học bắt đầu không thể từ sự giải thích về các sự vật mà phải
từ sự quan sát trực tiếp chúng. Trực quan được xem là một phương tiện phản
ánh khách quan, trung thực vào đối tượng và các quá trình của thế giới hiện
thực, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với việc phát triển tư duy trừu tượng của
HS. Những PTTQ sử dụng trong giảng dạy là nguồn cơ sở đầu tiên của nhận
thức, những phương tiện đó đồng thời góp phần vào việc phát triển óc quan
sát, tư duy và ngôn ngữ của HS. Ông cho rằng, nếu chúng ta muốn dạy cho HS

19
biết các sự vật một cách vững chắc, đúng đắn, nói chung cần phải dạy qua
quan sát và qua chứng minh bằng cảm tính Theo ông, càng dựa trên cảm
giác bao nhiêu thì kiến thức càng chính xác bấy nhiêu. Từ đó, ông rút ra
nguyên tắc "Lời nói không bao giờ được đi trước sự vật". Thực ra, điều đó
không chính xác và cũng là hạn chế lớn nhất của ông. Ở đây, ông muốn đề cao
tầm quan trọng của các PTTQ trong dạy học. Trên thực tế, J.A Cômenxki
cũng rất đề cao công việc của trí óc (tư duy) và khẳng định rằng, những cảm
giác bên ngoài được tập trung vào lý trí. Có thể thấy rằng, đóng góp lớn nhất
của J.A.Cômenxki là ở chỗ đã tổng kết và phát triển kinh nghiệm đã tích luỹ

được về trực quan và đưa áp dụng nó một cách có ý thức vào quá trình dạy học.
Là người đầu tiên thiết lập nguyên tắc dạy học trực quan, một nguyên tắc cho đến
ngày nay vẫn được sử dụng rộng rãi và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy
học. Tuy nhiên, hạn chế của ông ở chỗ không phân biệt ranh giới rõ ràng giữa
cảm giác và tư duy trong nguyên tắc trực quan.
Cùng với quan niệm trên, Môngtenhơ (1533-1592), nhà Giáo dục Pháp
được coi là một trong những ông tổ sư phạm ở Châu Âu. Ông chủ trương
giảng dạy bằng hoạt động, bằng sự quan sát trực tiếp, bằng sự tiếp xúc với sự
vật trong đời sống hàng ngày.
Sự phát triển của nguyên tắc dạy học trực quan được gắn liền với tên tuổi
của G.Pestalossi (1746-1827) nhà Giáo dục học Thụy Sĩ. Cũng như J.A.
Cômenxki, G.Pestalossi xuất phát từ chỗ quan sát là cơ sở của mọi tri thức,
nhưng sự quan sát của G.Pestalossi nêu ra xuất phát từ cơ sở Tâm lý học. Trực
quan ở G.Pestalossi được xem là điểm tựa để biến những biểu tượng chưa rõ
ràng thành những biểu tượng rõ ràng, chính xác. Công lao to lớn của
G.Pestalossi là ở chỗ trong việc phát triển nguyên tắc trực quan, ông hướng tới
việc gắn liền tri giác cảm tính với sự phát triển của tư duy.
Sau G.Pestalossi, V.G.Belinxki (1811-1848) nhà Giáo dục Liên bang Nga là
người đã có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển lý thuyết trực quan trong

20
dạy - học. Cũng như G.Pestalossi, tư tưởng trực quan của V.G.Belinxki gắn liền
với tư tưởng dạy học phát triển. Dựa trên các quan điểm duy vật, V.G. Belinxki
xem các giác quan và bộ não như là hai lực lượng cần thiết cho nhau. Theo ông,
nhà sư phạm trong dạy học cần phải dựa trên những biểu tượng của trẻ em đã thu
nhận được trong quá trình quan sát thế giới hiện thực.
Nguyên tắc dạy - học trực quan sau này được K.Đ.Usinxki (1824-1870)
và các học trò của ông tiếp tục phát triển dựa trên cơ sở những thành tựu của
Tâm lý học và Sinh lý học. K.Đ.Usinxki đã cho cách giải thích mới trong dạy
học trực quan. Có thể nói đến K.Đ.Usinxki, nguyên tắc trực quan trong dạy

học đã được nâng lên một trình độ mới cao hơn. Đóng góp của ông là ở chỗ,
khi phân tích nguyên tắc trực quan về mặt Tâm lý học, K.Đ.Usinxki đã đặc
biệt nhấn mạnh đến tính chất phiến diện không đầy đủ trong cách hiểu trực
quan trong dạy học chỉ là cái gắn liền với tri giác. Nếu trước đây, ở
J.A.Cômenxki cảm giác không được phân biệt với tư duy thì K.Đ.Usinxki cho
rằng, trực quan là cái ban đầu và là nguồn gốc của mọi tri thức, cảm giác cung
cấp tài liệu cho hoạt động trí tuệ. Theo ông, tính trực quan có ý nghĩa to lớn về
mặt sư phạm là vì: Trực quan làm cho quá trình lĩnh hội tri thức của HS trở
nên dễ dàng hơn, tự giác hơn, có ý thức và vững chắc hơn; trực quan tạo ra
hứng thú học tập ở HS, kích thích tính tích cực và tính tự lập trong hoạt động
học tập của HS; trực quan làm giảm nhẹ lao động sư phạm của GV; và dạy
học trực quan còn là phương tiện tốt nhất nhằm giúp GV gần gũi với học sinh.
K.Đ.Usinxki cho rằng, không có cái gì có thể giúp anh nhanh chóng san bằng
bức tường ngăn cách giữa người lớn và trẻ em, đặc biệt là giữa GV và HS như
là việc đưa cho HS xem bức tranh nào đó và giải thích cho chúng. Nếu GV
bước vào lớp học và cảm thấy khó bắt chuyện được với lớp thì GV hãy đưa ra
cho HS xem những bức tranh và lớp học sẽ trở nên cởi mở, thoải mái. Trực
quan còn là phương tiện quan trọng để phát triển tư duy của HS. Có thể nói,
đây là những đóng góp quan trọng của ông. Tuy vậy, K.Đ.Usinxki cũng có

21
những hạn chế nhất định ở chỗ: Ông phủ nhận bản chất của quá trình nhận
thức. Cái trực quan được ông sử dụng chỉ là để nhận thức các hiện tượng chứ
không phải nhận thức bản chất. Theo ông, bản chất của các đối tượng trong
thế giới vật chất, chúng ta không thể hiểu hết được, chúng ta chỉ quan sát được
những hiện tượng và tất cả những biểu hiện đều ở trạng trái luôn vận động.
Bàn về cơ sở Tâm lý học của vấn đề trực quan trong dạy học, A.N
Leonchep cho rằng, khi đưa tài liệu trực quan vào dạy học tất yếu phải tính
đến ít nhất hai cơ sở Tâm lý học, đó là: Tài liệu trực quan phải thực hiện vai
trò cụ thể gì trong lĩnh hội tri thức, và nội dung chủ đề của tài liệu trực quan

phục vụ cho đối tượng nhận thức nằm trong mối quan hệ nào? Với ý nghĩa
đó, A.N.Leonchep chia các tài liệu trực quan thành hai loại: Những tài liệu
trực quan dùng để mở rộng kinh nghiệm cảm tính, và những tài liệu trực
quan dùng để khám phá ra bản chất của hiện tượng nghiên cứu, giải thích các
định luật, dẫn dắt HS đến những khái niệm khoa học. Trong trường hợp này,
bản thân tài liệu trực quan không phải chỉ là một phương tiện lĩnh hội tri thức
trừu tượng nào đó.
Trong quá trình dạy - học, nhiều tác giả cho rằng cần thiết có sự kết hợp
giữa việc trình bày PTTQ với lời nói của GV. Qua nghiên cứu bản chất của sự
phối hợp L.V.Dancốp đã đưa ra bốn hình thức phối hợp:
1. HS tự lực rút ra tri thức từ đối tượng trực quan, lời nói của GV không
phải là nguồn tri thức mới.
2. Lời nói của GV giúp HS hiểu được những mối quan hệ trong các hiện
tượng mà HS nhận thấy trong quá trình quan sát.
3. HS thu nhận tri thức mới qua lời nói của GV, trực quan có vai trò cụ thể
hóa hoặc để khẳng định tri thức mới.
4. GV thông báo những mối quan hệ giữa các hiện tượng rút ra kết luận
theo sự quan sát của HS.

22
Các hình thức phối hợp này được sử dụng trong những trường hợp khác
nhau phụ thuộc vào những nhiệm vụ dạy học cụ thể.
Có thể nhận thấy, cho đến những năm 60, vấn đề trực quan vẫn được hiểu
theo cách truyền thống. Trực quan trong dạy học là một nguyên tắc lý luận dạy
- học mà theo nguyên tắc này thì dạy - học phải dựa trên những hình ảnh cụ
thể được HS trực tiếp tri giác. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, những tri thức lý thuyết ngày càng được đưa nhiều hơn vào chương
trình học tập. Mặc dù vậy, trực quan trong dạy học vẫn là một vấn đề đặc biệt
quan trọng trong việc nâng cao kết quả nhận thức của HS và chất lượng dạy
học ở nhà trường. Xét về bản chất, nhận thức dù ở mức độ nào cũng là sự phản

ánh hiện thực khách quan vào ý thức con người. Trong đó cảm giác là bậc thứ
nhất trong quá trình nhận thức thế giới, là cơ sở của mọi sự hiểu biết. Tất
nhiên sự hình thành các hình ảnh trực quan cảm tính không diễn ra một cách
độc lập tuyệt đối mà nó nằm ngay trong mối tác động qua lại với các hình thức
nhận thức lý tính.
Nhiều công trình nghiên cứu của Sapôvalencô, Driga, Presman, Veix,
Top, Tonligareia đã chứng tỏ rằng, PTTQ phải là một trong những điều kiện
chủ yếu tạo nên chất lượng giảng dạy và học tập ở nhà trường. Nó cũng đã,
đang và sẽ mở ra những triển vọng và khả năng trong việc khắc phục những
mâu thuẫn to lớn giữa sự phát triển nhảy vọt của khối lượng tri thức cần cung
cấp cho HS và thời gian học tập trong nhà trường có hạn ở giai đoạn cách
mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như ngày nay. Tất nhiên,
cũng cần nhấn mạnh rằng, không phải tất cả các công cụ lao động của người
GV và HS đều chỉ tập trung ở PTTQ, nhưng rõ ràng PTTQ là yếu tố cấu thành
chủ yếu, và là công cụ lao động trong quá trình dạy - học ở nhà trường.
Bên cạnh việc nghiên cứu vị trí, vai trò của PTTQ, nhiều tác giả đã dành
một vị trí đáng kể trong việc nghiên cứu vấn đề sử dụng các PTTQ trong quá
trình dạy - học. Tôlinghênôva (Slovakia) cho rằng, về nguyên tắc, PTTQ chỉ có

23
thể có các chỉ số và chất lượng thông qua các quá trình sư phạm. Không có quá
trình gia công sư phạm thì dù các PTTQ có được chế tạo tốt bao nhiêu cũng
không thể hiện được bất kỳ một vai trò và chức năng gì. K.G.Nojko cũng khẳng
định rằng, vấn đề không phải chỉ ở chỗ sản xuất và cung cấp cho nhà trường
những đồ dùng dạy học mà chủ yếu là phải làm sao cho đồ dùng dạy học được
các GV sử dụng với hiệu quả cao. Theo X.G.Sapôvalencô: "Chất lượng đồ dùng
dạy học phải gắn chặt với chất lượng sử dụng nó của thầy giáo để nó có thể đạt
hiệu quả giảng dạy và giáo dục cao". "Đồ dùng dạy học, các phương tiện kỹ thuật
chỉ là phương tiện hỗ trợ nằm trong tay người thầy giáo".
PTTQ cần thiết phải được sử dụng bởi người GV, đó là một luận điểm đã

được khẳng định. PTTQ là những phương tiện chứa đựng và chuyển tải thông
tin nhằm đáp ứng các yêu cầu nhận thức, phát triển, giáo dục của quá trình sư
phạm; nhưng bản thân nó có giá trị dạy học cao hay thấp hoàn toàn phụ thuộc
vào trình độ sư phạm trong quá trình nghiên cứu xây dựng và sử dụng của
người GV. Nếu trong giờ học, PTTQ được sử dụng không hợp lý thì sẽ dẫn
đến những hậu quả xấu về mặt sư phạm và kinh tế. Chúng có thể phá vỡ cấu
trúc bài giảng, phân tán sự chú ý của HS, lãng phí thời gian và tiền của. Vì
vậy, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu là việc nghiên cứu xây dựng
và sử dụng các PTTQ phải gắn liền với việc hướng dẫn sử dụng có hiệu quả
cho đội ngũ GV. Đây cũng chính là một vấn đề còn ít được quan tâm đầy đủ,
và là một khâu yếu nhất trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Trong lý luận dạy học, quá trình dạy học là một quá trình truyền thông tin
bao gồm sự lựa chọn sắp xếp và truyền đạt thông tin trong một môi trường sư
phạm thích hợp, tối ưu cho người học. Trong bất kỳ tình huống dạy - học nào
cũng có một thông điệp truyền đi, thông điệp đó thường là nội dung của chủ
đề được dạy, cũng có thể là các câu hỏi về nội dung cho người học, và các
phản hồi từ người học, kể cả sự kiểm soát quá trình này về sự nhận xét đánh
giá các câu trả lời hay các thông tin khác. PTTQ chính là các cầu nối truyền
thông tin từ người thầy tới HS và ngược lại theo sơ đồ sau:

×