Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Phòng 2006 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
________________________






NGUYỄN THÀNH LONG





ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI HẢI PHÒNG 2006-2010



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI









HÀ NỘI – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
________________________












NGUYỄN THÀNH LONG









ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI HẢI PHÒNG 2006-2010


CHUYÊN NGÀNH: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế

MÃ SỐ: 60 31 07



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN HỮU THẮNG




HÀ NỘI – 2013

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 9
VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 9
1.1. Lý luận chung về đầu tư quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài 9
1.1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước
ngoài 9
1.1.1.1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài 9
1.1.1.2. Bản chất của Đầu tư trực tiếp nước ngoài 10
1.1.1.3. Đặc điểm của Đầu tư trực tiếp nước ngoài 11
1.1.1.4. Xu hướng vận động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay 12
1.1.1.5. Các hình thức cơ bản của FDI 18

1.1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam 21
1.2. Những điều kiện để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 29
1.2.1. Sự ổn định về chính trị – xã hội 29
1.2.2. Môi trường kinh tế 30
1.2.3. Môi trường pháp lý 31
1.2.4. Năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài 32
1.3. Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương 33
1.3.1. Thành phố Hà Nội 33
1.3.2. Thành phố Hồ Chí Minh 35
CHƯƠNG 2 38
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 38
TẠI HẢI PHÒNG GIAI ĐOẠN 2006-2010 38
2.1. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên và kinh tế của Hải Phòng tác động
tới hoạt động thu hút FDI 38
2.2. Tình hình hoạt động thu hút FDI tại Hải Phòng giai đoạn 2006-2010 41
2.2.1. Các dự án đăng ký mới và tăng vốn 41
2.2.2. Hình thức, đối tác và lĩnh vực đầu tư 42
2.2.3. Vốn FDI thực hiện 43
2.2.4. Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn FDI 43
2.2.5. Nhận xét chung 43
2.3. Thực trạng hoạt động FDI tại Hải Phòng thời điểm cuối năm 2010 45
2.3.1. Theo hình thức đầu tư 45
2.3.2. Theo đối tác đầu tư 46
2.3.3. Theo lĩnh vực đầu tư 48
2.3.3.1. Vai trò của các KCN, KCX trong hoạt động thu hút FDI tại Hải Phòng 50
2.3.3.2. Tình hình hoạt động của các KCN, KCX tại Hải Phòng 52
2.3.3.3. Đánh giá chung về quá trình thành lập và phát triển các KCN tại Hải
Phòng 53
2.3.3.4. Thực trạng hoạt động FDI trong lĩnh vực kinh doanh khai thác cảng và

kinh tế biển tại Hải Phòng 54
2.4. Đánh giá thực trạng hoạt động FDI tại Hải Phòng trong thời gian qua 57
2.4.1. Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn FDI 57
2.4.2. Những hạn chế và tồn tại 59
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém 62
CHƯƠNG 3 65
CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI HẢI PHÒNG TRONG THỜI GIAN TỚI 65
3.1. Bối cảnh chung về tình hình kinh tế - xã hội 65
3.2. Căn cứ, mục tiêu và các định hướng phát triển kinh tế - xã hội tại Hải
Phòng đến năm 2020 và tầm nhìn 2050 66
3.2.1. Các căn cứ 66
3.2.2. Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 67
3.2.3. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội 69
3.2.3.1. Định hướng chung 69
3.2.3.2. Định hướng phát triển lĩnh vực kinh tế biển 70
3.2.3.3. Định hướng thu hút vốn FDI của Hải Phòng 73
3.3. Nhóm giải pháp vận động, xúc tiến đầu tư vào Hải phòng 74
3.4. Nhóm giải pháp mới nhằm tăng cường thu hút và quản lý vốn FDI trong
bối cảnh hội nhập 76
3.4.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật 76
3.4.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ sở hạ tầng xã hội 78
3.4.3. Nhóm giải pháp về môi trường pháp lý 79
3.4.4. Nhóm giải pháp đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính 80
3.4.5. Nhóm giải pháp tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường 81
3.4.6. Nhóm giải pháp phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng 81
3.4.7. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực 85
3.4.8. Những giải pháp khác có liên quan tới các doanh nghiệp FDI 86
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89

i

DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
2
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
3
ASEM
Diễn đàn hợp tác Á – Âu
4
BCC
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
5
BRA
Chi nhánh công ty nước ngoài
6
CNH-HĐH
Công ngiệp hóa – hiện đại hóa
7
CNTB
Chủ nghĩa tư bản
8
ĐTNN

Đầu tư nước ngoài
9
EU
Liên minh Châu Âu
10
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
11
FOC
Công ty 100% vốn nước ngoài
12
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
13
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
14
JICA
Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản
15
JVC
Công ty liên doanh
16
KCN, KCX
Khu công nghiệp, Khu chế xuất
17
KHCN
Khoa học công nghệ
18
N/A

(số liệu) chưa hoặc không được tính toán
19
ODA
Viện trợ phát triển chính thức
20
R & D
Nghiên cứu và phát triển
21
TNCs
Các công ty xuyên quốc gia
22
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
23
UBND
Ủy ban nhân dân
24
UNCTAD
Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
25
WTO
Tổ chức thương mại quốc tế





ii

DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
Tên Bảng
Trang
Bảng 1.1
Đóng góp của Khu vực kinh tế có vốn FDI trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội Việt Nam thời kỳ 2006-2010
21
Bảng 1.2
Đóng góp của Khu vực kinh tế có vốn FDI trong ngân sách
nhà nước Việt Nam giai đoạn 2006-2010
22
Bảng 1.3
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo ngành (Lũy
kế các dự án còn hiệu lực tới 22/12/2010)
25
Bảng 1.4
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006-2010
26
Bảng 2.1
Kết quả thu hút FDI tại Hải Phòng giai đoạn 2006-2010
41
Bảng 2.2
Hình thức dự án và đối tác đầu tư FDI vào Hải Phòng giai
đoạn 2006-2010
42
Bảng 2.3
Cơ cấu dự án FDI đăng ký mới theo lĩnh vực đầu tư giai
đoạn 2006-2010
42

Bảng 2.4
Vốn FDI thực hiện giai đoạn 2006-2010
43
Bảng 2.5
Đóng góp của Khu vực kinh tế có vốn FDI giai đoạn 2006-
2010
43
Bảng 2.6
Cơ cấu FDI tại Hải Phòng theo hình thức đầu tư
45
Bảng 2.7
Cơ cấu FDI tại Hải Phòng theo đối tác đầu tư
47
Bảng 2.8
Cơ cấu FDI tại Hải Phòng phân theo Lĩnh vực đầu tư
49
Bảng 2.9
Các KCN, KCX đang hoạt động tại Hải Phòng
52
Bảng 2.10
Các KCN ưu tiên phát triển từ 2010 đến 2015 tại Hải Phòng
53
Bảng 3.1
Chỉ tiêu phát triển đến năm 2020 của Hải Phòng
69









iii

DANH MỤC CÁC BIỂU

Số hiệu
Tên biểu
Trang
Biểu 2.1
Vốn FDI đăng ký mới và vốn bổ sung tăng giai đoạn 2006-
2010
41
Biểu 2.2
Cơ cấu FDI tại Hải Phòng theo một số lĩnh vực chính
50
1

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Cho tới nay, Việt Nam đã chính thức nhìn nhận Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) là một nhân tố quan trọng, có đóng góp lớn đối với quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Vai trò của FDI được thể hiện rất rõ qua sự đóng góp và có
ảnh hưởng sâu rộng tới các yếu tố cơ bản của tăng trưởng như tích lũy và bổ sung
nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân
lực, giải quyết công ăn việc làm,…FDI cũng góp phần quan trọng vào việc tạo
nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới. Nhờ có sự đóng góp tích cực của FDI mà Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng

kinh tế cao trong hơn 20 năm qua, được cộng đồng thế giới nhìn nhận là một quốc
gia phát triển năng động, luôn tích cực đổi mới và thu hút được sự quan tâm ngày
càng nhiều hơn từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Hải Phòng được biết đến như “cửa ngõ” của Miền bắc Việt Nam, là một Cực
tăng trưởng vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nơi có cảng biển lớn nhất Miền bắc,
lớn thứ hai trong cả nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh), đồng thời cũng là một đầu
mối giao thông đường bộ, đường thủy và đường không quan trọng của Khu vực Bắc
Bộ, là một trung tâm công nghiệp, thương mại và du lịch lớn của Việt Nam. Trong
những năm vừa qua, Hải Phòng đã đạt được những thành tựu hết sức ấn tượng trên
lĩnh vực phát triển kinh tế-xã hội: tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2005-2010
trung bình trên 13%/năm; cơ sở hạ tầng từng bước được xây dựng đồng bộ và hiện
đại, môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư và môi trường pháp lý ngày càng
được hoàn thiện.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Phòng cũng thu được nhiều kết
quả khả quan: Tới tháng 12/2010, có 295 dự án FDI còn hiệu lực với tổng số vốn
đăng ký lũy kế đạt 4.381.547.676,28 USD của các nhà đầu tư thuộc 28 quốc gia và
vùng lãnh thổ với sự hiện diện của các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới.
2

Những thành tựu trên là không thể phủ nhận, tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Hải Phòng còn có nhiều vấn đề tồn tại sau đây:
- Các KCN, KCX của Hải Phòng đều được xây dựng và quy hoạch với quy mô
lớn, vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng trong KCN đồng bộ và hiện đại, hơn nữa,
UBND Thành phố và Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố đã có nhiều chính sách ưu
đãi đối với các doanh nghiệp đầu tư và hoạt động kinh doanh trong các KCN. Tuy
nhiên, kết quả hoạt động của nhiều Khu công nghiệp trên địa bàn Hải Phòng thật sự
không tương xứng với tiềm năng và quy mô của chúng:
- Tới tháng 6/2010, sau gần 15 năm kể từ ngày thành lập, KCN Nomura-Hải
Phòng mới cho thuê lấp đầy diện tích kinh doanh. Mặc dù được đánh giá là KCN
quy mô và chất lượng hàng đầu trong cả nước nhưng khả năng phát triển của

Nomura-Hải Phòng còn kém xa so với các KCN cùng được thành lập của các địa
phương khác (ví dụ như KCN Sóng Thần - Bình Dương thành lập năm 1995, hiện
nay tỉnh Bình Dương đã xây dựng KCN Sóng Thần 3 với quy mô lớn hơn và hiện
đại hơn so với Sóng Thần 1 và Sóng Thần 2); KCX Đồ Sơn 96 nay là KCN Đồ Sơn
Hải Phòng cũng chỉ mới lấp đầy 31% diện tích đất, chưa kể từ năm 1997 tới nay, dự
án KCN này vẫn còn một số diện tích chưa giải tỏa xong mặt bằng; KCN Kinh tế
tổng hợp công nghệ cao Đình Vũ đã lấp đầy 97% mặt bằng nhưng hiện tại cơ sở hạ
tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông đã xuống cấp hết sức nghiêm trọng gây cản trở
đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vấn đề môi trường ở
đây cũng cần đề cập tới khi mà các nhà đầu tư rất e ngại với lượng khói bụi do các
nhà máy trong KCN này thải ra. Ngoài ra, các KCN khác tuy được thành lập khá
lâu nhưng tới nay, công tác giải phóng mặt bằng vẫn chưa thực hiện triệt để, việc
xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng vẫn còn trì trệ,…
- Trong những năm gần đây, khi các địa phương khác như Bình Dương, Hải
Dương, Đà Nẵng,… đã thực hiện việc chọn lọc và cấp phép cho các dự án lớn, công
nghệ cao, thân thiện với môi trường,…tức là chuyển sang thu hút và phát triển hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều sâu, tính hiệu quả kinh tế - xã hội, khả
năng chuyển giao công nghệ được đưa lên hàng đầu thì các KCN của Hải Phòng
3

vẫn còn đang quanh quẩn với bài toán “lấp đầy” diện tích đất cho thuê. Chính việc
đầu tư dàn trải theo diện rộng đã dẫn tới kết quả là có rất nhiều các dự án đầu tư với
quy mô nhỏ, thời hạn hoạt động ngắn và nặng về hình thức “chế-xuất” (chế biến rồi
xuất khẩu), chỉ sử dụng nguồn lực nhân công tại chỗ, nhập khẩu nguyên vật liệu đầu
vào và đóng góp không nhiều cho thị trường trong nước. Hơn nữa, các dự án này
không đem lại giá trị về khoa học và chuyển giao công nghệ - điều mà chúng ta
đang rất cần.
- Mặc dù UBND thành phố đã có các chính sách ưu đãi đặc biệt cho khu vực
“trong hàng rào” các KCN nhưng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký
cấp phép ngoài KCN luôn chiếm tỷ trọng cao hơn khoảng 2 lần so với các dự án

bên trong. Ngoại trừ các dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ, du lịch và
khách sạn, các dự án sản xuất công nghiệp với các nhà máy sản xuất nằm rải rác
trên địa bàn Hải Phòng đã và đang để lại nhiều hậu quả cho việc bảo vệ môi trường,
ảnh hưởng tới đời sống nhân dân, gây nhiều khó khăn trong quản lý kinh tế và pháp
luật.
Hơn nữa, với 126 km bờ biển, trên 4.000 km
2
diện tích mặt biển nội hải, 7 quận,
huyện tiếp giáp với biển (trong đó có 2 huyện đảo là Cát Hải và Bạch Long Vỹ),
Hải Phòng có tiềm năng rất lớn trong phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, một số
ngành kinh tế biển quan trọng như đóng tàu, khai thác khoáng sản, khai thác và chế
biến thủy sản, dịch vụ cảng và vận tải biển, du lịch biển chưa có những sản phẩm
cạnh tranh quốc tế, công nghiệp còn lạc hậu, đặc biệt những ngành có lợi thế cạnh
tranh trong tương lai như: thăm dò, khai thác tài nguyên đáy biển, dầu khí, điện sức
gió, năng lượng mặt trời chưa được đầu tư nghiên cứu thỏa đáng; khả năng thu hút
vốn FDI đầu tư vào các lĩnh vực này còn yếu, các dự án đang hoạt động rất ít, chưa
hiệu quả, sức cạnh tranh không cao, đóng góp vào kinh tế địa phương còn thấp,
chưa xứng với tiềm năng phát triển.
Qua các phân tích trên, có thể nhận thấy Hải Phòng chưa thực sự là một điểm
đến hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài so với tiềm năng vốn có. Những thành tựu
mà Hải Phòng đã đạt được trong hoạt động thu hút, quản lý vốn và các dự án FDI
4

tuy có khả quan nhưng vẫn rất khiêm tốn. Thành công cũng có, nhưng vẫn còn
nhiều vấn đề bất cập tồn tại trong thu hút và quản lý FDI tại Hải Phòng thời gian
vừa qua.
Chính vì vậy, việc tổng kết, đánh giá và xem xét lại thực trạng các hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Phòng là rất cần thiết. Từ đó có thể rút ra các
bài học kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp mới nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tốt hơn, quản lý và sử dụng các nguồn vốn này có hiệu quả hơn để thực

hiện tốt các mục tiêu kinh tế-xã hội của thành phố.
Đáp ứng yêu cầu cấp thiết này, việc nghiên cứu đề tài “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Hải Phòng 2006-2010” mang một ý nghĩa thiết thực. Kết quả nghiên cứu
sẽ góp phần giúp các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương và trung ương xem
xét, áp dụng nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
2. Tình hình nghiên cứu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là vấn đề được rất nhiều các học giả quan tâm và
nghiên cứu. Quản lý và sử dụng nguồn vốn FDI sao cho có hiệu quả cao nhất luôn
là thách thức đối với các chính phủ, các nhà xây dựng chính sách. Đã có rất nhiều
các công trình nghiên cứu về vấn đề này trong thời gian qua, điển hình là một số
công trình gần đây:
 Công trình nghiên cứu: “Nhìn lại vai trò của Đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong bối cảnh phát triển mới ở Việt Nam”,2008, Nxb ĐHQGHN ; và “Điều chỉnh
chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế”, 2010, Nxb ĐHQGHN, tác giả Phùng Xuân Nhạ đã phân tích sâu sắc về
vai trò của khu vực kinh tế có vốn FDI và cơ hội, thách thức, các giải pháp phát
triển mạnh hoạt động FDI ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập mới.
 Trong tác phẩm “Về chính sách thu hút đầu tư ở Việt Nam”, 2007, Nxb
CTQG, Nguyễn Thị Minh Châu đã nghiên cứu và phân tích khá toàn diện về khía
cạnh chính sách trong việc thu hút nguồn vốn FDI vào Việt Nam, đồng thời, tác giả
cũng đã đưa ra các đề xuất, phương hướng điều chỉnh chính sách tới năm 2015.
5

 Các công trình nghiên cứu chuyên môn của một số tác giả khác như “Khu
vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam” – Nguyễn Bích Đạt, Nxb CTQG, 2006; “Tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” – Lê Xuân Bá,
Nxb KHKT, 2006; “Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài” – Trần Văn Nam, Nxb KHKT, 2005, đã tổng hợp và phân tích khá

sâu sắc các vấn đề liên quan tới hoạt động FDI.
 Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu đáng chú ý khác như: Luận văn
thạc sỹ (LVThs) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ gia nhập
WTO” – Phạm Tuyên, TT đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, 2010;
LVThs “Chính sách thu hút FDI ở Việt Nam” – Đặng Thị Kim Chung, ĐHKT-
ĐHQGHN, 2009; LVThs “ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam” – Cao Thị Lê, ĐHKT-ĐHQGHN, 2008;
“Quản lý nhà nước đối với khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam”-Đinh Thị Thoan, ĐHKT-ĐHQGHN, 2008; “Mặt trái của đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam” – Nguyễn Thị Thoa, ĐHKT-ĐHQGHN, 2008; “Thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập” – Nguyễn
Quang Vinh, ĐHKT-ĐHQGHN, 2007; “Rào cản trong hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam” – Phạm Huy Thắng, ĐHKT-ĐHQGHN, 2007; “Một số
giải pháp nhằm hạn chế rủi ro của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam” – Lương Văn Hải, ĐHKT-ĐHQGHN, 2006…
 Trên phương diện quản lý nhà nước, hàng năm, Sở Kế hoạch & Đầu tư Hải
Phòng có lập các báo cáo tổng hợp về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong
đó đã thống kê chính xác và đầy đủ các số liệu, đã nêu lên các mặt tích cực và hạn
chế trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Phòng. Tuy nhiên, các kết
quả này mới dừng lại ở các con số, chưa nêu lên được những nguyên nhân, các yếu
tố tác động và các giải pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên hoặc khái quát tổng thể trên toàn bộ nền
kinh tế Việt Nam, hoặc chuyên sâu vào một khía cạnh cụ thể của hoạt động đầu tư
6

trực tiếp nước ngoài. Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể
nào mang tính lý luận cao, phân tích sâu sắc và toàn diện về hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Hải Phòng, đặc biệt trong giai đoạn 2006-2010. Chính vì vậy,
tác giả quyết định chọn đề tài nghiên cứu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

 Mục đích nghiên cứu của luận văn là:
- Xác định rõ vai trò và sự tác động của FDI đối với quá trình phát triển kinh tế
của Hải Phòng trên cả hai phương diện: Lý luận và Thực tiễn.
- Đưa ra một bức tranh toàn cảnh về thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Hải Phòng.
- Dựa vào các kết quả đã phân tích, đưa ra các giải pháp cụ thể và riêng biệt
nhằm đẩy mạnh thu hút vốn FDI vào Hải phòng và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử
dụng nguồn vốn này.
 Nhằm đạt được các mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết được các
nhiệm vụ sau:
- Phân tích và hệ thống hóa lại các cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI
đối với quá trình phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và đối với Hải Phòng nói
riêng.
- Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI
của một số địa phương và thành phố có đặc điểm tương đồng với Hải Phòng.
- Phân tích rõ nguyên nhân của những thành công cũng như các mặt còn tồn tại
trong hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI tại Hải Phòng trong thời gian vừa qua,
từ đó gợi mở các giải pháp và xu hướng đi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Hải Phòng.
 Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: từ năm 2006 đến 2010, tính từ thời điểm Luật Đầu tư ra đời và có
hiệu lực. Đây cũng là phạm vi thời gian Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
tại Hải Phòng.
7

- Không gian: Vì lĩnh vực đầu tư rất rộng, ở đây luận văn chỉ tập trung làm rõ
vấn đề về Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hải Phòng.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết những nhiệm vụ đã đặt ra, luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu kinh tế phổ biến sau đây:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp hệ thống:
Việc nghiên cứu tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Phòng được
thực hiện đồng bộ, gắn với hoàn cảnh, điều kiện và các giai đoạn cụ thể. Các giải
pháp nhằm thu hút vốn FDI được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau cả về
không gian và thời gian, đồng thời được đặt ra trong bối cảnh chung của toàn bộ
nền kinh tế cũng như của riêng Hải Phòng.
- Phương pháp thống kê: Luận văn sử dụng các số liệu thống kê thích hợp để
phục vụ cho quá trình phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Hải Phòng và nghiên cứu, rút ra các bài học kinh nghiệm, các giải pháp nhằm đẩy
mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả kinh doanh của vốn FDI.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở phân tích tình hình thực tế, luận
văn đưa ra các đánh giá chung có tính chất khái quát về ưu điểm và những hạn chế
của hoạt động đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Hải Phòng luôn được xem xét trong sự so sánh, đối chiếu với
các số liệu thống kê của cả nước và một số tỉnh thành có các đặc điểm tương đồng
với Hải Phòng.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã phân tích và đánh giá vai trò và tác động của FDI đối với quá
trình phát triển kinh tế của Hải Phòng trong phạm vi nghiên cứu.
- Đánh giá kết quả của hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI tại Hải Phòng
trong thời gian qua, chỉ rõ các mặt còn hạn chế và phân tích nguyên nhân của
chúng.
8

- Đề xuất các giải pháp phù hợp dành riêng cho Hải Phòng nhằm phát huy các
kết quả tích cực, hạn chế những yếu kém, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thu hút FDI
và nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn này trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 03 chương chính như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Phòng
giai đoạn 2006-2010
Chương 3: Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải
Phòng trong thời gian tới

















9

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI


1.1. Lý luận chung về đầu tư quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm và các hình thức của đầu tư trực tiếp
nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngày nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một hình thức đầu tư phổ
biến và chiếm vị trí quan trọng trong các hoạt động đầu tư quốc tế và đã được các tổ
chức kinh tế quốc tế, luật pháp các quốc gia định nghĩa theo nhiều cách khác nhau:
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI là: “một khoản đầu tư với những quan hệ
lâu dài, theo đó, một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được
lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà
đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt
tại nền kinh tế khác đó”.[41,Tr.31]
FDI là một loại hình đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư của một nền kinh tế
đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một nền kinh tế khác để sở hữu hoặc
nắm quyền điều hành đối tượng (thường là các doanh nghiệp) mà họ đã bỏ vốn đầu
tư nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế khác.
FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ một tài sản nào từ nước
đi đầu tư sang nước nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát một doanh nghiệp
nhằm mục đích kinh doanh có lãi.
Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng định nghĩa về FDI như sau:
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất
kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu
tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia hoạt động quản lý đầu tư.
10

FDI khác với đầu tư gián tiếp nước ngoài, đồng thời FDI cũng là các hoạt động
đầu tư thuộc kênh tư nhân, nó khác với đầu tư tài trợ (ODA) của các Chính phủ
hoặc các tổ chức quốc tế.
Như vậy, mặc dù có rất nhiều các quan điểm khác nhau về FDI nhưng khái quát

lại, ta có thể định nghĩa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế
thông qua việc nhà đầu tư của một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư. Nhà
đầu tư này trực tiếp tham gia quản lý, tổ chức điều hành sản xuất, tận dụng các ưu
thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của mình và tận dụng
các lợi thế của nước đến đầu tư để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận.
1.1.1.2. Bản chất của Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo quan niệm của các nhà kinh tế chính trị theo chủ nghĩa Max thì hoạt động
đầu tư nước ngoài được coi là hình thức xuất khẩu “tư bản thừa” (V.I.Lênin) và chịu
tác động, chi phối của các quy luật kinh tế. Do đó, đầu tư nước ngoài là hoạt động
kinh tế mang tính chất khách quan, khi quá trình tích tụ và tập trung tư bản sản xuất
tới một mức độ và trình độ nhất định, khi lực lượng sản xuất đã phát triển vượt ra
khỏi biên giới của một quốc gia. Cũng theo V.I.Lênin, việc xuất khẩu tư bản là một
đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền bởi việc tích tụ và tập trung tư bản
sẽ dẫn tới sự “tư bản thừa” là một tất yếu. Tuy nhiên, “tư bản thừa” ở đây mang tính
chất tương đối, nghĩa là “thừa” khi lợi nhuận thu được ở trong nước sẽ thấp hơn so
với nếu đầu tư ra nước ngoài. “Nếu CNTB chú ý tới phát triển nông nghiệp, dẫn tới
việc nâng cao mức sống của nhân dân thì không thể có hiện tượng tư bản thừa;
chừng nào CNTB vẫn còn là CNTB thì số tư bản thừa vẫn còn chuyên dùng không
phải để nâng cao mức sống của quần chúng trong một nước nhất định, vì như thế sẽ
đi đến kết quả làm giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản mà là để tăng thêm lợi
nhuận đó bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu. Tại
các nước này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản còn ít, giá đất đai thấp, tiền công hạ,
nguyên liệu rẻ”.[37,Tr.456]
V.I.Lênin cũng đã đề cập tới hai hình thức của xuất khẩu tư bản là: xuất khẩu tư
bản cho vay (chính phủ cho vay để thu lợi tức) và xuất khẩu tư bản hoạt động (xuất
11

khẩu tư bản để xây dựng các nhà máy, xí nghiệp mới, hoặc mua lại những xí nghiệp
đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm mục đích thu lợi nhuận cao).

Do đó, Người cho rằng xuất khẩu tư bản có tác dụng tích cực và tiêu cực đối
với cả nước xuất khẩu và nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản cùng với buôn bán là
những đặc điểm cơ bản của thương mại quốc tế trong thời đại tư bản độc quyền.
Dưới sự thống trị của tư bản tài chính, xuất khẩu tư bản trở thành một công cụ bành
trướng và thực hiện sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức tư bản độc
quyền.
Từ các phân tích trên, có thể khái quát bản chất của đầu tư trực tiếp nước
ngoài là sự gặp gỡ nhau về nhu cầu và lợi ích của một bên là nhà đầu tư nước
ngoài và một bên là nước nhận đầu tư.
1.1.1.3. Đặc điểm của Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong giai đoạn hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số các đặc điểm
chính sau:
 Về vốn góp của nhà ĐTNN: Nhà đầu tư phải đóng góp một lượng vốn tối
thiểu theo quy định của từng nước, qua đó họ có quyền được trực tiếp tham gia điều
hành đối tượng đầu tư. Ở Việt Nam, chỉ có một số lĩnh vực như ngân hàng, bảo
hiểm mới có quy định tối thiểu này.
 Quyền điều hành, quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư góp vốn 100% thì họ có toàn quyền điều
hành, hoặc trực tiếp, hoặc thuê người quản lý.
 Lợi nhuận của nhà ĐTNN nhận được tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Lãi, lỗ được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp
định sau khi đã trừ đi các chi phí hợp pháp, bao gồm cả thuế lợi tức và các khoản
đóng góp cho nước chủ nhà.
 Có nhiều các hình thức đầu tư mới linh hoạt, thuận tiện và phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế hiện đại, tạo điều kiện, cơ hội và sự lựa chọn cho các chủ
thể tham gia hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
12

1.1.1.4. Xu hướng vận động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay
Hoạt động đầu tư nước ngoài phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế và

thương mại thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế ngày càng thúc đẩy sự phát triển của các
luồng vốn đầu tư FDI, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của vốn thông qua di chuyển sản
xuất, kinh doanh đến những địa điểm có lợi nhất về thị trường và chi phí. Vai trò
của các công ty xuyên quốc gia ngày càng quan trọng trong quá trình phân bổ và di
chuyển của các dòng vốn FDI trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, sự vận động
của FDI có các xu hướng sau:
 Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã phát triển nhanh và FDI trở thành một hình thức quan trọng trong hoạt
động đầu tư của các quốc gia trên thế giới.
Theo báo cáo của UNCTAD về đầu tư thế giới, tổng vốn lưu chuyển quốc tế
trong mấy thập kỷ vừa qua tăng mạnh với mức tăng bình quân khoảng 20-
30%/năm. Những năm 1970, vốn FDI toàn thế giới ở mức khoảng 25 tỷ USD, đến
thời kỳ 1980-1985 đã tăng gấp đôi; đến năm 1995 là 235 tỷ USD. Năm 2000, cùng
với đà phục hồi kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ Châu Á (1997-1999),
vốn FDI đạt mức kỷ lục, khoảng 1.200 tỷ USD, trong đó có phần tăng mạnh do xu
hướng sáp nhập và mua lại các công ty, từ đó hình thành nên các công ty, các tập
đoàn khổng lồ chưa từng có trước đây. Các năm tiếp theo, FDI có chiều hướng suy
giảm, năm 2001 là 760 tỷ USD, năm 2002 còn 543 tỷ USD do trào lưu mua lại-sáp
nhập công ty đã giảm xuống và do ảnh hưởng của tình trạng trì trệ, suy thoái của
nền kinh tế thế giới, sự phục hồi chậm chạp của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật
Bản, EU. Năm 2009, vốn FDI toàn cầu đạt 1.040 tỷ USD, giảm 38% so với năm
2008, đến năm 2010 có tăng nhẹ trở lại với khoảng 1.200 tỷ USD.[42]
Nhìn chung, luồng vốn FDI đã có khối lượng lớn, chiếm tỷ trọng đáng kể và trở
thành một bộ phận quan trọng trong tổng vốn đầu tư và tài chính quốc tế. Sự tiến bộ
nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông đã
tạo ra những khả năng mới cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra thuận
13

lợi hơn, nhanh chóng hơn - đó chính là cơ sở của sự gia tăng quy mô, tính đa chiều,
đa dạng của các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế khách quan tất
yếu, tác động to lớn tới sự phát triển của đất nước, việc Việt Nam mở cửa thu hút
vốn FDI đang trở thành một đòi hỏi cấp thiết để tăng cường tiềm lực kinh tế, nâng
cao trình độ khoa học, công nghệ, quản lý góp phần mở rộng thị trường, đẩy
nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước.
 Sự phân bổ dòng vốn FDI không đồng đều, phần lớn tập trung ở các
nước công nghiệp phát triển, tuy nhiên dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát
triển đang có chiều hướng tăng lên
Trong nhiều năm trở lại đây, khoảng 80% lượng vốn FDI toàn cầu được đầu tư
giữa các nước công nghiệp với nhau, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được
khoảng 20% lượng vốn còn lại. Các nước phát triển nắm giữ lượng vốn FDI lớn như
vậy chủ yếu là do trao đổi tư bản trong nội bộ khối, và giá trị của các vụ mua bán,
sáp nhập các công ty lớn. Tuy nhiên, khoảng thời gian từ năm 2006 tới nay, luồng
vốn FDI toàn cầu đang đi theo một chiều hướng mới khi lượng vốn FDI đầu tư vào
các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước “thị trường mới nổi” như Trung
Quốc, Ấn Độ, Braxin tăng đột biến. Năm 2008, FDI đầu tư vào các nước phát triển
sụt giảm tới 25% trong khi FDI vào các nước đang phát triển tăng 7% với mãi lực
lớn từ các nước thuộc nhóm BRIC (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc); tới năm
2010, lần đầu tiên trong lịch sử, lượng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển
chiếm tới 50% tổng lượng vốn FDI toàn thế giới, vốn FDI vào Châu Âu giảm
19,9%, vào Nhật Bản giảm tới 83,4% xuống còn 2 tỷ USD[42]. Cũng trong năm
2010, các vụ mua bán, sáp nhập công ty trên thế giới đạt khoảng 341 tỷ USD trong
khi FDI mới lại giảm cả về số lượng lẫn giá trị đầu tư. Có thể giải thích nguyên
nhân của hiện tượng này là do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt
đầu từ cuối năm 2006, nền kinh tế thế giới, đặc biệt là nền kinh tế của các nước phát
triển bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều quốc gia trong khối EU bị khủng hoảng nợ,
làm xói mòn niềm tin của các chủ đầu tư.
14

Tuy vậy, hiện tượng trên khó có thể trở thành một xu thế mới trong hoạt động

FDI toàn cầu khi mà các nước phát triển đang chiếm giữ tới hơn 80% nguồn lực, tài
sản của toàn thế giới với các công ty TNCs khổng lồ vẫn đang chi phối một phần
lớn lượng vốn FDI toàn cầu.
Trước xu thế đó, để thu hút ngày càng nhiều vốn FDI phục vụ cho sự nghiệp
CNH-HĐH, các quốc gia tiếp nhận đầu tư là các nước đang phát triển cần cố gắng
phát huy những lợi thế vốn có như: chính trị ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
các yếu tố đầu vào sản xuất rẻ, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện thuận
lợi hơn, thông thoáng hơn
 Các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia của các nước phát triển đang
kiểm soát phần lớn nguồn vốn FDI
Mặc dù ngày càng có sự đa dạng hóa trong các đối tác và chủ thể tham gia hoạt
động FDI, nhưng thực chất dòng vốn này hiện đang bị chi phối và kiểm soát bởi các
TNCs ở các nước phát triển. Các công ty xuyên quốc gia chính là những chủ thể đầu
tư trực tiếp với khối lượng kiểm soát lên tới hơn 80% tổng vốn FDI trên toàn thế
giới. Đồng thời, các công ty này cũng chính là lực lượng chủ yếu vận hành những
mảng lớn của nền kinh tế toàn cầu, nắm giữ nguồn tài chính, kỹ thuật, các ngành
kinh tế then chốt và mũi nhọn, kiểm soát thương mại và vận tải thế giới. Theo thống
kê, các TNCs nắm giữ gần 40% sản lượng công nghiệp; 60% ngoại thương; 80% kỹ
thuật mới của thế giới tư bản. Theo công bố của UNCTAD, chỉ riêng 100 công ty
xuyên quốc gia lớn nhất thế giới (tất cả đều thuộc Mỹ, EU, Nhật Bản) đã chiếm tới
1/3 FDI toàn cầu, tổng tài sản ở nước ngoài lên tới 1.400 tỷ USD, sử dụng 73 triệu
lao động, trong đó có 12 triệu lao động ở nước ngoài.[42]
Hiện nay, các TNCs vần tiếp tục vươn ra các khu vực khác nhau trên thế giới
với quy mô FDI ngày càng lớn. đóng vai trò ngày càng quan trọng và quyết định đối
với lĩnh vực này. Song song với việc giữ vững các khu vực đầu tư truyền thống như
Châu Âu, Mỹ, các TNCs đang gia tăng hoạt động đầu tư vào những địa bàn mới
đầy triển vọng như Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN ).
15

Vai trò của các TNCs trong hoạt động FDI là rất quan trọng, Việt Nam cần nhận

thức đúng đắn, khách quan hơn nữa về các mặt tích cực và cả tiêu cực trong hoạt
động của các công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia. Từ đó có thể tận dụng
sức mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến, hiệu quả, khả năng tiếp
cận thị trường thế giới của các công ty này nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
 Tính cạnh tranh trong hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng cao
Tiến trình toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới làm
cho nguồn vốn FDI ngày càng được mở rộng về quy mô, chất lượng và không gian
đầu tư. Đồng thời, do nhu cầu phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cũng
ngày càng gia tăng nên dẫn tới sự cạnh tranh quyết liệt giữa các các quốc gia và khu
vực nhằm thu hút nguồn vốn này.
Trong tổng vốn FDI toàn cầu, các nước đang phát triển chỉ có thể tiếp nhận được
khoảng 20%, nhưng 2/3 trong số này lại tập trung vào một số quốc gia có điều kiện
thuận lợi và tiềm năng về tài nguyên, nhân lực, thị trường như Trung Quốc, Ấn
Độ, Braxin và một số quốc gia khác mới nổi lên thành “điểm đến” cho các nhà đầu
tư do họ tích cực cải thiện môi trường thu hút đầu tư như Malaysia, Thái Lan, Việt
Nam
Không chỉ có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước tiếp nhận đầu tư mà các nhà
đầu tư nước ngoài cũng cạnh tranh gay gắt nhằm nắm bắt các thị trường mới, các
lĩnh vực kinh doanh béo bở, đặc biệt là các dự án lớn được cấp chính phủ bảo hộ
như các dự án về dầu khí, hàng không
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần có chiến lược thu hút đầu tư dài hạn, hiệu
quả, có chọn lọc nhằm phục vụ tốt hơn nữa sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Năm
2010, theo bản đánh giá của UNCTAD và Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đứng thứ 12
trên bảng xếp hạng các quốc gia có chỉ số niềm tin FDI, đứng thứ 93 về mức độ
thông thoáng của môi trường kinh doanh (Easy of doing business). Mặc dù do tác
động tiêu cực của sự suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng khối lượng vốn FDI đầu tư
vào Việt Nam vẫn ngày càng tăng, năm 2010, tổng vốn FDI thực hiện tại Việt Nam
16


là 11 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm 2009. Điều đó chứng tỏ rằng nước ta vẫn là
một trong những “điểm đến” hấp dẫn để các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh và
sản xuất. Vấn đề quan trọng ở đây là làm sao để quản lý và sử dụng nguồn vốn này
một cách có hiệu quả, phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
 Tính quốc tế hóa, và tính cục bộ của các hoạt động FDI
Các quốc gia trên thế giới đều nhận thức rõ về tầm quan trọng của nguồn vốn
FDI đối với tăng trưởng kinh tế và phân công lao động quốc tế trong quá trình toàn
cầu hóa. Với sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính các quốc gia, khu
vực và toàn thế giới, luồng vốn FDI toàn cầu được lưu chuyển và quay vòng ngày
một nhanh hơn, mạnh hơn và có ảnh hưởng toàn diện hơn tới mọi mặt trong đời
sống kinh tế-xã hội của các nước tham gia hoạt động đầu tư.
Tính “quốc tế hóa”, “đa biên hóa” trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn được thể hiện trong các dự án đầu tư lớn, mỗi giai đoạn, khâu, tầng đều do một
hoặc một vài nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Mỗi nhà đầu tư lại có một lợi thế
riêng về vốn, công nghệ, năng lực tư vấn thiết kế, năng lực quản lý
Tuy nhiên, hoạt động FDI cũng thể hiện tính cục bộ, khu vực một cách rõ nét.
Do các yếu tố về địa lý, văn hóa, lịch sử mà hiện nay trên thế giới đã hình thành các
nhà đầu tư truyền thống của từng khu vực khác nhau; ví dụ Nam Mỹ là “sân sau”
của các nhà đầu tư Mỹ, còn Nhật Bản đang nắm giữ thị phần rất lớn trong các hoạt
động đầu tư tại Châu Á, các quốc gia thuộc EU là những nhà đầu tư hàng đầu thế
giới nhưng phần lớn khối lượng đầu tư được thực hiện ngay trong nội bộ khối
Nhận thức được đặc tính này, chúng ta cần có sách lược thu hút đầu tư theo đối
tác một cách cụ thể. Một mặt cần có các chính sách ưu đãi, ưu tiên các nhà đầu tư
nước ngoài truyền thống trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc Mặt khác cần
đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác đầu tư nhằm theo kịp
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với chính sách ngoại giao mà chúng
ta đang theo đuổi.

17


 Hầu hết các nước đều tham gia vào cả hai quá trình: tiếp nhận đầu tư và
đầu tư ra nước ngoài
Hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều đang tham gia vào cả hai quá
trình này, điển hình là các nước công nghiệp phát triển (G7); các nước này chiếm
tới 4/5 tổng FDI toàn thế giới nhưng cũng thu hút trên 2/3 tổng FDI toàn cầu.[42]
Theo báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch & Đầu tư, cho đến cuối
năm 2010, Việt Nam thu hút 18,59 tỷ USD vốn FDI trong khi các doanh nghiệp của
chúng ta cũng có tới 410 dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký
đạt 7 tỷ USD, trong đó Lào là quốc gia mà các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều dự
án nhất với 178 dự án, tổng vốn đăng ký 3,2 tỷ USD; tiếp đó là Campuchia với 81
dự án, tổng vốn đăng ký 1,3 tỷ USD; các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang cả các
quốc gia phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Liên Bang Nga hay Hàn Quốc, Australia,
Châu Mỹ Latinh Có thể giải thích hiện tượng này bởi hai nguyên nhân chính như
sau:
Thứ nhất, quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa nền kinh tế thế giới cũng kéo theo
sự chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Các quốc gia,
các ngành, các doanh nghiệp có thể phát huy tốt lợi thế so sánh của mình khi tham
gia đầu tư ra nước ngoài để thu lợi nhuận cao hơn; đồng thời cũng cần bổ sung
nguồn vốn đầu tư để khắc phục những hạn chế của mình (về công nghệ, năng lực
quản lý tiên tiến ); thông qua việc tiếp nhận FDI để tăng năng lực và hiệu quả sản
xuất, tăng khả năng cạnh tranh của quốc gia, ngành, hay doanh nghiệp mình.
Thứ hai, các nước và vùng lãnh thổ đang phát triển, ngoài việc thu hút FDI từ
các nước phát triển, cũng vươn lên trở thành những nhà đầu tư quốc tế có uy tín như
Singapore, Đài Loan bởi các chủ đầu tư ở các địa bàn này chủ yếu muốn di chuyển
một số ngành, cơ sở kinh tế có năng suất lao động thấp sang các nền kinh tế khác
kém phát triển hơn.
Vì vậy, đối với Việt Nam, khi tiếp nhận các dự án FDI cần phải xem xét, chọn
lọc, coi trọng tính hiệu quả cả về kinh tế-xã hội-môi trường, tính bền vững và chất
lượng tăng trưởng; phải sử dụng nguồn vốn FDI làm đòn bẩy quan trọng trong sách

×