Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




ĐẶNG VĂN PHẨM





LUẬN VĂN THẠC SỸ







NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG THUỶ SẢN
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ




















Hà Nội - 2006

2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ





Đặng Văn Phẩm








NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG THUỶ SẢN
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ




Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số : 5.02.12





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học: TS. Khu Thị Tuyết Mai
Khoa Kinh tế, ĐHQG Hà Nội





Hà Nội - 2006

3


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM
1.1. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.2. Phân loại năng lực cạnh tranh theo cấp độ
1.1.3. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.2. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh trong thương
mại quốc tế
1.2.1. Nhóm các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh
1.2.2. Nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước
1.2.3. Nhóm các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế của doanh nghiệp
1.2.4. Nhóm các yếu tố thuộc về hoạt động doanh nghiệp
1.3. Một số mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh
1.3.1. Mô hình SWOT
1.3.2. Mô hình kim cương của Micheal Porter
CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT
HÀNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về hoạt động sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của
Việt Nam và thế giới
2.1.1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản trên thế giới
2.1.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam
2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt
Nam


Trang


1
4

4
4
7
10
17

18
18
19
20
21
21
22
33

33

33
37
50


4
2.2.1. Phân tích năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản theo các tiêu
chí
2.2.2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản theo mô hình

kim cương của Micheal Porter
2.2.3. Phân tích SWOT của mặt hàng thuỷ sản
2.2.4. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản
xuất khẩu của Việt Nam
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM
3.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước
3.1.1. Chính sách về tổ chức, quản lý xuất khẩu thuỷ sản
3.1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
3.1.3. Chính sách huy động vốn
3.1.4. Chính sách thuế
3.1.5. Chính sách trợ cấp
3.1.6. Chính sách và chủ trương tham gia vào cộng đồng thương mại
quốc tế
3.2. Nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp sản xuất thuỷ sản xuất khẩu
3.2.1. Đổi mới bộ máy tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp thuỷ sản
3.1.2. Chính sách nghiên cứu và triển khai
3.2.3. Đầu tư đổi mới khoa học công nghệ chế biến mặt hàng thuỷ sản
3.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực cho công tác quản lý hoạt động xuất khẩu
3.2.5.Thành lập trung tâm thông tin chuyên cung cấp thông tin về thị
trường thuỷ sản các nước và khu vực
3.2.6. Đổi mới hệ thống phân phối và đa dạng hoá phương thức bán hàng
trên thị trường thế giới
3.2.7. Đẩy mạnh hoạt động marketing để mở rộng thị trường xuất khẩu
3.2.8. Tăng cường sự hỗ trợ của hiệp hội thuỷ sản
50

53


64
68

72


72
72
74
76
78
80
81

86
86
87
89
91
92

93

94
95

5
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

97
99
102


















6
Lời Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá là yêu cầu then chốt đối với mọi
doanh nghiệp khi tham gia vào kinh tế thị trường vì hàng hoá có sức cạnh tranh cao
sẽ tạo nền tảng vững chắc cho quá trình phát triển doanh nghiệp và giúp doanh
nghiệp tăng khả năng mở rộng quy mô sản xuất. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu
hoá hiện nay nhiều nước có cùng lợi thế và cơ hội sản xuất cùng một loại sản phẩm
với chất lượng và giá thành khác nhau, thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho

mặt hàng xuất khẩu càng trở thành vấn đề cấp thiết cho mọi quốc gia khi muốn
giành được thị phần trên thị trường thế giới.
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, ở Việt Nam, giai đoạn đầu của
quá trình công nghiệp hoá, ngành nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong phát triển kinh tế nói chung và trong hoạt động xuất khẩu góp phần tăng
nguồn ngoại tệ nói riêng. Các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chiếm kim ngạch rất
lớn. Ngành thuỷ sản của Việt Nam là ngành có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế
quốc dân, nó không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao
động, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Chỉ tính riêng mặt hàng thuỷ sản hàng
năm xuất khẩu đạt trên 2 tỉ USD chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặt
hàng thủy sản xuất khẩu năm 2005 ước đạt 2,8 tỉ USD chỉ đứng sau dầu thô và hàng
dệt may và được đứng trong câu lạc bộ những sản phẩm xuất khẩu trên 1 tỉ USD.
Lợi thế cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam khá cao, được xếp vào danh
sách những mặt hàng có khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Tuy nhiên trong bối
cảnh toàn cầu hoá thương mại thì sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Bởi vậy,
việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu là rất
cấp thiết. Xuất phát từ yêu cầu đó, qua một thời gian tìm hiểu tôi chọn đề tài cho
luận văn tốt nghiệp của mình là: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ
sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ”


7
2. Tình hình nghiên cứu:
Trong nước hiện nay có một số công trình nghiên cứu đề cập đến lĩnh vực
thuỷ sản như: Hồ sơ mặt hàng thuỷ sản - Viện Nghiên cứu Thương mại; Triển vọng
xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản-Đề tài khoa học cấp Bộ,
năm 2003 - Viện Nghiên cứu Thương mại; Báo cáo nghiên cứu nhóm hàng thuỷ sản
năm 2004 - Viện Nghiên cứu Thương mại; Đề tài cấp nhà nước “Một số giải pháp
nhằm phát triển xuất khẩu mặt hàng nông lâm thuỷ sản đến năm 2010”-Viện
Nghiên cứu Thương mại; Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công nghệ Marketing xuất

khẩu để mở rộng thị trường và mặt hàng xuất khẩu ở nước ta giai đoạn 2001 - 2010, Bộ
Thương mại - Chủ biên TS Nguyễn Hữu Khoả, Năm 2002; Tham luận “Đánh giá vai
trò và vị trí của xuất khẩu thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân” - Phạm Quang
Vinh, Vụ trưởng Vụ Thống kê Nông, lâm nghiệp và Thuỷ sản, Tổng cục Thống kê;
Ngành thuỷ sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - Nguyễn Ngọc
Mạnh, Trưởng phòng ASEAN, Viện Nghiên cứu châu á -TBD; Đánh giá những mặt
thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam hiện nay
và những vấn đề đặt ra cần giải quyết - PGS.TS. Tô Xuân Dân, Viện trưởng - Viện
Kinh tế xã hội - Hà Nội; Đánh giá các chính sách của Nhà nước đối với sản xuất và
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam-Trần Thị Miêng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài
chính, Bộ Thuỷ sản; Một số giải pháp nhằm đạt mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế
của ngành thuỷ sản Việt Nam- Dương Tử Cương, Cục trưởng Cục Quản lý Chất
lượng, an toàn vệ sinh và Thú y, Thuỷ sản - Bộ Thuỷ sản… và một số các tài liệu
hội thảo chuyên đề, các bài báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các công
trình nghiên cứu và các tham luận trên mấy chỉ đề cập đến vấn đề xản xuất và xuất
khẩu mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu, bởi vậy cần phải
có nghiên cứu bổ xung về vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu:

8
Đánh giá năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt
Nam, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. Trên cơ
sở đó đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng
thuỷ sản xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
- Năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của Việt
Nam từ năm 2000 trở lại đây.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp so sánh; đặc biệt đã sử dụng một số phương pháp phân tích
theo mô hình như phương pháp SWOT, mô hình kim cương của Micheal Porter .
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
- Làm rõ năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam qua
các tiêu chí và mô hình
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ
sản xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn:
Luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
sản phẩm
Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam

9
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng
thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA SẢN PHẨM
1.1. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong
kinh tế, hiện tượng cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của
nền sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn phát triển ban đầu của nền sản xuất
hàng hoá, cạnh tranh chưa được nhận biết và xem xét một cách đầy đủ ở mọi khía

cạnh. Chỉ đến khi các khái niệm giá trị, giá bán được nghiên cứu một cách khoa
học, khi đó vấn đề cạnh tranh mới được hiểu đầy đủ hơn và vai trò của nó trong nền
kinh tế được đánh giá đúng hơn.
Cùng với quá trình phát triển của tư duy kinh tế, lý thuyết cạnh tranh cũng
ngày càng được hoàn thiện hơn. Adam Smith là người đầu tiên đưa ra lý thuyết
tương đối hoàn chỉnh về cạnh tranh. Luận thuyết của ông dựa trên ý tưởng về vai
trò của "bàn tay vô hình" trong việc điều chỉnh biến động của giá thị trường (điều
chỉnh giá bên cung và giá bên cầu) và được thể hiện rõ nét qua mô hình cạnh tranh
hoàn hảo. Trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo
1
mục tiêu của doanh nghiệp,
người tiêu dùng là tối đa hoá lợi nhuận, sự tiện ích của mình, thị trường sẽ phân bổ
tối ưu các nguồn lực khan hiếm theo nghĩa, không thể có cách phân bổ khác có lợi
hơn cho ai đó trong xã hội mà không làm hại đến người nào khác. Tuy nhiên, trong


1
Mô hình cạnh tranh hoàn hảo dựa trên các giả thiết: 1. Không có người bán, người mua khống chế được giá
cả; 2.Sự nhập cuộc hay rút lui khỏi thị trường là tự do; 3. Người mua, người bán có thể tiếp cận đầy đủ thông
tin để ra quyết định sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của mình. Mô hình cạnh tranh hoàn hảo thể hiện rõ
nhất vai trò của “bàn tay vô hình”.

10
thực tế, hầu như không tồn tại tất cả những giả thuyết về nhân tố hoàn hảo của thị
trường. Mô hình cạnh tranh hoàn hảo gần như không tưởng.
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ 20, các nhà kinh tế Mỹ và Anh đã đưa ra
những nghiên cứu đầy đủ hơn về cạnh tranh - Mô hình cạnh tranh không hoàn hảo
hay cạnh tranh mang tính độc quyền. Trọng tâm của những nghiên cứu này là đề
cập đến những hàng hoá có quan hệ thay thế, đến vấn đề độc quyền nhóm và bổ
xung những hình thức cạnh tranh không bằng giá (cạnh tranh qua kênh phân phối,

qua quảng cáo, ). Cạnh tranh mang tính độc quyền, theo nghĩa rộng, là cạnh tranh
giữa nhiều đơn vị cung với những hàng hoá khác biệt cạnh tranh lẫn nhau trên thị
trường.
Nhà kinh tế học Mỹ John Maurise Clack vào đầu những năm 40 của thế kỷ
20 đã đưa ra luận điểm: những nhân tố không hoàn hảo trên thị trường có thể được
sửa chữa bằng những nhân tố không hoàn hảo khác. Chẳng hạn, tính không hoàn
hảo do có ít người cung ứng trên thị trường (hình thái thị trường độc quyền nhóm)
sẽ được cải thiện phần nào nhờ nhân tố không hoàn hảo khác như thiếu sự tường
minh của thị trường và tính tạp chủng của hàng hoá. Clack đã tiếp thu luận điểm
của Schumpeter - cạnh tranh phải bằng sản phẩm mới, bằng kỹ thuật mới, bằng
nguồn cung ứng mới và bằng hình thức tổ chức mới - để xây dựng lý thuyết cạnh
tranh hiệu quả. Theo đó, siêu lợi nhuận mà các doanh nghiệp tiên phong đạt được
trên cơ sở lợi thế nhất thời vừa là hệ quả, vừa là tiền đề của cạnh tranh. Lợi nhuận
này không nên xoá bỏ ngay lập tức mà chỉ nên giảm dần để doanh nghiệp có thể có
điều kiện thời gian tạo ra một sự đổi mới, cải tiến khác.
Nhìn chung, sự phát triển của cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế là sự phát
triển của một quá trình. Quá trình đó gắn liền với quá trình phát triển của nền kinh
tế thị trường. Sự phát triển các lý thuyết về cạnh tranh thể hiện quá trình nhận thức
về cạnh tranh theo sự phát triển của các hình thái thị trường. Những nghiên cứu về
cạnh tranh đều cho thấy, mặc dù, cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và
thiệt hại cho người khác, nhưng rõ ràng xét dưới góc độ hiệu quả, quá trình cạnh

11
tranh mang lại tổng số lợi ích luôn lớn hơn tổng số thiệt hại. Vì vậy, có thể nói rằng,
cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát triển của nền
kinh tế thị trường. Không có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường. Trong nền
kinh tế thị trường, quá trình cạnh tranh cũng luôn được thúc đẩy phát triển bởi các
đối tượng tham gia cạnh tranh trên thị trường luôn tìm cách nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình trước các đối thủ khác nhằm đạt được vị thế cao hơn trên
thị trường.

1.1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ nào đó trên
thị trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt hay tính hơn hẳn của nó
cả về định tính và định lượng với các chỉ tiêu như: Chất lượng sản phẩm, thương
hiệu, mức độ vệ sinh công nghiệp hay vệ sinh thực phẩm; khối lượng và sự ổn định
chất lượng của sản phẩm; kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm, môi trường thương mại,
mức độ giao dịch và uy tín của sản phẩm trên thị trường, sự ổn định về môi trường
kinh tế vĩ mô và chính sách thương mại như thuế, tỷ giá, tín dụng, mức độ bảo hộ
và chỉ tiêu về giá thành và giá cả sản xuất.
Cùng với quá trình phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế thì các quan hệ
thương mại cũng phát triển, theo đó diễn ra sự mở rộng thị trường trao đổi hàng
hoá. Sự mở rộng trao đổi thương mại tác động trở lại sản xuất của mỗi nước theo cả
hai chiều: Kích thích gia tăng khối lượng sản phẩm một số hàng hoá được thị
trường chấp nhận (được người mua trả giá) và hạn chế sản xuất những mặt hàng mà
thị trường không chấp nhận ( người mua không trả giá). Như vậy mỗi sản phẩm do
từng nhà sản xuất đưa ra thị trường sẽ được người tiêu dùng phản ứng với mức độ
cao thấp khác nhau. Sự phản ứng của người tiêu dùng thể hiện qua việc mua hay
không mua sản phẩm đó. Đây là biểu hiện tổng quát cuối cùng về sức cạnh tranh
của sản phẩm đó.
Nói cách khác, cạnh tranh giữa các sản phẩm trên một thị trường là quá trình
thể hiện khả năng hấp dẫn người tiêu dùng của các sản phẩm đối với khách hàng

12
trên một thị trường cụ thể và trong một thời gian nhất định. Năng lực cạnh tranh của
sản phẩm có thể gắn với một doanh nghiệp, một quốc gia cụ thể hoặc xét chung cho
tất cả các quốc gia, các doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp hoặc một ngành, một sản phẩm, năng lực cạnh
tranh gắn với mục tiêu duy trì sự tồn tại và thu được lợi nhuận trên thị trường và nó
được thể hiện bằng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Tuy nhiên năng lực cạnh tranh
quốc gia và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.

Một quốc gia hay một nền kinh tế có sức cạnh tranh tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp
tạo dựng được năng lực cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Nói cách khác,
năng lực cạnh tranh quốc gia là một nguồn hình thành năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, nó sẽ góp phần vào
việc nâng cao thu nhập và tác động tích cực đến môi trường cạnh tranh và do đó nó
góp phần vào nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
1.1.2. Phân loại năng lực cạnh tranh theo cấp độ
1.1.2.1. Khái niệm sức cạnh tranh xét từ phạm vi quốc gia
Khái niệm về sức cạnh tranh ở tầm quốc gia, theo nghĩa rộng nhất, sức mạnh
thể hiện trong hiệu quả kinh tế vĩ mô. Có nhiều khái niệm khác nhau về sức cạnh
tranh của một quốc gia. Có những khái niệm cho rằng, sức cạnh tranh của một quốc
gia là khả năng đạt được và duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên cơ sở
các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác (Diễn đàn
kinh tế thế giới - WEF, 1997). Mặc dù khái niệm về sức cạnh tranh dựa trên tốc độ
tăng trưởng kinh tế của quốc gia khá đơn giản, nhưng nó chỉ nói lên được khía cạnh
tiền tệ của nền kinh tế mà không bao hàm được tất cả các khía cạnh về giá trị gia
tăng, chẳng hạn sự tiến bộ về giáo dục, khoa học và công nghệ, những vấn đề
được coi là quan trọng đối với tiềm năng tăng trưởng dài hạn của một quốc gia.
Đồng thời, nó cũng không phản ánh được nguyên nhân tạo ra sức cạnh tranh và kết
quả của cạnh tranh.

13
Porter M. (1985 & 1989) cho rằng "khái niệm có ý nghĩa nhất về năng lực
cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động". Mở rộng khái niệm này thì tính
cạnh tranh ở cấp quốc gia gần hơn với lý thuyết về lợi thế so sánh. Ngay như trong
lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ricardo, một quốc gia có khả năng cạnh tranh hơn các
quốc gia khác bởi sự trội hơn về một hay một vài thuộc tính. Ông cho rằng, khả
năng cạnh tranh của một nước là một hệ thống gồm nhiều yếu tố liên quan với nhau,
có tác động qua lại và bổ xung cho nhau. Các yếu tố này là nền móng, chỗ dựa cho
các công ty, giữ vai trò quyết định, cho phép các công ty sáng tạo và duy trì lợi thế

cạnh tranh trên một lĩnh vực cụ thể.
Tuy nhiên, mọi yếu tố đều có thể thay đổi và do đó, sức cạnh tranh cũng có
thể bị thay đổi. Trong trường hợp này, Uỷ ban về cạnh tranh công nghiệp trực thuộc
Tổng Thống Mỹ đã đưa ra khái niệm "một nước là cạnh tranh nếu như nước đó duy
trì được một tỷ lệ tăng trưởng thu nhập thực ngang bằng với tỷ lệ đó của các nước
bạn hàng trong một môi trường thương mại tự do". Khái niệm này tỏ ra khá mơ hồ,
bởi vì, nó cho rằng tăng trưởng thu nhập của một nước có liên quan đến các nước
bạn hàng như là tính cạnh tranh là không thoả đáng.
1.1.2.2. Khái niệm về sức cạnh tranh xét từ phạm vi của ngành/công ty
Phần chung nhất cho hầu hết các khái niệm cạnh tranh xét từ phạm vi của
ngành/công ty là ý niệm sức mạnh cạnh tranh dựa trên cơ sở chi phí thấp, sản phẩm
có chất lượng cao, công nghệ cao hoặc là tổ hợp của các yếu tố này. Một nhà sản
xuất thường được gọi là nhà sản xuất cạnh tranh nếu có khả năng cung ứng một sản
phẩm có chất lượng cao với mức giá thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
Đầu tiên, trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, khái niệm sức cạnh tranh được
áp dụng ở phạm vi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được xem là có sức cạnh tranh
khi doanh nghiệp đó duy trì được vị thế của mình trên thị trường cùng với các nhà
sản xuất khác với các sản phẩm thay thế, hoặc đưa ra thị trường các sản phẩm tương
tự với mức giá thấp hơn, hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về
chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn.

14
Ưu thế cạnh tranh của một nhà sản xuất so với các đối thủ cạnh tranh trong
một ngành công nghiệp được thể hiện trên hai mặt: ưu thế cạnh tranh bên trong (ưu
thế về chi phí) và ưu thế cạnh tranh bên ngoài (ưu thế về mức độ khác biệt hoá).
 Ưu thế cạnh tranh bên trong (ưu thế về chi phí) là ưu thế được thể hiện trong
việc làm giảm các chi phí sản xuất, chi phí quản lý của nhà sản xuất và tạo ra
sản phẩm có giá thành thấp hơn so với giá thành của các đối thủ cạnh tranh
nguy hiểm nhất. Ưu thế cạnh tranh bên trong mang lại "giá trị cho người sản
xuất". Như vậy, ưu thế cạnh tranh bên trong của nhà sản xuất có được là do

khả năng hạ thấp chi phí và do đó, nhà sản xuất này có hiệu quả cao hơn và
có khả năng vững chắc để chống lại sự giảm giá trên thị trường do biến động
của các yếu tố thị trường hoặc do cạnh tranh.
 Ưu thế cạnh tranh bên ngoài (ưu thế về mức độ khác biệt hoá) là ưu thế dựa
vào chất lượng khác biệt của sản phẩm mà nhà sản xuất tạo ra so với các sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh. Chất lượng khác biệt của sản phẩm phụ thuộc
vào năng lực marketing của nhà sản xuất
2
. Chất lượng khác biệt của sản
phẩm tạo nên "giá trị cho người mua" thể hiện qua việc giảm chi phí sử dụng
sản phẩm hay tính tuyệt hảo khi sử dụng sản phẩm. Ưu thế cạnh tranh bên
ngoài tạo cho nhà sản xuất "quyền lực thị trường"
3
ngày càng tăng.
Micheal Porter (1982) đã đưa ra khái niệm cạnh tranh mở rộng, theo đó, cạnh
tranh trong một ngành công nghiệp phụ thuộc vào 5 lực lượng: các đối thủ tiềm
năng, sản phẩm thay thế, người cung ứng, khách hàng, những đối thủ cạnh tranh
trong ngành. Trong đó, 4 lực lượng đầu được xem là các lực lượng cạnh tranh bên


2
Marketing được hiểu là một chuỗi các hoạt động của nhà sản xuất từ việc hình thành ý
đồ thiết kế mẫu sản phẩm, sản xuất sản phẩm đến việc tiêu thụ chúng, bao gồm: các hoạt
động cơ bản xung quanh trục cung ứng - sản xuất - tiêu thụ và các hoạt động hỗ trợ như
hoạt động quản lý chung, tài chính, kế toán, pháp luật, quản lý nhân sự, nghiên cứu và phát
triển, mua nguyên liệu vật tư.
3
Quyền lực thị trường được hiểu theo nghĩa nhà sản xuất có khả năng bắt thị trường phái
chấp nhận giá cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh chính - những nhà sản xuất không nắm
giữ một chất lượng khác biệt như vậy.


15
ngoài. Đương nhiên, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong một ngành công nghiệp
được xem là cạnh tranh trực tiếp và là vấn đề cốt lõi nhất của phân tích cạnh tranh.
Markusen (1992) đã đưa ra khái niệm "một nhà sản xuất là cạnh tranh nếu
như nó có một mức tổng năng suất lao động của các yếu tố sản xuất bằng hoặc cao
hơn các nhà cạnh tranh quốc tế". Tuy nhiên, khái niệm này không hoàn chỉnh vì nó
không thể hiện mức độ rẻ hay đắt của các yếu tố đầu vào trung gian và hơn nữa,
mức tổng năng suất lao động của các yếu tố sản xuất lại phụ thuộc vào hình thức
sản xuất được lựa chọn. Một khái niệm khác của Markusen (1992) được phát biểu
phù hợp hơn với lý thuyết về lợi thế so sánh "một nhà sản xuất là cạnh tranh nếu
như nó có một mức chi phí đơn vị trung bình bằng hoặc thấp hơn chi phí đơn vị của
các nhà cạnh tranh quốc tế".
Trong thương mại quốc tế, thị phần hay tỷ lệ thâm nhập thị trường được hiểu
là mức chiếm lĩnh thị trường của xuất khẩu hay sự thâm nhập của nhập khẩu. Mức
chiếm lĩnh thị trường của xuất khẩu là tỷ lệ xuất khẩu của một nhà sản xuất so với
tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới hay khu vực. Khái niệm này không chỉ phản
ánh sức cạnh tranh thực của các nhà sản xuất mà còn phản ánh sự can thiệp bằng
các chính sách trực tiếp của Chính phủ, đặc biệt là các khoản tiền trợ cấp.
1.1.3. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
1.1.3.1. Lợi thế so sánh hiển thị ( RCA)
Theo Diễn đàn thương mại quốc tế ITC, lợi thế so sánh hiển thị được tính bằng:
RCA=
W
W
i
j
ij
X
X


Trong đó :
j i
X
: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i của nước thứ j

16
X
j
: Tổng kim ngạch xuất khẩu của nước j. X
j
=

n
i
ij
X

W
i
: Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i của thế giới. W
i
=

j
ij
X

W : Tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới. W=


i j
ij
X

Nếu RCA<1 thì sản phẩm xem xét không có lợi thế cạnh tranh trên giác độ
lợi thế so sánh.
Nếu 1< RCA< 2,5 sản phẩm có khả năng cạnh tranh thấp.
Nếu RCA> 2,5 sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao.
Hệ số này có ưu điểm là tính toán tương đối đơn giản, sử dụng ít số liệu
thống kê phức tạp, nhưng hạn chế lớn nhất của nó là chỉ áp dụng được cho những
sản phẩm đã được bán ra thị trường thế giới, thậm chí muốn xác định chính xác hơn
lại phải có một hệ thống số liệu nhiều năm. Điều đó không thể áp dụng được đối với
các nước đi sau, nơi các sản phẩm mới ra thị trường hoặc đang chuẩn bị chào hàng
lần đầu.
1.1.3.2. Hệ số khả năng cạnh tranh sản phẩm từ chất lượng và giá cả
Đây là phương pháp xác định sức cạnh tranh của sản phẩm dựa trên sự am
hiểu sâu sắc của các chuyên gia về chủng loại sản phẩm nào đó. Theo phương pháp
này, các yếu tố cơ bản cấu thành sức cạnh tranh sản phẩm là yếu tố chất lượng sản
phẩm và giá cả. Do đó, khả năng cạnh tranh của sản phẩm được đo lường bằng tỷ lệ
giữa chỉ số chất lượng sản phẩm và giá cả của sản phẩm đó.
C
K = 
g
Trong đó:
 K là khả năng cạnh tranh của sản phẩm nào đó được xác định
bằng hệ số nhỏ hơn hoặc bằng 1.

17
 C là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp của sản phẩm, bao gồm cả các
chỉ tiêu kỹ thuật và các chỉ tiêu kinh tế, xã hội khi sử dụng của sản

phẩm.
 g là giá tiêu dùng của sản phẩm, bao gồm chi phí mua sắm và chi
phí sử dụng sản phẩm.
Bằng cách cho điểm đối với các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm và giá tiêu
dùng của sản phẩm sẽ xác định được khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó. Cách
cho điểm được lựa chọn sao cho hệ số K  1. Thang điểm phân cấp khả năng cạnh
tranh của sản phẩm được tính như sau:
K = 1 - 0,99 : sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao
K = 0,98 - 0,95 : sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt.
K = 0,94 - 0,90 : sản phẩm có khả năng cạnh tranh trung bình.
K = 0,89 - 0,70: sản phẩm có khả năng cạnh tranh thấp.
K = 0,69 - 0,10 : sản phẩm có khả năng cạnh tranh rất thấp.
Như vậy, bằng cách xác định hệ số K cho từng sản phẩm của các nhà sản
xuất khác nhau, người ta có thể so sánh được khả năng cạnh tranh của sản phẩm của
các nhà sản xuất trên cơ sở thang điểm mà sản phẩm đó đã nhận được.
Trong trường hợp cần xác định sức cạnh tranh của một sản phẩm mới, sắp
đưa ra thị trường cạnh tranh với các sản phẩm tương tự, trước hết các chuyên gia sẽ
cho điểm để xác định hệ số K của sản phẩm mới, sau đó sẽ lựa chọn sản phẩm
tương tự cần so sánh. Các sản phẩm tương tự được lựa chọn để so sánh là những
sản phẩm có hệ số K bằng 0,98 - 0,95 hoặc bằng 0,94 - 0,90. Như vậy, nếu gọi khả
năng cạnh tranh của sản phẩm mới là Km và khả năng cạnh tranh của sản phẩm
tương tự được so sánh là Ktt, khi đó sẽ xác định hệ số so sánh giữa hai sản phẩm
này.
Km

18
S = 
Ktt Nếu S  1: sản phẩm mới có khả năng
cạnh tranh tốt và có thể đưa ra thị trường .
Nếu S < 1: sản phẩm mới ít có khả năng cạnh tranh và cần được tiếp tục

hoàn thiện.
Nhìn chung, ưu điểm của phương pháp xác định khả năng cạnh tranh của sản
phẩm này là khá đơn giản và dễ thực hiện, nhất là trong điều kiện không thu thập
được các thông tin đầy đủ về sản phẩm, đối thủ cạnh tranh và các thông tin có liên
quan khác. Hơn nữa, theo phương pháp này, khả năng cạnh tranh của sản phẩm
cũng bao hàm được yếu tố chất lượng sản phẩm - một yếu tố rất khó đo lường.
Tuy nhiên, phương pháp xác định sức cạnh tranh sản phẩm này có một số
hạn chế khá lớn. Một là, độ tin cậy của phương pháp không cao do các yếu tố đầu
vào để tính toán chỉ được ước lượng một cách tương đối. Đối với yếu tố chất lượng
sản phẩm, khi xác định sẽ phụ thuộc chủ yếu vào chủ kiến của một nhóm chuyên
gia, do đó mức độ dao động của chỉ số này sẽ rất lớn do sự khác biệt trong cách
nhìn nhận của mỗi chuyên gia về mức độ đáp ứng trong tiêu dùng sản phẩm và hơn
nữa, chỉ số này cũng sẽ thay đổi khi thay đổi thành phần của nhóm chuyên gia. Đối
với giá tiêu dùng của sản phẩm: đây là yếu tố chịu sự tác động của thị trường và các
chính sách của Nhà nước nhằm khuyến khích hay không khuyến khích tiêu dùng
loại sản phẩm nào đó. Trong đó, chi phí mua sắm (hay giá bán của sản phẩm) được
hình thành do cạnh tranh trên thị trường, vì vậy, nó có thể dao động theo thời gian
và không gian. Cụ thể, trong trường hợp giá tiêu dùng thấp hơn chi phí của nhà sản
xuất thì bản thân sản phẩm đó là không có khả năng cạnh tranh, nhưng nếu xác định
theo phương pháp này, sản phẩm đó lại có thể có khả năng cạnh tranh tốt. Hai là,
tính đại diện theo thị trường của phương pháp này không lớn, nói cách khác,
phương pháp này chỉ phù hợp với một đoạn thị trường nào đó được quan sát. Đối
với đoạn thị trường chưa được quan sát, việc đánh giá chất lượng cũng như giá tiêu
dùng dựa vào giả định, nghĩa là ước lượng trên cơ sở giả định, do đó kết quả thu
được không có giá trị thực tế cao. Hơn nữa, một sản phẩm nào đó có thể được xác

19
định là có sức cạnh tranh ở đoạn thị trường này, nhưng lại bị đánh giá thấp ở đoạn
thị trường kia do sự khác biệt của khách hàng về thu nhập, thói quen, Ba là,
phương pháp này không phù hợp với yêu cầu phân tích sức cạnh tranh sản phẩm

trong thương mại quốc tế. Bởi vì, trong thương mại quốc tế, giá cả hàng hoá chịu sự
tác động khá lớn của chính sách thương mại và tỷ giá hối đoái, nhưng cách tiếp cận
của phương pháp không cho phép tách bạch được những ảnh hưởng này. Do đó,
mục tiêu của các nhà phân tích là tìm ra khả năng, nhất là trong các cuộc thương
lượng mậu dịch nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc tế
có thể không thực hiện được.
1.1.3.3. Chỉ số lợi thế so sánh dựa trên chi phí đầu vào (RFC)
Cơ sở để xác định lợi thế so sánh hay lợi thế cạnh tranh theo tiêu chí này là
các chi phí đầu vào của sản xuất. Các chi phí đầu vào của sản xuất, bao gồm các
đầu vào trong nước có và các đầu vào được nhập khẩu, các đầu vào có thể thay thế
và các đầu vào không thể thay thế. Các chi phí đầu vào có liên quan đến thuế nhập
khẩu, lãi suất, các khoản trợ cấp, nâng đỡ đối với các ngành hay khu vực kinh
tế, do các chính sách thương mại và công nghiệp của Chính phủ mang lại. Các
chính sách thương mại và công nghiệp cũng có thể có lợi cho các ngành sản xuất và
tạo nên một lợi thế so sánh. Thông thường, sự vận hành tự nhiên của thị trường tạo
nên qúa trình chuyên môn hoá của các xí nghiệp, ngành công nghiệp tuỳ theo lợi thế
so sánh của các xí nghiệp, ngành công nghiệp đó. Những lợi thế so sánh của một xí
nghiệp hay ngành công nghiệp do chính sách thương mại và công nghiệp tạo nên có
thể cùng chiều hoặc ngược chiều với qúa trình chuyên môn hoá của các xí nghiệp
do sự vận hành tự nhiên của thị trường tạo nên. Mặt khác, chắc chắn rằng, những
tác động của các chính sách thương mại và công nghiệp đối với các xí nghiệp, các
ngành công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế thông qua những bóp méo giá cả nhằm
bảo hộ, trợ cấp, nâng đỡ cho các ngành hay các khu vực của nền kinh tế mỗi nước
sẽ tạo nên sự sai lệch về chi phí sản xuất và do đó làm thay đổi khả năng cạnh tranh
của các xí nghiệp sản xuất trong thương mại quốc tế. Như vậy, các chính sách
thương mại và công nghiệp đều tác động đến lợi thế so sánh (theo nghĩa làm sai

20
lệch quá trình chuyên môn hoá) và lợi thế cạnh tranh của các xí nghiệp, các ngành
công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.

Để xác định lợi thế so sánh trước những bóp méo và sai lệch của thị trường
do các chính sách thương mại và công nghiệp tạo nên, vào đầu những năm 1980,
các nhà kinh tế học của Ngân Hàng Thế Giới đã xây dựng một qui trình tính toán
các kích thích và lợi thế so sánh. Dựa trên qui trình này, các nhà nghiên cứu về
chính sách kinh tế thuộc trường đại học tổng hợp Laval của Canada đã đưa ra
phương pháp luận và phương pháp tính toán các chỉ số khác nhau về bảo hộ, kích
thích và lợi thế so sánh đối với từng xí nghiệp, từng ngành công nghiệp hay toàn bộ
các ngành công nghiệp.
Theo nhóm Phân tích và Nghiên cứu kinh tế phát triển quốc tế (PARADI),
bao gồm các thành viên thuộc trường Đại học Montreal và Đại học Laval của
Canada, thì các tính toán về lợi thế so sánh hay lợi thế cạnh tranh đều phải dựa trên
cơ sở giá tham khảo. Theo phân tích của này cho thấy, khả năng sinh lời vốn về mặt
tài chính là chỉ số về lợi thế so sánh và cũng là một chỉ số về sức cạnh tranh.
Khả năng sinh lời vốn về mặt tài chính (RFC) được xác định bằng mối quan hệ
tương quan giữa chi phí tài chính của các yếu tố sản xuất và trị giá gia tăng của sản
phẩm tính theo giá nội địa.
VDBi + SUBi - Li - DKi
RFCi =   
Ki
Trong đó:
RFCi: Khả năng sinh lời về mặt tài chính của sản phẩm i

21
VDBi: Trị giá gia tăng của sản phẩm i tính theo giá nội
địa theo phương pháp Balassa
4
.
SUBi: trợ cấp trực tiếp cho sản phẩm i
Li: chi phí lao động sử dụng cho sản phẩm i
Dki: vốn khấu hao của sản phẩm i tính theo giá nội địa

Ki trị giá vốn của sản phẩm i tính theo giá quốc tế
Mặc dù, phương pháp tính chỉ số cạnh tranh của dựa vào khả năng sinh lời
vốn về mặt tài chính của nhóm nghiên cứu này có độ tin cậy cao hơn và phù hợp
với yêu cầu đánh giá sức cạnh tranh trong thương mại quốc tế của các nhà sản xuất
ở các nước khác nhau. Tuy nhiên, đây là phương pháp tính toán công phu, đòi hỏi
nhiều thông tin đầu vào. Hơn nữa, khả năng phân tích chỉ số cạnh tranh một cách
minh bạch theo các yếu ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm bị hạn chế.
1.1.3.4. Chỉ số cạnh tranh quốc tế từ chi phí đơn vị
Trong rất nhiều yếu tố tạo thành sức cạnh tranh của sản phẩm có hai yếu tố
cơ bản nhất là giá cả hoặc chi phí và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, yếu tố chi phí
hoặc giá cả có ý nghĩa quan trọng hơn khi xác định sức cạnh tranh sản phẩm trong
thương mại quốc tế. Bởi vì, một mặt, yếu tố chất lượng sản phẩm phụ thuộc chủ yếu
vào công nghệ được áp dụng và hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm. Ngày nay,
với những thành tựu khoa học đã đạt được, yếu tố chất lượng đang ngày càng phụ
thuộc nhiều hơn vào các yếu tố công nghệ. Mặt khác, các yếu tố công nghệ cao hay
các hoạt động quản lý chất lượng có hiệu quả tốt cũng được thể hiện một phần
thông qua chi phí của nhà sản xuất, như đầu tư nâng cấp công nghệ, chi phí nghiên
cứu thị trường, nghiên cứu cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm,


4
Phương pháp Balassa đơn giản: Giá trị gia tăng bằng giá nội địa trừ đi chi phí đơn vị của các yếu tố đầu vào
trung gian có thể trao đổi được, trừ đi chi phí đơn vị của các yếu tố đầu vào trung gian không thể trao đổi
được. Như vậy, giá trị gia tăng chính là khoản lợi thu được đối với các yếu tố cơ bản được tham gia trực tiếp
vào sản xuất.

22
Thông thường, xác định sức cạnh tranh trên cơ sở giá bán có tính khả thi
hơn, do các số liệu dễ tập hợp, nhưng lại không có ý nghĩa bằng việc xác định trên
cơ sở chi phí. Bởi vì, giá bán có thể bao gồm cả yếu tố độc quyền và bảo hộ trong

đó. Chẳng hạn, một nhà sản xuất có sức cạnh tranh về chi phí so với đối thủ cạnh
tranh quốc tế, nhưng có thể giá xuất khẩu sau khi tính thuế xuất khẩu sẽ cao hơn giá
xuất khẩu của đối thủ cạnh tranh không bị tính thuế xuất khẩu.
Khi tiến hành phân tích định lượng về sức cạnh tranh của sản phẩm trong
thương mại quốc tế, các nhà phân tích cạnh tranh quốc tế đã xuất phát từ chi phí
đơn vị (UC) của một sản phẩm. Nếu chi phí đơn vị của sản phẩm của nhà sản xuất
trong nước thấp hơn chi phí đó của đối thủ cạnh tranh quốc tế thì nhà sản xuất trong
nước được xem là cạnh tranh. Chênh lệch giữa chi phí đơn vị của nhà sản xuất trong
nước và đối thủ cạnh tranh quốc tế được gọi là chỉ số cạnh tranh quốc tế (IC).
Chỉ số cạnh tranh quốc tế được xác định bằng biểu thức:
IC = UC* - UC > 0 Trong đó: IC là chỉ số cạnh tranh quốc tế
UC* là chi phí đơn vị của sản phẩm của nhà cạnh tranh quốc tế UC là chi
phí đơn vị của sản phẩm của nhà sản xuất trong nước
Đây là chỉ số đo lường sức cạnh tranh trong xuất khẩu. Tuy nhiên, chỉ số này
cũng có thể đo lường sức cạnh tranh trên thị trường nội địa, nếu việc tính toán được
dựa trên giá nội địa. Khi đo lường sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hai
nước thường sử dụng những đồng tiền khác nhau, do đó, chi phí đơn vị của nhà sản
xuất nước ngoài được chuyển đổi sang đồng nội tệ qua việc sử dụng tỷ giá hối đoái
chính thức (e). Khi đó: IC = UC*e - UC > 0
Tuy nhiên, chỉ số cạnh tranh trên đây mới chỉ đo lường được các yếu tố có
thể đo lường được và có tác động trực tiếp đến chi phí, như sự dồi dào hoặc mức độ
rẻ của của các yếu tố sản xuất, hay năng suất lao động cao của nhà sản xuất được
thể hiện bằng các hệ số đầu vào nhỏ. Ở đây không tính đến các yếu tố gián tiếp và
các yếu tố mang tính ngẫu nhiên.1.2. Các yếu tố cơ bản ảnh hƣởng tới năng lực
cạnh tranh của sản phẩm trong thƣơng mại quốc tế

23
Quan điểm dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống đã xem sức cạnh
tranh của một sản phẩm (đồng nhất) qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng
suất lao động. Bởi vì, chi phí các yếu tố sản xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ

bản của lợi thế cạnh tranh. Hơn nữa, các chỉ số chi phí còn cho phép xác định được
những ngành, công ty nào có đóng góp tích cực cho nền kinh tế xét về phúc lợi xã
hội.
Từ cách tiếp cận khác, trong thương mại quốc tế, khi nói đến sức cạnh tranh
hay lợi thế cạnh tranh nghĩa là so sánh các đặc điểm (chi phí, hoặc giá cả, hoặc các
chỉ số công nghệ) của một nhà sản xuất ở một nước xác định so với các nhà sản
xuất ở các nước khác. Hơn nữa, các đặc điểm của nhà sản xuất được thể hiện ra bên
ngoài thông qua sản phẩm được nhà sản xuất thực hiện và đưa ra thị trường. Vì vậy,
các yếu tố xác định sức cạnh tranh của ngành/công ty hay quốc gia được kết tinh lại
trong sản phẩm, khi sản phẩm đó được đặt trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Nói
cách khác, sức cạnh tranh của sản phẩm trong thương mại quốc tế là kết quả tổng
hoà của sức cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành và quốc gia. Bởi vì, sản phẩm hàng
hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng (bao hàm cả
các chỉ tiêu chất lương) là do doanh nghiệp sáng tạo ra. Giá trị là kết tinh của lao
động quá khứ và thực tại được thể hiện thông qua các chi phí của các yếu tố đầu
vào của sản xuất và tổ chức quản lý sản xuất. Các yếu tố đầu vào của sản xuất có
thể được cung ứng trong nước hoặc được nhập khẩu và giá cả của nó đã bao hàm
tác động của thị trường và của Chính phủ. Đồng thời, giá trị sản phẩm được thực
hiện thông qua thị trường và thể hiện bằng giá cả - giá bán sản phẩm không chỉ
được hình thành do cạnh tranh mà còn do các tác động của Chính phủ.
Như vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh sản phẩm trong thương
mại quốc tế bao hàm các yếu tố từ phạm vi doanh nghiệp, ngành công nghiệp đến
phạm vi quốc gia. Nhìn chung, các yếu tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh sản phẩm
trong thương mại quốc tế có thể được tập hợp thành 4 nhóm cơ bản sau:
 Các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh

24
 Các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước
 Các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế của doanh nghiệp
 Các yếu tố thuộc về hoạt động doanh nghiệp

1.2.1. Nhóm các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh
Trong trường hợp này, sức cạnh tranh được xem là sức cạnh tranh thực và
bằng với lợi thế so sánh. Trước hết, đó là sự dồi dào các yếu tố tài nguyên, thiên
nhiên, cũng như con người (lao động) và nguồn vốn. Các yếu tố này được thể hiện
qua mức giá bình quân thấp và đó cũng chính là cơ sở căn bản của lợi thế so sánh
và sức cạnh tranh (theo nghĩa hẹp). Một yếu tố khác thuộc nhóm này là năng suất
lao động của nhà sản xuất được phản ánh bằng các hệ số đầu vào thấp. Thực tế,
không dễ tách bạch giữa sự dồi dào các nguồn lực và năng suất lao động. Bởi vì, sự
dồi dào của một yếu tố nào đó vừa có thể là do năng suất lao động cao, vừa có thể
do giá cao nên kích thích cung ứng.
1.2.2. Nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc
Theo khái niệm của Fargerberg, sức cạnh tranh quốc tế như là khả năng của
một quốc gia trong việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập trung,
nhất là các chính sách đối với tăng trưởng, thu nhập và việc làm, mà không gặp phải
những khó khăn trong cán cân thanh toán. Bởi vì, tăng trưởng kinh tế của một quốc
gia được xác định bởi năng suất của nền kinh tế quốc gia đó, mà năng suất là yếu tố
cơ bản tạo thành sức cạnh tranh quốc tế.
Trong nhóm này có 3 yếu tố liên quan đặc biệt tới viễn cảnh tăng trưởng
kinh tế đất nước và tạo ra khả năng cạnh tranh:
1. Tài trợ và nợ nước ngoài có ảnh hưởng đến các luồng vốn và chất lượng
của nền tài chính quốc gia.

25
2. Tiết kiệm và đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư, nếu
khả năng tiết kiệm bị hạn chế mà yêu cầu đầu tư quá lớn sẽ dẫn đến tình
trạng lạm phát và lãi suất vay vốn cao.
3. Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp đến các hàng hoá xuất nhập khẩu.
Nếu tỷ giá cuả đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ quá thấp sẽ khuyến khích
xuất khẩu nhưng sẽ làm tăng giá hàng nhập khẩu và gây khó khăn trong
thanh toán nợ nước ngoài.

1.2.3. Nhóm các yếu tố thuộc về môi trƣờng kinh tế của doanh nghiệp
Nhóm các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế của doanh nghiệp bao gồm
những yếu tố như: các chính sách thương mại; môi trường đầu tư; chế độ tài chính;
cơ cấu doanh nghiệp và tính ganh đua; năng lực sản xuất công nghiệp. Cụ thể:
 Chính sách thương mại của mỗi quốc gia vẫn luôn được sử dụng gây nên
những tác động trái ngược nhau đến thương mại quốc tế. Đối với nhập
khẩu, các nước thường áp dụng các chính sách hạn chế nhập khẩu nhằm
làm giảm bớt hoặc chống lại lợi thế của các hàng hoá nhập khẩu so với
hàng hoá sản xuất trong nước. Đối với xuất khẩu, các nước thường áp
dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu nhằm làm tăng thêm lợi thế
của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường thế giới, giúp các nhà sản xuất
trong nước phát triển nhanh thị trường tiêu thụ ngoài nước đến khi đạt
được lợi thế nhờ qui mô.
 Môi trường đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận các
nguồn vốn của các doanh nghiệp; các thủ tục, qui chế và hiệu lực trong
việc thực hiện vay vốn của các doanh nghiệp; khả năng phát triển của các
nguồn vốn dài hạn
 Chế độ tài chính: thực trạng và hoạt động của thị trường tài chính là một
trong những nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh chung của một nước.
Bởi vì, tăng trưởng kinh tế nhanh phụ thuộc chủ yếu vào khả năng của

×