Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương tại ngân hàng ngoại thương Hà Nộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 104 trang )



1

DANH MỤC VIẾT TẮT
AFTA ASEAN Free Trade Area
APEC Asia Pacific Economic Cooperation
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
EU Europe Union
L/C Letter of Credit
NAFTA North American Free Trade Agreement
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHNT Ngân hàng Ngoại thương
NHTM Ngân hàng Thương mại
TMQT Thương mại Quốc tế
XNK Xuất nhập khẩu




















2

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG
MẠI
1.1.1. Quá trình phát triển của ngân hàng thƣơng mại và sự ra đời của
hoạt động bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh hiện nay phát triển mạnh mẽ, bao trùm lên mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn
mở rộng ra cả phạm vi quốc tế.
Hoạt động bảo lãnh rất phong phú và đa dạng như bảo lãnh của một tổ
chức quốc tế với một nước, bảo lãnh của nhà nước đối với doanh nghiệp
Xét riêng trong lĩnh vực ngân hàng, bảo lãnh là một nghiệp vụ được
hiểu là cam kết của ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên
được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và
đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên nhận bảo lãnh đã được quy định tại
chứng thư bảo lãnh của ngân hàng.
Bảo lãnh là cần thiết khi hai bên chưa tín nhiệm nhau. Uy tín và lời hứa
của bên này chưa có đủ độ tin cậy đối với bên kia. Sự xuất hiện của một bên
thứ ba có đủ độ tin cậy đối với cả hai bên đứng ra thực hiện bảo lãnh sẽ đưa
họ đến một điểm chung thống nhất.
Hiện nay việc sử dụng bảo lãnh ngân hàng phát triển rất mạnh mẽ và
doanh số của nó đạt đến mức kỷ lục. Sự tăng trưởng này một phần là vì bảo
lãnh ngân hàng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho tất cả các dịch vụ, bao gồm

cả các dịch vụ không mang tính tài chính như hợp đồng thương mại, hợp


3

đồng xây dựng và những dịch vụ mang tính tài chính như thoả ước thấu chi,
thoả ước tham gia liên doanh, tái bảo hiểm và những cam kết tài chính khác.
Tuy nhiên, trong thực tiễn thực hành kinh doanh quốc tế, vấn đề thuật
ngữ “bảo lãnh ngân hàng” vẫn còn bỏ ngỏ. Những từ như “bond”,
“guarantee”, “suretyship” và cả “undertaking” được dùng lẫn cho nhau với
nghĩa bảo lãnh ngân hàng và cho đến nay vẫn chưa có một thoả ước thống
nhất quốc tế nào khẳng định đâu là thuật ngữ chuẩn. Điều này cho thấy tính
chất lỏng lẻo trong việc sử dụng thuật ngữ để khẳng định bản chất một cam
kết bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động ngoại thương.
Bảo lãnh nói chung và cơ bản được NHTM phát hành, do vậy người ta
thường gọi “bảo lãnh’’ là “Bank guarantee”. Tuy nhiên, luật và tập quán của
từng nước có những khác biệt.
Theo bộ luật dân sự Việt Nam, bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên
bảo lãnh) cam kết với người có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh hay người
hưởng thụ) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được
bảo lãnh) nếu khi hết thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa
vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thoả thuận về việc
người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng nhận bảo lãnh với bên
yêu cầu bảo lãnh về việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà bên xin bảo lãnh cam
kết. Ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm thực hiện thay những cam kết mà bên xin
bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Bảo lãnh ngân hàng thường cho các mục đích vay vốn trong và ngoài
nước dưới hình thức tín dụng tài chính (vay vốn bằng tiền) hoặc tín dụng
thương mại (vay vốn bằng hàng hoá hoặc mua chịu trả chậm, ký cược để

tham gia đấu thầu, đấu giá hoặc thực hiện hợp đồng hay bảo lãnh trả lại tiền


4

đặt cọc…). Như vậy bảo lãnh ngân hàng là bảo lãnh với mục đích kinh tế cho
các chủ thể tham gia bảo lãnh. Tất nhiên không phải bất cứ ngân hàng nào
cũng có quyền tham gia bảo lãnh mà chỉ những ngân hàng được luật pháp cho
phép và có đủ uy tín và tiềm lực tài chính.
1.1.2. Mục đích và chức năng của bảo lãnh
1.1.2.1. Mục đích của bảo lãnh
Mục đích của hoạt động bảo lãnh nói chung là:
Ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phát sinh trong các quan hệ kinh tế với các
chủ thể trong nền kinh tế. Trong thương mại quốc tế, rủi ro có thể phát sinh
bất kỳ lúc nào trong các hoạt động kinh doanh cho nên người ta phải hạn chế
khả năng xảy ra rủi ro. Do chưa biết rõ nhau, nhà xuất khẩu yêu cầu nhà nhập
khẩu phải được tổ chức có uy tín, thường là ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh
toán, còn nhà nhập khẩu cũng yêu cầu nhà xuất khẩu được ngân hàng bảo
lãnh giao hàng hay thực hiện hợp đồng.
Bên cạnh đó, việc thực hiện bảo lãnh còn nhằm mục đích đền bù những
thiệt hại về phương diện tài chính cho người được bảo lãnh khi nó xảy ra thiệt
hại. Thông thường trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ đã cam kết thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán bảo
lãnh. Lúc này ngân hàng sử dụng số tiền bảo lãnh để bù đắp những thiệt hại
về phương diện tài chính cho người thụ hưởng.
1.1.2.2. Các chức năng của bảo lãnh
Thứ nhất: Bảo lãnh ngân hàng mang chức năng pháp lý.
Người bán, người nhận thầu thông qua thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng
bảo lãnh đấu thầu hoặc thông qua thư bảo lãnh tín dụng… do ngân hàng mình
mở thừa nhận nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của mình.



5

Thứ hai: Bảo lãnh ngân hàng mang chức năng thúc đẩy.
Người bán có nghĩa vụ giao hàng, người mua có nghĩa vụ thanh toán
theo quy định của hợp đồng. Ngân hàng chỉ đứng ra bảo lãnh việc thực hiện
nghĩa vụ của doanh nghiệp. Còn việc thực hiện như thế nào là doanh nghiệp
phải lo lấy. Điều này buộc doanh nghiệp phải tính toán sao cho hiệu quả có
được trong kinh doanh là cao nhất. Việc thực hiện nghĩa vụ này ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi người xin bảo lãnh. Vì vậy bảo lãnh có tác dụng thúc
đẩy doanh nghiệp thực hiện hợp đồng.
Thứ ba: Bảo lãnh ngân hàng có thể sử dụng như một công cụ tài trợ
cho các ngành kinh tế mũi nhọn và ngành kinh tế kém phát triển.
Thông qua bảo lãnh mua chịu hàng hoá, doanh nghiệp có được máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu… đảm bảo kịp thời cho sản xuất. Bản thân chính sách
bảo lãnh của ngân hàng có thể khuyến khích thúc đẩy các ngành kinh tế mũi
nhọn bằng cách tăng cường ưu tiên bảo lãnh hoặc giảm phí bảo lãnh. Nhờ bảo
lãnh, doanh nghiệp có thể có đầy đủ uy tín trong đàm phán vay vốn, dự thầu
với nước ngoài, giúp doanh nghiệp yên tâm trong quá trình thực hiện hợp
đồng.
Thứ tư: Bảo lãnh mang tính chất đền bù.
Trong trường hợp hợp đồng không thực hiện được hoặc thực hiện không
đầy đủ, người mua, người bán, người cho vay…sẽ nhận được một khoản tiền
bồi thường do thiệt hại phát sinh từ việc hợp đồng không được thực hiện.
1.1.3. Điều kiện cần thiết để thực hiện bảo lãnh của các NHTM
Để xử lý tốt các vấn đề thường gặp trong giao dịch và quá trình bảo
lãnh, các ngân hàng cần đáp ứng một số điều kiện sau:
Thứ nhất, cần phải có nguồn tài chính vững chắc



6

Đây có thể coi là điều kiện đầu tiên quan trọng nhất để đảm bảo cho
các ngân hàng có khả năng thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh của mình. Bởi
lẽ, nghiệp vụ bảo lãnh cũng giống như rất nhiều các nghiệp vụ khác của Ngân
hàng không tránh khỏi những rủi ro trong thanh toán, các Ngân hàng phải
luôn sẵn có những khoản dự phòng trong trường hợp người được bảo lãnh
không có khả năng thanh toán. Hơn thế, một nguyên nhân nữa không kém
phần quan trọng đó là chỉ có những ngân hàng có tiềm lực tài chính vững
chắc, dồi dào mới có đủ khả năng và uy tín để đứng ra bảo lãnh, đặc biệt là
trong giao thương quốc tế.
Thứ hai, các bộ phận kinh doanh của ngân hàng giàu kinh nghiệm
và linh hoạt.
Nếu không xây dựng được một đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và cơ
sở vật chất đầy đủ tiện ích, ngân hàng sẽ chỉ đóng vai trò trung gian chuyển
tiếp cho một ngân hàng khác quy mô lớn hơn để xử lý. Và điều này khiến cho
khách hàng hao tốn nhiều thời gian hơn trong khâu thanh toán bù trừ, tốn kém
hơn trong chi phí xử lý giao dịch, và còn có thể làm sai lệnh thông tin hoặc
phát sinh những vấn đề vướng mắc.
Các cấp quản lý của ngân hàng phải có năng lực thật sự, hiểu biết cặn
kẽ về công việc và quy trình tác nghiệp, nắm vững luật lệ, tập quán thương
mại trong nước và quốc tế, môi trường kinh doanh, về đặc điểm khách hàng
hiện có và khách hàng tiềm năng Từ đó họ mới có khả năng ra quyết định
hợp lý và đúng đắn, tối ưu nhất.
Thứ ba, quan hệ ngân hàng đại lý rộng lớn, vững chắc
Ngoài việc được cơ quan có thẩm quyền (Ngân hàng Trung ương) cho
phép cung cấp dịch vụ ngân hàng quốc tế, quy mô kinh doanh của ngân hàng
tối thiểu cũng phải đạt mức đủ để tạo uy tín kinh doanh trong lĩnh vực ngân



7

hàng, tạo điều kiện xác lập các mối quan hệ ngân hàng đại lý rộng khắp và
bền chặt.
Thứ tư, bảo đảm mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ giữa ngân hàng với
các cơ quan tổ chức cung ứng dịch vụ như các tổ chức bảo hiểm và bảo lãnh
tín dụng xuất khẩu, quỹ hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu, cục xúc tiến thương
mại Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể tận dụng những ích lợi từ những dịch
vụ của các tổ chức này cung cấp nghiệp vụ, đồng thời có biện pháp xác lập
cấu trúc dịch vụ ngân hàng cung ứng phù hợp.
1.1.4. Các bên tham gia trong hoạt động bảo lãnh
Từ khái niệm trên chúng ta thấy việc tham gia bảo lãnh phải có ít nhất
ba chủ thể kinh tế trở lên:
- Người hưởng bảo lãnh (người thứ nhất)
- Người yêu cầu bảo lãnh (người thứ hai)
- Người nhận bảo lãnh (người thứ ba)
Mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh:
Thứ nhất: Bảo lãnh được phát hàng theo yêu cầu của người hưởng
nhằm bảo đảm quyền lợi của họ trong hợp đồng thương mại. Cụ thể người
bán hay người mua đều có thể là người hưởng lợi.
Thứ hai: Ngân hàng đứng ra bảo lãnh tức là cam kết trách nhiệm của
mình sẽ bồi thường thiệt hại cho người hưởng trong trường hợp người được
hưởng bảo lãnh không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng thương mại.
Thứ ba: Về hình thức: Bảo lãnh ngân hàng thường là thư bảo lãnh, một
chữ ký chấp nhận hối phiếu, một L/C mở nhập hàng trả chậm … thực chất là
cam kết đảm bảo trả tiền cho người hưởng.
Về nội dung: Đó là hình thức đảm bảo nợ của ngân hàng. Việc bảo lãnh
đảm bảo cho quyền lợi người hưởng một cách chắc chắn, bên cạnh đó thúc



8

đẩy người xin bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của mình. Do bảo lãnh là đảm bảo
đối nhân (dùng uy tín bảo lãnh) nên bảo lãnh rất thích hợp với hai đối tác ở
cách xa nhau trong thương mại quốc tế. Ngân hàng bảo lãnh không phải bỏ ra
một khoản vốn nào mà chỉ dùng uy tín của mình là có thể thu lệ phí cho mình.
Đó chính là điều mà ngân hàng bảo lãnh chịu chia sẻ rủi ro với người hưởng.
Trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là trách nhiệm về tài chính. Đây là
trách nhiệm không huỷ ngang và trả tiền ngay khi các điều khoản trong thư
bảo lãnh được tuân thủ.
Ngân hàng không có chức năng làm trọng tài phán xử các khiếu nại hoàn
thiện hợp đồng hoặc đền bù vỡ nợ. Bản thân thư bảo lãnh đã quy định ngân
hàng có trách nhiệm thực hiện ngay các yêu cầu của người hưởng trước khi
làm rõ những bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nếu sau này ngân
hàng tìm được bằng chứng về sự gian lận của người được hưởng thì ngân
hàng có quyền đòi là tiền bảo lãnh từ người hưởng, việc này tách biệt hẳn với
việc ngân hàng bảo lãnh cho người xin bảo lãnh.
Sơ đồ bảo lãnh:


1.2. HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TRONG NGOẠI THƢƠNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI
1.2.1. Tính tất yếu của việc phát triển hoạt động bảo lãnh trong các
NHTM ở Việt Nam
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Người hưởng bảo
lãnh
Người yêu cầu bảo
lãnh

Người nhận bảo
lãnh


9

Kể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kế trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là thương mại quốc tế
(TMQT). Tốc độ xuất khẩu trong suốt thập kỷ qua gia tăng mạnh mẽ từ mức
2042 triệu USD năm 1991 lên tới 14308 triệu USD năm 2000. Nguồn thu từ
xuất khẩu trong những năm qua đã góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho
nhập khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính-tiền tệ Châu Á từ
cuối năm 1997, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng chững
lại do đây là thị trường chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Tăng
trưởng xuất khẩu năm 1998 chỉ là 0.91% so với 27.69% năm 1997.
Tình trạng này một phần do mức cầu về hàng hóa của Việt Nam giảm
sút đáng kể, bên cạnh đó khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt
Nam cũng là mối quan tâm hàng đầu. Theo số liệu mới đây của cuộc điều tra
về hiện trạng phát triển kinh doanh và khu vực tư nhân của Viện nghiên cứu
và quản lý kinh tế trung ương thì có tới 86/336 (chiếm 24.2%) doanh nghiệp
Việt Nam đang có hoạt động xuất khẩu thì cho rằng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp mình kém và rất kém, chỉ có 32/336 (chiếm 9.5%) doanh
nghiệp cho rằng mình có đủ khả năng cạnh tranh, số còn lại cho rằng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình ở mức trung bình và không thể xác
định được mức độ về khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh kém và rất
kém chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp
nhẹ. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh có vẻ kém dường như bộc lộ ở
những ngành cần nhiều vốn và đòi hỏi công nghệ cao.
Trong khi lộ trình tiến tới hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang tới

gần thì danh tiếng, uy tín cũng như quy mô của doanh nghiệp Việt Nam vẫn
còn rất nhỏ bé. Mặc dù trong lĩnh vực xuất nhập khẩu số lượng các doanh


10

nghiệp tham gia tăng lên nhanh chóng nhưng năng lực và hiệu quả của các
doanh nghiệp còn khá hạn chế. Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp nhập
khẩu của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2000 chỉ
có 38% số doanh nghiệp được điều tra có số vốn đăng ký trên 1000 USD,
31% có số vốn đăng ký từ 50 nghìn đến 100 nghìn USD và 31% có số vốn
đăng ký dưới 50 nghìn USD. Cũng theo số liệu điều tra này, chỉ có 7% doanh
nghiệp đạt kim ngạch trên 1 triệu USD, 13% doanh nghiệp đạt kim ngạch từ
500 nghìn đến 1 triệu USD, 51% doanh nghiệp đạt kim ngạch từ 100-500
nghìn USD, còn lại là dưới 100 nghìn USD trong năm 1999.
Để tối ưu hóa hoạt động xuất nhập khẩu và sử dụng triệt để tiềm năng
kinh tế trong nước, thương mại Việt nam cần phải được tập trung hỗ trợ, làm
tốt các giai đoạn xúc tiến xuất khẩu ở cấp vĩ mô và cấp doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp cần được khuyến khích đổi mới cơ cấu mặt hàng
và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm
trong khu vực.
Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của khu vực thương mại Việt
Nam là củng cố thị trường cũ, mở rộng thị trường mới và nâng cao vị thế của
sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để làm được việc này, bên cạnh
những chính sách về xuất nhập khẩu, Việt Nam cần có một cơ chế bảo lãnh
xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều
kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập dần dần với hệ thống thương
mại toàn cầu.
Điều này khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng trong
việc thúc đẩy và mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu thông qua việc đáp ứng

nhu cầu tín dụng cũng như vấn đề uy tín cho các doanh nghiệp. Và trong hệ


11

thống các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cho các doanh nghiệp, hoạt động
bảo lãnh là một trong những hoạt động tối ưu cả về uy tín cả về nhu cầu vốn.
Mặt khác, các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, luật pháp quy
định các quan hệ giao dịch tài chính-tiền tệ phải được bên thứ ba là định chế
tài chính hoặc ngân hàng bảo lãnh. Do vậy khi các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia quan hệ thương mại với các đối tác nước ngoài đòi hỏi phải có một
tổ chức đầy đủ tư cách pháp lý đứng ra bảo lãnh theo yêu cầu của họ. Từ các
yêu cầu trên có thể thấy rằng cần thiết phải phát triển hoạt động này tại Việt
Nam.
Về mặt lý thuyết như đã trình bày ở trên, hoạt động bảo lãnh có thể
được thực hiện bởi một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Nhưng thực tế đây
chỉ là chức năng bổ sung của các doanh nghiệp này, hơn nữa các tổ chức này
ở Việt Nam hoạt động kinh doanh còn đơn điệu, mới chỉ tập trung vào một số
nghiệp vụ truyền thống như kinh doanh bảo hiểm (đối với công ty bảo hiểm),
cho thuê tài chính (đối với công ty tài chính)…Vì vậy, có thể nói ở Việt Nam,
chỉ có hệ thống các ngân hàng thương mại mới có đầy đủ các năng lực tài
chính, uy tín và chuyên môn để thực hiện hoạt động bảo lãnh cho các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu. Mặt khác, hệ thống các ngân hàng thương mại luôn
luôn có khả năng cung cấp một hệ thống các sản phẩm-dịch vụ tạo điều kiện
thuận lợi cho các quan hệ xuất nhập khẩu diễn ra một cách thuận lợi như dịch
vụ thanh toán, chiết khấu….
Trong những năm gần đây, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
đã thực hiện được sứ mệnh của mình là hệ thống các sản phẩm, dịch vụ và hệ
thống các giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ đã hỗ trợ đắc lực cho các doanh
nghiệp Việt Nam xâm nhập vào thị trường quốc tế và từng bước khẳng định

được thương hiệu Việt Nam với thế giới.


12

Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu từ phía bản thân các ngân hàng thương
mại
Hệ thống các ngân hàng ở Việt Nam đang đổi mới theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh
tế, hiệu quả hoạt động chưa cao. Hiện nay 80% doanh thu của các NHTM
Việt Nam đều từ hoạt động tín dụng, các nghiệp vụ các rất ít ỏi và đơn điệu
nên chưa thực sự là NHTM của nền kinh tế thị trường.
Tỷ trọng thu nhập từ các dịch vụ và các nghiệp vụ khác trong tổng thu
nhập còn quá nhỏ so với tiềm năng và lợi thế của các NHTM như số liệu của
một số ngân hàng được coi là hàng đầu của Việt Nam dưới đây:
Bảng 1.1. Tỷ trọng thu nhập dịch vụ bảo lãnh trên tổng doanh thu
Năm
Tỷ trọng thu dịch vụ/Tổng doanh thu (%)
NHCT
NHNT
NH á Châu
1999
5.4
12.6
14.1
2000
4.1
13.1
15.3
2001

6.2
14.6
16.1
2002
5.7
15.8
17.3
2003
6.6
16.8
18.4
2004
6.8
17.2
19.3
Tỷ trọng trung bình
5.8
15.1
16.8
Nguồn: Ngân hàng công thương, VCB, Ngân hàng Á Châu
Trong khi đó nước ta tín dụng ngân hàng hoạt động trong một môi
trường kinh tế và pháp luật chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, hiệu lực pháp chế
thấp, thiên tai thường xảy ra nên độ rủi ro cao, làm giảm sút kết quả kinh


13

doanh của các NHTM Việt Nam. Chính vì vậy, các NHTM Việt Nam cần
phải tiếp tục đổi mới hoạt động, tìm ra những giải pháp hữu hiệu phục vụ
khách hàng tốt hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính mình. Một

trong những hướng đi đó là phải đa dạng hóa các hoạt động. Do đa dạng hóa
các hoạt động giúp các ngân hàng phân tán rủi ro, làm tăng lợi nhuận, thúc
đẩy các hoạt động cùng phát triển và đặc biệt làm tăng khả năng cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường.
Mặt khác, theo một số nghiên cứu gần đây của nhiều nhà kinh tế cho
thấy, hoạt động ngoài bảng cân đối đã thực sự giúp các ngân hàng hạn chế
những biến động trong thu nhập ròng. Đồng thời cùng với việc ngân hàng sử
dụng các công cụ ngoại bảng, sự biến động trong mức chênh lệch giữa thu từ
lãi và chi phí trả lãi trong những năm gần đây cũng không còn quá lớn.
Do vậy, hoạt động bảo lãnh là một trong những hoạt động chiếm ưu thế
do có chi phí tương đối thấp và tính đòn bẩy cao.
Bên cạnh đó, khi các NHTM thực hiện hoạt động bảo lãnh có nghĩa là
ngân hàng đang uy tín và danh tiếng của mình để đảm bảo cho các doanh
nghiệp của Việt Nam trong mối quan hệ với bạn hàng quốc tế. Như vậy, ngân
hàng vừa có thế giúp các khách hàng của mình hoàn tất được thương vụ với
đối tác vừa có thể quảng bá hình ảnh của mình khắp thế giới một cách vô
cùng hiệu quả hơn bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào khác.Trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế khi các cam kết của Việt Nam với các tổ
chức cá nhân quốc gia được thực hiện, các NHTM Việt Nam sẽ có một sân
chơi bình đẳng với các NHTM nước ngoài cả về uy tín và danh tiếng khi thực
hiện hoạt động bảo lãnh cũng như các hoạt động khác là một nguồn lực có giá
trị lớn lao,tạo lên sức cạnh tranh của các ngân hàng.
Có thể nói cùng với quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, hoạt động
bảo lãnh trong ngoại thương của các NHTM giữ một vị thế nhất định trong


14

danh mục sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cung cấp cho các khách hàng, đòi
hỏi các NHTM Việt Nam phải có kế hoạch cụ thể để phát triển nghiệp vụ này

tương xứng với vai trò của nó.
Thứ ba, sự phát triển của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc
gia trên phạm vi toàn thế giới. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan
hệ kinh tế-xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản
xuất hàng hóa riêng biệt của các quốc gia.
Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng để thông qua đó các nước
có thể tham gia vào phân công lao động quốc tế. Khoa học kỹ thuật càng phát
triển, phạm vi chuyên môn hóa càng tăng, sản phẩm và dịch vụ phục vụ con
người ngày càng dồi dào thì sự phát triển của thương mại quốc tế là một tất
yếu. Trong thời đại ngày nay, thương mại quốc tế ngày càng có điều kiện phát
triển khi mà quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới đã trở thành quy luật phát
triển của nền kinh tế toàn cầu.
Sự bùng nổ kinh tế thế giới trong những năm qua bắt nguồn từ sự gia
tăng buôn bán giữa hơn 160 nước. Sự buôn bán này đang biến kinh tế thế giới
từ những mảng thị trường riêng lẻ thành một thị trường, một nền kinh tế
thống nhất. Do sự buôn bán vượt khỏi biên giới quốc gia ra bên ngoài vướng
phải ngay vấn đề thanh toán giá trị hàng hóa đã trao đổi. Đó là tiền đề ra đời
các nghiệp vụ của ngân hàng quốc tế trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh.
Mặt khác, một trong những đặc điểm nổi bật nhất hiện nay là môi
trường kinh doanh có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp
xuất khẩu hàng hoá không chỉ phải đối mặt với các nhà cung ứng trong nước
mà còn phải tìm mọi cách để chiến thắng các đối thủ ở nước ngoài nhằm
giành được thị phần trong thương mại quốc tế. Trong khi đó, người mua càng


15

ngày càng yêu cầu khắt khe hơn về chất lượng, mẫu mã, giá cả và rất nhiều
các điều kiện khác. Do vậy, một nhà xuất khẩu muốn chiến thắng thì phải

luôn đưa ra được những lời chào hàng hấp dẫn nhất, với nhiều điều kiện ưu
đãi nhất. Và một trong những yếu tố quan trọng có tính quyết định là những
ưu đãi về thời hạn thanh toán. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào nhà
xuất khẩu cũng có đủ vốn để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Mặt khác, khi
bán hàng bao giờ họ cũng muốn thu hồi vốn nhanh để tiếp tục quay vòng, bởi
trong kinh doanh, nếu bị đọng vốn nhiều thì đồng nghĩa với việc kinh doanh
không có hiệu quả. Đối lập với mong muốn của nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu
không phải bao giờ cũng có sẵn tiền mà cơ hội kinh doanh thì không thể bỏ
qua. Do vậy, họ rất cần có một nguồn ngoại lực trợ giúp, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ, chưa tạo được uy tín và danh tiếng trong thương mại quốc tế.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu luôn tiềm ẩn rất
nhiều nguy cơ dẫn đến rủi ro và thất bại. Bởi ngoài các khó khăn thông
thường giống như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nội địa, các doanh
nghiệp XNK còn phải đương đầu với rất nhiều nguy cơ khác, xuất phát từ các
yếu tố đặc thù trong ngoại thương như: thời gian thực hiện hợp đồng và
khoảng cách địa lý; đồng tiền thanh toán và biến động tỷ giá; sự khác biệt về
ngôn ngữ, luật pháp, tập quán kinh doanh và các quy định điều tiết giữa các
chính phủ….người ta đã sử dụng các công cụ kiểm soát như tín dụng chứng
từ (Documentary Credits), bảo lãnh hối phiếu (aval) hay chấp nhận của Ngân
hàng (Bank’s acceptance). Tuy nhiên, những công cụ trên được sử dụng đơn
thuần là để đảm bảo cho rủi ro của việc không thanh toán. Để đối phó với các
rủi ro do việc không thực hiện hợp đồng đã xuất hiện công cụ tín dụng thư dự
phòng (Stand by letter of credit) và bảo lãnh độc lập (Independent Guarantee)
được phát hành bởi các Tổ chức tài chính có uy tín như các Ngân hàng, tổ
chức tín dụng


16

Mặc dù có rất nhiều khó khăn, nhưng hoạt động xuất nhập khẩu luôn

luôn là lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển của bất cứ quốc gia
nào và nó cũng luôn giành được sự quan tâm từ nhiều phía, đặc biệt là từ phía
các doanh nghiệp. Vì trong khi thị trường nội địa đã bão hoà và mang tính
cạnh tranh rất cao thì thị trường quốc tế lại hết sức rộng lớn, với nhiều cơ hội
kinh doanh hứa hẹn một tỷ suất lợi nhuận cao. Do vậy, bất cứ một doanh
nghiệp nào cũng luôn mong muốn tìm kiếm cơ hội và mở rộng kinh doanh ở
những thị trường mới khắp thế giới ấy. Xuất phát từ thực tiễn khách quan đó,
hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương đã ra đời và ngày càng khẳng định
được vị thế quan trọng trong việc thúc đẩy TMQT.
Hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng được sử dụng để hỗ trợ sự phát
triển kinh tế toàn cầu và tạo ra đòn bẩy để phát triển nội lực và ngoại lực. Có
thể chắc chắn rằng các thương vụ lớn với nước ngoài hiện nay không thể nào
không có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm. Bảo lãnh của ngân hàng thực
sự đã trở thành công cụ thông dụng nhất nhằm đảm bảo thực thi nghĩa vụ, đặc
biệt là nghĩa vụ tài chính trong các giao dịch ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới.
Hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương của các NHTM chính là việc
đáp ứng những nhu cầu đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh của
các doanh nghiệp xuất khẩu và nhập khẩu trong quá trình giao dịch ngoại
thương
Như vậy, quá trình giao dịch ngoại thương được hiểu là toàn bộ diễn
biến của một thương vụ xuất khẩu (đối với bên bán) và nhập khẩu (đối với
bên mua). Theo nghĩa hẹp, quá trình này bắt đầu từ lúc tìm kiếm đối tác, thiết
kế sản phẩm, chào hàng - đặt hàng, ký kết hợp đồng cho đến khi giao hàng và
hoàn thành hợp đồng. Đặc điểm này đã chi phối thời hạn của hoạt động bảo


17

lãnh của các ngân hàng, đòi hỏi nó trở nên rất đa dạng, có thể đáp ứng mọi

nhu cầu của các doanh nghiệp. Đối tượng trong một giao dịch bảo lãnh thông
thường là hàng hóa, dịch vụ hoặc các công trình dự án.
Mục đích bảo lãnh của các ngân hàng là nhằm giúp các doanh nghiệp
vượt qua các trở ngại đặc thù về tài chính và uy tín trong kinh doanh để có thể
nâng cao kết quả hoạt động, tăng sức cạnh tranh, hoàn thành thương vụ, có
ngoại lực để tiếp tục ổn định và phát triển.
Về bản chất, bảo lãnh trong ngoại thương của các NHTM cũng giống
như mọi loại hình tín dụng ngân hàng khác, nghĩa là cũng dựa trên “uy tín” và
“niềm tin”. Thông thường, thuật ngữ “tín dụng ngân hàng” được định nghĩa là
“một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng)
và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định
theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán” [3, 285]. Trong bảo lãnh, thuật
ngữ này còn bao hàm cả dạng thức bảo lãnh, trong đó ngân hàng nhân danh
khách hàng sẽ đứng ra cam kết bảo lãnh uy tín cho khách hàng ấy trước một
bên thứ ba. Uy tín được ngân hàng bảo lãnh có thể là uy tín thanh toán, uy tín
giao hàng, uy tín thực hiện hợp đồng…, tuỳ theo vị thế và yêu cầu của khách
hàng cũng như nội dung thương vụ.
Có thể nói, hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương của các NHTM ra đời
là một tất yếu khách quan, gắn liền với các quan hệ TMQT, phản ánh mối
quan hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu và kinh doanh của ngân hàng. Theo
thời gian, nghiệp vụ này ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng,
phục vụ tích cực và có hiệu quả, trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất
trong toàn bộ các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cả về vai trò lẫn quy mô.


18

1.2.2. Vai trò của hoạt động bảo lãnh trong ngoại thƣơng của các ngân

hàng thƣơng mại
Hoạt động bảo lãnh có vai trò quan trọng gắn liền với sự ra đời và phát
triển của hoạt động thương mại quốc tế. Bên cạnh đó trong quá trình thực
hiện các chức năng của mình, hoạt động bảo lãnh có một vai trò to lớn không
chỉ đối với hoạt động của ngân hàng mà còn cả đối với các doanh nghiệp,
nền kinh tế trong và ngoài nước.
 Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Bảo lãnh cùng với các dịch vụ ngân hàng quốc tế khác, ra đời và phát
triển nhằm đáp ứng nhu cầu rất đa dạng của các doanh nghiệp về phát triển
kinh doanh, chống đỡ rủi ro, nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh
tranh trong lĩnh vực thương mại quôc tế. Qua các hoạt động bảo lãnh, các
ngân hàng cung cấp hệ thống giải pháp phong phú, hữu hiệu, giải quyết phần
lớn những khó khăn về tài chính và uy tín kinh doanh ngoại thương của doanh
nghiệp.
Bên cạnh các hình thức cấp tín dụng trực tiếp như: chiết khấu bộ chứng
từ L/C trả chậm miễn truy đòi hay nhận bao thanh toán những khoản phải thu
của nhà xuất khẩu . . . các ngân hàng còn cấp tín dụng gián tiếp bằng cách
dùng uy tín của mình đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp. Có thể nói, hình
thức bảo lãnh này ngày càng đóng vai trò quan trọng khi tính chất phức tạp
của các hoạt động TMQT ngày càng gia tăng. Nhất là các doanh nghiệp ở các
nước đang phát triển, do mới gia nhập vào thị trường quốc tế, chưa xây dựng
được niềm tin đối với bạn hàng thì việc dựa vào uy tín của ngân hàng là vô
cùng cần thiết.
 Đối với nền kinh tế


19

Lĩnh vực xuất nhập khẩu thường được xem là một lĩnh vực kinh tế then
chốt trong chiến lược phát triển quốc gia. Nguồn thu nhập to lớn từ nước

ngoài thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, việc làm và thu nhập quốc dân gia
tăng nhanh, công nghệ hiện đại phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Để hoạt
động xuất nhập khẩu có thể phát huy được các vai trò trên, nhất thiết phải có
sự tham gia của các NHTM. Hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương và các
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác đóng vai trò là chất xúc tác, giúp cho hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi, góp phần tăng tính năng
động cho nền kinh tế, ổn định thị trường. Hoạt động bảo lãnh trong ngoại
thương không chỉ theo sau mà còn là nhân tố đi trước, mở đường cho hoạt
động xuất nhập khẩu phát triển theo định hướng của Nhà nước.
 Đối với các NHTM
Có thể nói, hoạt động bảo lãnh trong ngoại thương nói riêng và hệ thống
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế nói chung là những hình thức kinh doanh mang
lại hiệu quả cao và khá an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Thông qua các hình thức bảo lãnh trong ngoại thương, các NHTM thu
được lãi và phí. Những khoản thu này về số tuyệt đối thường rất lớn do quy
mô của hoạt động xuất nhập khẩu và số tiền bảo lãnh.
Hoạt động này cũng khá an toàn do các NHTM đều nhận thức được mức
độ phức tạp của TMQT nên trong việc xử lý luôn luôn tỏ ra thận trọng, ví dụ
như: yêu cầu có đảm bảo cho những khoản xin bảo lãnh, căn cứ vào mức độ
và số tiền bảo lãnh Ngoài ra, do các khách hàng xin bảo lãnh đều có tài
khoản tại ngân hàng nên nó có thể quản lý các nguồn thanh toán, tránh được
tình trạng xoay vốn của khách hàng trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ
xảy ra rủi ro.


20

Một lợi ích khác hết sức quan trọng là thông qua bảo lãnh trong ngoại
thương, ngân hàng thiết lập được mối quan hệ với các doanh nghiệp và ngân
hàng nước ngoài, từ đó có thể phát triển được mạng lưới ngân hàng đại lý,

ngân hàng chi nhánh rộng khắp giúp ngân hàng mở rộng thị phần ở thị trường
quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp. Mặt khác, việc đáp ứng nhu
cầu của khách hàng xuất nhập khẩu về tài chính và uy tín trong kinh doanh
khiến cho ngân hàng nâng cao được vị thế cạnh tranh và khả năng phát triển.
1.2.3. Chủ thể của một giao dịch bảo lãnh trong ngoại thƣơng
Một giao dịch bảo lãnh ngân hàng thông thường cũng như trong lĩnh vực
ngoại thương bao gồm 3 chủ thể chính: ngân hàng bảo lãnh, người được bảo
lãnh, và người thụ hưởng bảo lãnh (còn được gọi là người nhận bảo lãnh, và
trong một số trường hợp còn có tên gọi là người yêu cầu bảo lãnh).
Ngân hàng bảo lãnh: là chủ thể đứng ra bảo đảm với người thụ hưởng
rằng người được bảo lãnh sẽ hoàn thành những nghĩa vụ đã thoả thuận trong
hợp đồng. Nếu các nghĩa vụ này không được hoàn thành, ngân hàng bảo lãnh
cam kết sẽ thanh toán đền bù cho người thụ hưởng. Mức đền bù dựa theo thoả
thuận bảo lãnh ngân hàng đã cấp, có thể từ 1% - 100% giá trị hợp đồng.
Ngƣời đƣợc bảo lãnh: là người được ngân hàng cam kết trả thay nếu vi
phạm hợp đồng. Ở đây thường là nhà nhập khẩu. Người được bảo lãnh và
người thụ hưởng bảo lãnh có thể là nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu, tùy
theo nghiệp vụ được bảo lãnh.
Ngƣời thụ hƣởng bảo lãnh: là người được ngân hàng bảo lãnh thanh
toán khi có yêu cầu do người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, thường là nhà
xuất khẩu.


21

Ngoài ra, do người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh ở các
quốc gia khác nhau, nên cũng như phương thức thanh toán tín dụng chứng từ,
nghiệp vụ bảo lãnh còn có sự tham gia của một số ngân hàng:
Ngân hàng thông báo: là ngân hàng của người thụ hưởng, có nhiệm vụ
thông báo bảo lãnh cho người thụ hưởng sau khi đã kiểm tra tính chân thực

của bảo lãnh (chữ ký hữu quyền hay testkey).
Ngân hàng xác nhận: là ngân hàng của nước người người thụ hưởng,
khi mà người thụ hưởng không tin tưởng tiềm lực tài chính của ngân hàng
phát hành thì có thể yêu cầu sự tham gia của một ngân hàng xác nhận.
Ngân hàng thanh toán (Reimbursing bank): đây thực chất cũng là
ngân hàng phát hành bảo lãnh cho người người thụ hưởng nhưng theo chỉ thị
của một ngân hàng trung gian phục vụ người được bảo lãnh dựa trên một bảo
lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không chịu trách
nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà do ngân hàng
chỉ thị.
Trong giao dịch ngoại thương, đối tượng giao dịch bảo lãnh là thương vụ
mua bán giữa các bên xuất khẩu và nhập khẩu. Và quan hệ giữa các bên được
quy định bởi 3 hợp đồng riêng biệt, độc lập với nhau.
Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh,
cụ thể là đơn xin phát hành bảo lãnh. Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và
người thụ hưởng bảo lãnh. Thư bảo lãnh (letter of guarantee) hay còn gọi là
cam kết bảo lãnh, là hợp đồng giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người
thụ hưởng. Bên cạnh hợp đồng giữa các chủ thể chính của hoạt động bảo lãnh,
còn có các hợp đồng giữa ngân hàng phát hành với ngân hàng thông báo,
ngân hàng phát hành với ngân hàng xác nhận hoặc với ngân hàng thanh toán.


22

Như vậy, một hoạt động bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa
ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh, mà còn bao hàm những mối
quan hệ khác nữa
1.2.4. Các loại hình bảo lãnh trong ngoại thƣơng
Có nhiều dạng thức dịch vụ bảo lãnh ngoại thương khác nhau có thể sử
dụng tương thích với tình hình diễn biến cụ thể của từng giao dịch.

1.2.4.1. Xét về mặt thời gian
a. Các nghiệp vụ bảo lãnh ngắn hạn
Đây là loại hình bảo lãnh có thời hạn dưới một năm. Bảo lãnh ngắn hạn
thường được sử dụng nhằm hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp, giúp
họ có điều kiện về tài chính để thanh toán các khoản nhập khẩu nguyên liệu,
vật tư hay để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu. Đây là loại hình bảo lãnh
chiếm tỷ trọng lớn tại các NHTM.
Bảo lãnh XNK trên cơ sở phương thức nhờ thu kèm chứng từ
Khi giao dịch ngoại thương áp dụng phương thức thanh toán nhờ thu,
nhà xuất khẩu giao hàng và uỷ nhiệm ngân hàng của mình thu hộ tiền hàng từ
người mua nước ngoài trên cơ sở chỉ thị nhờ thu. Ngân hàng xử lý nghiệp vụ
nhờ thu chỉ trên cơ sở chứng từ và hoàn toàn độc lập với giao dịch mua bán
hàng hoá giữa nhà xuất khẩu với nhà nhập khẩu.
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, nhà xuất khẩu thường phải chờ
đợi một thời gian đáng kể từ lúc giao hàng cho đến khi được thanh toán,
không những thế, để bán được hàng, nhà xuất khẩu đôi khi phải chấp nhận
việc cho phép người mua trả chậm tiền hàng. Chính vì thế, nhà xuất khẩu có
thể gặp những khó khăn về vốn kinh doanh khi sử dụng phương thức thanh
toán này.


23

Do vậy, để các giao dịch được diễn ra trôi chảy, cần thiết phải có sự
tham gia của các NHTM, đóng vai trò là nhà bảo lãnh. Trong khuôn khổ và
dựa trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ, ngân hàng có
thể thực hiện bảo lãnh bằng các kỹ thuật: ứng trước giá trị nhờ thu, mua hối
phiếu, chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu, và tín dụng chấp phiếu.
Bảo lãnh trên cơ sở phương thức tín dụng chứng từ
Tín dụng chứng từ là một văn bản thoả thuận, trong đó một ngân hàng

(ngân hàng mở tín dụng), theo yêu cầu của một khách hàng (người yêu cầu
mở tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba đó (người hưởng lợi); hoặc sẽ trả,
chấp nhận, mua hối phiếu do người hưởng lợi phát hành; hoặc cho phép một
ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận hay mua hối phiếu đó, khi xuất trình đầy
đủ các chứng từ đã quy định và mọi điều kiện đặt ra trong tín dụng thư đều
được thực hiện đầy đủ [8; 225].
Trong khuôn khổ và dựa trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ, các ngân hàng thực hiện bảo lãnh thông qua các kỹ thuật: phát hành
thư tín dụng, xác nhận thư tín dụng, chiết khấu bộ chứng từ theo thư tín dụng,
tài trợ bằng các loại thư tín dụng đặc biệt, (thư tín dụng giáp lưng, thư tín
dụng chuyển nhượng, thư tín dụng tuần hoàn).
Bảo lãnh trên cơ sở hối phiếu
Hối phiếu là một công cụ thanh toán được sử dụng hết sức phổ biến
trong các giao dịch ngoại thương, và thường xuyên xuất hiện trong các
phương thức thanh toán quốc tế thông dụng hiện nay. Tính đa năng và phổ
biến của hối phiếu khiến cho việc phân loại, định hình các kỹ thuật nghiệp vụ
bảo lãnh dựa theo nó rất khó khăn và chỉ mang tính tương đối. Có ba kỹ thuật
bảo lãnh cơ bản nhất, trực tiếp gắn liền với hối phiếu, đó là: chiết khấu hối


24

phiếu, chấp nhận hối phiếu của ngân hàng và bảo lãnh hối phiếu của ngân
hàng.
Tạm ứng cho nhà xuất khẩu
Với nhà xuất khẩu, ngoài các hình thức bảo lãnh thông qua các phương
thức thanh toán kèm chứng từ như chiết khấu hối phiếu trong phương thức
nhờ thu hay chiết khấu bộ chứng từ trong phương thức tín dụng chứng từ,
ngân hàng cũng có thể bảo lãnh trong khuôn khổ thanh toán trơn (clean
payment). Ngân hàng sẽ cấp cho nhà xuất khẩu khoản tạm ứng căn cứ vào

quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Đối tượng vay có thể là vay hàng đang ở trong kho, vay chuẩn bị hàng
xuất, vay chứng từ hàng đang đi trên đường. Thường các khoản tạm ứng này
có hàng hoá làm vật đảm bảo, tuy nhiên, ngân hàng cũng không tin tưởng
hoàn toàn vào vật đảm bảo này. Mức độ tạm ứng của ngân hàng tuỳ thuộc vào
khả năng thanh toán của khách hàng, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào sự
nhạy cảm về giá cả sản phẩm của hàng hoá. Ngoài ra, ngân hàng còn xét tới
các rủi ro khi cấp tạm ứng, đáng kể là các rủi ro kinh tế, chính trị, rủi ro tỷ giá
hối đoái.
Cho vay thấu chi ( Overdraft)
Cho vay thấu chi là một hình thức bảo lãnh ngân hàng dành cho các nhà
xuất nhập khẩu có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng. Nó cho
phép nhà xuất nhập khẩu có thể tự động rút tiền quá số dư trong tài khoản
vãng lai của anh ta và tự động hoàn trả khi có doanh thu. Đặc điểm của loại
cho vay này là chỉ được rút tiền trong một hạn ngạch nhất định.
Ngân hàng thường áp dụng nghiệp vụ này đối với những khách hàng có
khả năng tài chính lành mạnh và có uy tín. Do tính linh hoạt và tiện lợi, cho


25

vay thấu chi là một trong những hình thức bảo lãnh XNK khá phổ biến ở các
nước tư bản chủ nghĩa.
Bao thanh toán tương đối (factoring)
Bao thanh toán tương đối là hình thức bảo lãnh đặc biệt dành cho nhà
xuất khẩu. Ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính sẽ mua lại các khoản nợ
chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà
nhập khẩu nước ngoài. Bảo lãnh bao thanh toán tương đối quốc tế, với các
tính năng kỹ thuật đặc thù, có thể giúp nhà xuất khẩu vừa nhận được tiền ngay
khi giao hàng, vừa không phải bận tâm về rủi ro thương mại từ phía người

mua, vừa tiết giảm khối lượng công việc ghi chép sổ sách và theo dõi quá
trình thu nợ người mua nước ngoài.
b. Các nghiệp vụ bảo lãnh trung và dài hạn
Khác với bảo lãnh XNK ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp
XNK vốn lưu động, bảo lãnh XNK trung và dài hạn được cung cấp để đầu tư,
mua sắm tài sản cố định, xây dựng mới, mở rộng cơ sở hạ tầng, cải tiến kỹ
thuật, đổi mới công nghệ Thời hạn của loại bảo lãnh này tuỳ theo quy định
của mỗi nước, thường là từ 1-5 năm đối với bảo lãnh trung hạn và 5 năm trở
lên đối với bảo lãnh dài hạn. Ở đây chỉ đề cập đến một số loại hình bảo lãnh
phổ biến.
Cho vay trung và dài hạn
Cho vay là hình thức cổ điển nhất và cũng là hình thức cơ sở cho các
hình thức bảo lãnh khác ra đời và phát triển. Cho vay là việc ngân hàng giao
vốn cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất định, với cho vay trung
và dài hạn, thời gian này lớn hơn một năm. Khách hàng vay vốn phải đảm bảo
thực hiện các nguyên tắc cho vay của ngân hàng, đó là phải sử dụng vốn vay

×