Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Nâng cao vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 146 trang )



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC 4
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của Ngân sách Nhà nước 4
1.1.1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước 4
1.1.2. Đặc điểm của Ngân sách Nhà nước 6
1.1.3. Nội dung của Ngân sách Nhà nước 8
1.2. Chức năng, vai trò của Ngân sách Nhà nước 25
1.2.1. Chức năng của Ngân sách Nhà nước 25
1.2.2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước 30
1.3. Bồi dưỡng nguồn thu và nguyên tắc chi Ngân sách Nhà nước 39
1.3.1. Bồi dưỡng nguồn thu Ngân sách Nhà nước 39
1.3.2. Nguyên tắc chi Ngân sách Nhà nước 41

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM THỜI KỲ 1996-2005 45
2.1. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và sự thay đổi
vai trò của Ngân sách Nhà nước 45
2.1.1. Khái quát chung tình hình kinh tế – xã hội trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung 45
2.1.2. Đặc điểm của Ngân sách Nhà nước trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung 46
2.2. Ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế thị trường 50
2.2.1. Khái quát chung tình hình kinh tế – xã hội sau đổi mới 50
2.2.2. Đặc điểm của Ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế thị trường 51
2.3. Thực trạng Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam thời kỳ 1996-2005 55



2.3.1. Tình hình thu – chi Ngân sách Nhà nước thời kỳ 1996-2005 55
2.3.2. Tác động của Ngân sách Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam 83
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 101
3.1. Quan điểm đổi mới Ngân sách Nhà nước 102
3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của Ngân sách Nhà nước 104
3.2.1. Hoàn thiện chính sách thu Ngân sách Nhà nước 104
3.2.2. Hoàn thiện, đổi mới chính sách chi Ngân sách Nhà nước 113
KẾT LUẬN 133
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 135





DANH MỤC VIẾT TẮT
1. NSNN:
Ngân sách Nhà nước
2. TBCN:
Tư bản Chủ nghĩa
3. XHCN
Xã hội Chủ nghĩa
4. GDP:
Tổng sản phẩm quốc nội
5. GNP:
Tổng sản phẩm quốc dân
6. ASEAN:
Hiệp hội các nước Đông Nam á
7. APEC:

Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương
8. ASEM:
Hội nghị Thượng đỉnh á - Âu
9. WTO:
Tổ chức Thương mại Thế giới
10. GD - ĐT:
Giáo dục - Đào tạo
11. UNDP:
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
12. CTMTQG:
Chương trình mục tiêu Quốc gia
13. ĐTPT:
Đầu tư phát triển
14. DNNN:
Doanh nghiêp Nhà nước
15. XNK:
Xuất nhập khẩu
16. LHQ:
Liên Hợp Quốc
17. CNH – HĐH:
Công nghiệp hóa – Hiện đại hoá
18. GTGT:
Giá trị gia tăng
19. TNCN:
Thu nhập cá nhân
20. TNDN:
Thu nhập doanh nghiệp
21. BVMT
Bảo vệ môi trường
22. VCCI:

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
23. XDCB:
Xây dựng cơ bản
24. XĐGN:
Xoá đói giảm nghèo
25. GTVT:
Giao thông vận tải



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động NSNN luôn là vấn đề thời
sự nóng bỏng của mọi quốc gia. Có thể nói trên một góc độ nào đó, NSNN vừa
là một hàn thử biểu phản ánh những diễn biến, tình hình kinh tế-chính trị-xã hội
của một quốc gia, vừa là một phương tiện, công cụ tài chính quan trọng của Nhà
nước để điều chỉnh các quan hệ kinh tế-xã hội.
Trong 20 năm đổi mới, Nhà nước ta đã có những đổi mới đáng kể, đặc biệt
trong lĩnh vực NSNN, đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, sự phát
triển đó chưa thực sự vững chắc, phát sinh nhiều vấn đề cần được giải quyết
đồng bộ, triệt để. Mặt khác, Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, việc điều
hành và quản lý NSNN đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận cũng như thực
tiễn. Chúng ta cần phải nhận thức lại những vấn đề lý luận về NSNN và đổi mới
nội dung hoạt động của nó, nhằm làm cho việc quản lý và điều hành NSNN phù
hợp hơn với cơ chế quản lý kinh tế mới, đáp ứng kịp thời những bước phát triển
mới của hoạt động kinh tế-xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả đã chọn đề tài : “ Nâng cao vai trò của
Ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”.


2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài.
Xung quanh vấn đề về NSNN hiện đã có một số công trình nghiên cứu
như:
- “Đổi mới Ngân sách Nhà nước” của tác giả Tào Hữu Phùng và Nguyễn
Công Nghiệp: đã khái quát, đánh giá chính sách NSNN hiện hành và đưa ra giải
pháp đổi mới để sử dụng có hiệu quả trong điều kiện mới.
- “Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước” của
tác giả Trần Đình Ty: đề cập đến vấn đề đầu tư và cơ chế quản lý đầu tư từ
nguồn vốn NSNN, trên cơ sở đó kiến nghị hệ thống các giải pháp đổi mới cơ chế
quản lý đầu tư từ nguồn vốn NSNN.


2
- “Vận dụng phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra trong quản lý
chi tiêu công” của tập thể tác giả Khoa Tài chính Nhà nước - Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh
-“Những luận cứ khoa học của việc đổi mới chính sách và cơ chế quản lý
NSNN của nước ta” của tập thể nhiều tác giả - Viện Khoa học Tài chính.
Mỗi công trình có cách tiếp cận, mục đích và phạm vi nghiên cứu riêng,
song nội dung chính thường được đề cập là các hoạt động thu-chi, thâm hụt
ngân sách, cân đối ngân sách, phân cấp quản lý ngân sách. Tuy nhiên, thực tiễn
vận động nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, nhiều vấn đề nổi lên, đòi hỏi được
nghiên cứu, giải quyết. Vì vậy, vấn đề NSNN nói chung và vai trò của nó đối
với nền kinh tế nói riêng cần được tiếp tục nghiên cứu.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về sự điều tiết của
NSNN trong điều kiện hiện nay.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, đặc biệt là trong bối cảnh vừa

trở thành thành viên chính thức, đầy đủ của Tổ chức thương mại thế giới WTO
nên những vấn đề về NSNN nói chung và vai trò của nó đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội nói riêng cần được nhìn nhận từ góc độ mới. Dù sao thì vai trò
của NSNN trong nền kinh tế thị trường là một vấn đề lớn và phức tạp, nên trong
khuôn khổ của luận văn này, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu một số khía cạnh về
vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trên tầm vĩ mô từ
năm 1996 đến năm 2005.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Về phương pháp nghiên cứu, luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp kết hợp
logic làm phương pháp nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn chú trọng đến
phương pháp phân tích thống kê và tổng kết thực tiễn.


3

5. Những đóng góp của luận văn:
- Góp phần hệ thống hoá và làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và
thực tiễn của vai trò NSNN trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá những kết quả đã đạt được của NSNN và những hạn chế cần
khắc phục.
- Đưa ra quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của NSNN trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được bố cục thành 03 chương:
Chương 1: Lý luận chung về vai trò của NSNN.
Chương 2: Đánh giá thực trạng Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam giai
đoạn 1996-2005

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của NSNN trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam















4
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC

1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của Ngân sách Nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm Ngân sách Nhà nƣớc
Về phương diện lịch sử, Nhà nước ra đời với tư cách là quyền lực công
cộng để duy trì và phát triển xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước phải
có nguồn lực tài chính. Bằng quyền lực công cộng, Nhà nước đã ấn định các thứ
thuế, bắt công dân phải đóng góp để lập ra quỹ tiền tệ là NSNN để chi tiêu cho
bộ máy Nhà nước, quân đội, cảnh sát….
Dưới chế độ phong kiến, chi tiêu của Nhà nước và chi tiêu của nhà vua
không có sự tách biệt nhau, nhà vua có toàn quyền và không chịu bất kỳ một sự

kiểm soát nào trong việc chi tiêu các nguồn tài chính Nhà nước. Nói cách khác,
tài chính Nhà nước ở chế độ này đồng nghĩa với tài chính hoàng gia. Hàng năm,
những khối lượng tài chính khổng lồ được ném vào việc thoả mãn những nhu
cầu của cá nhân và hoàng tộc. Bên cạnh đó, tầng lớp vương quan, quý tộc luôn
phô trương sự giàu có của mình bằng những hành động vô cùng sa hoa, lãng phí.
Không ít trường hợp, chính sự sa hoa này là nguyên nhân của tình trạng rối loạn
tài chính Nhà nước, làm kiệt quệ đời sống của nhân dân. Để che đậy sự việc đó,
các nhà nước phong kiến luôn tìm cách giữ bí mật mọi nghiệp vụ tài chính của
mình. Lịch sử cũng đã ghi nhận, dưới thời vua Henrry IV (Pháp) (1594-1610)
các khoản chi tiêu cho Hoàng tộc đã chiếm gần 1/2 tổng số các nguồn thu của
Nhà nước; thời vua Luise (1643-1715) trong hoàng cung thường xuyên có đến
14 ngàn quan lại và binh lính, mọi khoản chi tiêu cho “đội cận vệ” này đều lấy
từ nguồn tài chính Nhà nước.
Cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, các nhà tư sản công nghiệp đã
đấu tranh chống lại luật lệ tài chính vô lý, đòi hỏi sự hỗ trợ về tài chính từ phía
Nhà nước để phát triển sản xuất và yêu cầu sửa đổi hệ thống thuế khoá. Giai cấp
tư sản cũng đấu tranh quyết liệt nhằm thiết lập cơ chế kiểm tra đối với việc chi


5
tiêu của Nhà nước, cũng như việc phê chuẩn hoặc huỷ bỏ các luật thuế. Kết quả
của quá trình đấu tranh này đã xoá bỏ được độc quyền chi tiêu tài chính của
người đứng đầu nhà nước, sự lớn mạnh về kinh tế của giai cấp này đòi hỏi phải
phá bỏ cát cứ phong kiến, mở rộng thị trường và lưu thông hàng hoá tự do. Giai
cấp tư sản gây áp lực về kinh tế, tài chính đối với nhà vua, từng bước tham gia
và khống chế nghị viện, đấu tranh đòi nhà vua không được quyền quyết định thu
thuế mà phải do nghị viện quyết định, hình thành một thể chế tài chính và Ngân
sách nhà nước mới. Đó là một ngân sách được thiết lập và phê chuẩn hàng năm,
cơ chế vận hành cụ thể, rõ ràng theo một hệ thống định mức và luật pháp công
khai. Một ngân sách như vậy lần đầu tiên xuất hiện ở Anh - nơi sự phát triển của

chủ nghĩa tư bản diễn ra sâu sắc nhất và nhanh chóng nhất, tiếp đến là Mỹ, Pháp
và sau đó lan rộng sang các nước khác.
Nền kinh tế hàng hoá phát triển và hệ thống Nhà nước pháp quyền
(TBCN và XHCN) đã đẩy ngân sách phát triển tới một trình độ cao hơn, được
thiết kế phù hợp với văn minh dân chủ tư sản (ngân sách nhà nước TBCN) hoặc
văn minh dân chủ XHCN (ngân sách nhà nước XHCN). Trong đó, NSNN được
dự toán, dự thảo luận và phê chuẩn bởi những cơ quan pháp quyền, được giới
hạn thời gian sử dụng, được quy định nội dung thu, chi, được kiểm soát bởi hệ
thống thể chế, báo chí và nhân dân (nghị viện, cơ quan kiểm toán, những người
đóng góp thuế, công chúng và các tầng lớp dân cư, cơ quan thông tấn…).
Nghiệp vụ chủ yếu của NSNN là thu, chi nhưng không đơn thuần là việc tăng
giảm số lượng tiền tệ mà còn phản ánh mức độ quyền lực, ý chí và sở nguyện
của Nhà nước, đồng thời biểu hiện quan hệ kinh tế - tài chính giữa Nhà nước với
các tác nhân khác của nền kinh tế trong quá trình phân bổ các nguồn lực và phân
phối thu nhập mới sáng tạo ra.
Cho đến nay, khái niệm NSNN được sử dụng phổ biến trong đời sống
kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Tuy nhiên, quan niệm về nó lại chưa có sự
thống nhất. Có ý kiến cho rằng, NSNN là bản dự toán thu - chi tài chính của Nhà
nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Có ý kiến cho rằng,


6
NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của
Nhà nước. Cũng có ý kiến cho rằng, NSNN là những quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng nguồn tài chính khác nhau.
Những cách tiếp cận như trên, nhìn chung đã mô tả được hiện tượng bên
ngoài nhưng chưa lột tả được thực chất bên trong của NSNN. Vì vậy, trong thực
tế điều hành và quản lý NSNN cũng như việc sử dụng thường bị hạn chế. Cần
phải hiểu rằng, NSNN là một khái niệm trừu tượng nhưng cũng là hoạt động tài
chính cụ thể của Nhà nước. Do đó, khái niệm NSNN phải thể hiện được nội

dung kinh tế-xã hội, phải được xem xét về mặt hình thức, thực thể và quan hệ
kinh tế chứa đựng trong NSNN.
Xét về hình thức, NSNN là một bản dự toán thu và chi, do Chính phủ
lập ra, trình Quốc hội phê chuẩn và giao cho Chính phủ tổ chức thực hiện.
Xét về thực thể, NSNN bao gồm những nguồn thu, chi cụ thể và được
định lượng. Các nguồn thu đều được nộp vào quỹ tiền tệ là NSNN, các khoản
chi đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ ấy.
Xét về quan hệ kinh tế, các khoản thu chi đều phản ánh những quan hệ
kinh tế nhất định giữa Nhà nước với người nộp, giữa Nhà nước với cơ quan, đơn
vị thụ hưởng. Các quan hệ kinh tế thuộc nội dung NSNN chỉ nảy sinh trong quá
trình phân phối và sử dụng giá trị các nguồn của cải của quốc gia, quá trình đó
nảy sinh quan hệ kinh tế thuộc nội dung Ngân sách Nhà nước.
Theo Luật Ngân sách Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ
năm ngân sách 2004, thì: “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm, để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước”.
1.1.2. Đặc điểm của Ngân sách Nhà nƣớc
Hệ thống tài chính là tổng thể các quan hệ tài chính trong các lĩnh vực
hoạt động khác nhau, nhưng thống nhất với nhau về bản chất, chức năng và liên


7
hệ hữu cơ với nhau về sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh
tế. NSNN là một trong những bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia,
bao gồm những quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính
quốc gia, đó là những quan hệ tài chính giữa Nhà nước với công dân; với các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, với các tổ chức xã hội; với các nhà
nước và tổ chức quốc tế khác. Hoạt động của nó đa dạng và phong phú, diễn ra

trên mọi lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế-xã hội. Việc nhận thức
NSNN là những quan hệ kinh tế sẽ giúp chúng ta có một nhãn quan rộng hơn về
NSNN, gắn với sự hoạt động của NSNN, với môi trường ra đời, tồn tại và phát
triển của nó. Do vậy, có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của NSNN như
sau:
Một là, hoạt động thu-chi NSNN luôn gắn chặt với quyền lực và thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, được tiến hành trên cơ sở luật
định.
Bất cứ một nhà nước nào cũng có quyền lập pháp. Do nhu cầu chi tiêu
của mình, Nhà nước dã sử dụng quyền đó để quy định hệ thống pháp luật, thuế
khoá, bắt mọi thể nhân và pháp nhân phải nộp một phần thu nhập của mình với
tư cách là chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước.
Hai là, NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, luôn chứa đựng lợi
ích chung, lợi ích công cộng. Hoạt động thu chi NSNN là sự thể hiện các mặt
hoạt động kinh tế-xã hội của Nhà nước, là việc xử lý các quan hệ lợi ích trong xã
hội khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia, lợi ích của
Nhà nước thể hiện trong phân phối thu nhập của các doanh nghiệp, của dân cư,
phân phối tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và cả trong phân phối các nguồn lực
tài chính cho các mục tiêu kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng của quốc gia.
Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia bao giờ cũng được đặt lên hàng
đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu-chi Ngân sách Nhà nước
Ba là, NSNN cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét
riêng biệt của Ngân sách Nhà nước với tư cách là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà


8
nước là nó được chia thành các quỹ nhỏ, có tác dụng riêng và chỉ sau đó Ngân
sách Nhà nước mới được chi dùng cho những mục đích đã được định trước.
Bốn là, hoạt động thu chi NSNN nước được thực hiện theo nguyên tắc
không hoàn trả trực tiếp. Như chúng ta đã biết thuế là nguồn thu chủ yếu của

NSNN, là phương thức phân chia gánh nặng các khoản chi tiêu công cộng giữa
các cá nhân, tổ chức và không hoàn trả trực tiếp từ phía Nhà nước cho người
nộp, mà hoàn trả gián tiếp thông qua các dịch vụ công cộng của Nhà nước. Sự
không hoàn trả trực tiếp này được thể hiện các trước và sau khi thu thuế. Trước
khi thu thuế, Nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào
cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế,Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực
tiếp nào cho người nộp thuế.
1.1.3. Nội dung của Ngân sách Nhà nƣớc
1.1.3.1. Thu Ngân sách Nhà nƣớc
Thu NSNN là một trong những hoạt động cơ bản của NSNN. Thu Ngân
sách Nhà nước dưới bất cứ xã hội nào đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và
quyền lực chính trị của Nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước
là điều kiện cần thiết để xuất hiện thu NSNN, ngược lại sự tồn tại và phát triển
của thu NSNN là tiền đề kinh tế để thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một
phần nguồn tài chính quốc gia hình thành nên quỹ NSNN nhằm thoả mãn các
nhu cầu của Nhà nước.
Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN là những khoản thu nhập của
Nhà nước được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối của cải
xã hội dưới hình thức giá trị. Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh
trong quá trong quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước
với các chủ thể trong xã hội. Sự phân chia đó là một tất yếu khách quan, xuất
phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước, cũng như yêu cầu
thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội của Nhà nước. Đối tượng phân chia là


9
các nguồn tài chính quốc gia, là kết quả do lao động sản xuất trong nước tạo ra
được thể hiện dưới hình thức tiền tệ.
Về nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình

thức giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một
phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Một đặc điểm nữa của thu NSNN là gắn chặt với thực trạng kinh tế và
sự vận động của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập… Sự vận
động của các phạm trù đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra
yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN.
Thu NSNN bao gồm những khoản sau:
- Thuế do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Phần nộp NSNN theo quy định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước theo quy định của
pháp luật, bao gồm:
- Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế,
- Tiền thu hồi tiền vay của Nhà nước (gốc và lãi),
- Tiền thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế, kể cả
thu lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về thuế của các tổ chức kinh tế có sự
tham gia góp vốn của Nhà nước theoi quy định của Chính phủ.
- Phần nộp NSNN theo quy định của pháp luật từ các hoạt động sự
nghiệp
- Thu từ tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích
- Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước.
- Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật
- Các khoản đóng góp tự nguỵên của các tổ chức, các nhân ở trong và
ngoài nước.
- Thu từ huy động vốn đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng.
- Phần nộp NSNN theo quy định của pháp luật từ tiền bán hoặc cho thuê
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.


10
- Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ

chức, cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam, các tổ chức Nhà nước
thuộc địa phương.
- Thu từ quỹ dự trữ tài chính.
- Thu kết dư ngân sách.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật: các khoản di sản mà
Nhà nước được hưởng, phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật về các
khoản phạt, tịch thu; thu hồi dự trữ Nhà nước; thu chênh lệch giá, phụ thu; thu
chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách năm trước chuyển sang và các khoản thu
khác…
Về bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính
để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thoả mãn các nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước.
Có nhiều cách để phân loại thu NSNN, trong đó có các loại cơ bản sau:
* Theo nội dung kinh tế. Đây là việc làm cần thiết để thấy rõ được sự
phát triển và tính hiệu quả của nền kinh tế. Theo cách phân loại này, có thể chia
các khoản thu NSNN thành hai nhóm:
- Nhóm thu thường xuyên có tính bắt buộc gồm thuế, phí, lệ phí với
nhiều hình thức cụ thể do luật định.
- Nhóm thu không thường xuyên bao gồm các khoản thu từ hoạt động
kinh tế của Nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, thu từ tiền bán hoặc cho thuê
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và các khoản thu khác.
* Theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN, có thể chia các khoản thu
Ngân sách Nhà nước thành:
- Thu trong cân đối NSNN, bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu
không thường xuyên.


11
- Thu bù đắp thiếu hụt NSNN, khi số thu NSNN không đáp ứng được

nhu cầu chi tiêu thì Nhà nước phải đi vay, bao gồm vay trong nước từ các tầng
lớp dân cư, các tổ chức kinh tế-xã hội và vay nước ngoài.
Cách phân loại này cho phép đánh giá sự lành mạnh của NSNN và rất có
ý nghĩa trong tổ chức điều hành NSNN.
Về mặt pháp lý, thu NSNN bao gồm những khoản tiền mà Nhà nước
huy động vào NSNN để thoả mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về thực chất,
thu NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền được huy động vào NSNN mà không
bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Phần lớn các
khoản thu NSNN đều mang tính cưỡng bức, phần còn lại là các nguồn thu khác
của Nhà nước (thu ngoài thuế).
Như vậy, thu NSNN về thực chất sẽ không bao gồm các khoản vay của
Nhà nước. Việc loại các khoản vay ra khỏi nội dung thu của NSNN có ý nghĩa
kinh tế quan trọng, nó phản ánh đúng số thực thu của Nhà nước, thể hiện chính
xác số bội chi và tỷ lệ bội chi, tránh được sự nhầm lẫn giữa thực tế thu của Nhà
nước và số Nhà nước phải đi vay để chi. Sở dĩ, về phương diện pháp lý người ta
đưa khoản vay vào thu NSNN là để tiện lợi về mặt hạch toán, còn khi phân tích
các nguồn hình thành NSNN và xác định bội chi thì phải tách ra khỏi thu
NSNN.
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức
động viên và lĩnh vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó không chỉ
ảnh hưởng đến số thu NSNN, mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển
kinh tế, xã hội. Mức động viên và lĩnh vực động viên lại chịu tác động của nhiều
nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu
NSNN bao gồm:
Một là, GDP bình quân đầu người. Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu
dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập GDP bình quân đầu người là nhân tố
quyết định đến mức động viên của NSNN. Nếu không tính đến chỉ tiêu này khi



12
xác định mức động viên của ngân sách sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề tiết
kiệm, tiêu dùng và đầu tư của các tổ chức kinh tế, của các tầng lớp dân cư.
Hai là, tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế. Tỷ suất này phản ánh hiệu
quả của đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn, nguồn tài chính
càng lớn. Đây là nhân tố quyết định đến việc nâng cao tỷ suất thu Ngân sách
Nhà nước.
Dựa vào tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu Ngân
sách Nhà nước sẽ tránh được việc động viên vào NSNN gây khó khăn về tài
chính cho hoạt động kinh tế. Hiện nay, tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế nước
ta đạt thấp, trong khi chi phí tiền lương ngày càng tăng nên tỷ suất thu Ngân
sách Nhà nước không thể cao được.
Ba là, tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên. Đối với các nước
đang phát triển và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú thì nhân tố này có
ảnh hưởng lớn đến số thu NSNN. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nếu tỷ
trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm trên 20% kim ngạch xuất khấu thì
tỷ suất thu NSNN sẽ cao và có khả năng tăng nhanh.
Bốn là, mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước. Nhân tố này
phụ thuộc vào: quy mô tổ chức của bộ máy Nhà nước và hiệu quả hoạt động của
nó; những nhiệm vụ kinh tế-xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ và
chính sách sử dụng kinh tế của Nhà nước.
Năm là, tổ chức bộ máy thu nộp. Tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ, đạt
hiệu quả cao, chống được thất thu do trốn, lậu thuế sẽ là nhân tố tích cực làm
giảm tỷ suất thu NSNN mà vẫn đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, để xác định mức thu NSNN đúng
đắn cần phải có sự phân tích, đánh giá cụ thể các nhân tố tác động đến nó trong
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ. Tỷ suất thu
NSNN được xem là hạt nhân cơ bản của chính sách thu nên cần phải được
nghiên cứu, xem xét trên nhiều khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội.
1.1.3.2. Chi Ngân sách Nhà nƣớc



13
Chi NSNN thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân
phối và sử dụng NSNN, nhằm trang trải các chi phí cho bộ máy Nhà nước và
thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội mà Nhà nước đảm nhận theo những
nguyên tắc nhất định. Trong mỗi chế độ xã hội, mỗi giai đoạn lịch sử, chi NSNN
có nội dung, cơ cấu khác nhau, song chúng có những đặc điểm chung sau:
- Chi NSNN gắn với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ.
Chi NSNN phải đảm bảo các hoạt động của nhà nước trên tất cả các lĩnh
vực, nhưng nguồn thu NSNN có được trong từng năm, từng thời kỳ lại có hạn,
làm hạn chế phạm vi hoạt động của Nhà nước, buộc Nhà nước phải lựa chọn để
xác định rõ phạm vi chi NSNN. Nhà nước không thể bao cấp tràn lan qua
NSNN, mà phải tập trung nguồn tài chính vào phạm vi đã hoạch định sẵn dể giải
quyết các vấn đề lớn của đất nước.
- Chi NSNN gắn với quyền lực Nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền
lực cao nhất quyết định quy mô, nội dung, cơ cấu chi NSNN và phân bổ nguồn
vốn NSNN cho các mục tiêu quan trọng nhất, vì Quốc hội là cơ quan quyết định
các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Chính phủ là cơ quan hành
pháp, có nhiệm vụ quản lý, điều hành các khoản chi NSNN.
- Hiệu quả chi NSNN khác với hiệu quả sử dụng vốn của các doanh
nghiệp, nó được xem xét trên tầm vĩ mô và là hiệu quả kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng… dựa vào việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng… mà các khoản chi NSNN đảm nhận. Tuy nhiên, điều đó không
bác bỏ trong đầu tư phải chú ý đến hiệu quả kinh tế, nhất là các khoản vay nợ để
đầu tư.
- Chi NSNN là khoản chi không hoàn trả trực tiếp. Các khoản cấp phát
từ NSNN cho các ngành, các cấp, cho các hoạt động văn hoá, xã hội, giúp đỡ
người nghèo… không phải trả giá hoặc hoàn lại cho Nhà nước. Đặc điểm này

giúp phân biệt các khoản chi NSNN với các khoản tín dụng. Tuy nhiên, NSNN
cũng có những khoản chi cho việc thực hiện chương trình mục tiêu mà thực chất


14
là cho vay ưu đãi có hoàn trả gốc với lãi suất rất thấp hoặc không có lãi (chi giải
quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo…).
- Chi NSNN là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn
liền với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, tiền lương, tín
dụng, thuế, tỷ giá hối đoái…
Chi NSNN có quy mô lớn, phức tạp, có tác động mạnh mẽ đến môi
trường tài chính vĩ mô, đến tổng cung, tổng cầu về vốn tiền tệ. Nếu thu, chi
NSNN cân đối được, về cơ bản tổng cung, tổng cầu hàng hoá, dịch vụ của xã hội
sẽ ổn định.
Nhằm phân tích, đánh giá việc quản lý và định hướng các khoản chi cần
thiết phải tiến hành phân loại chi NSNN . Có nhiều tiêu thức để phân loại các
khoản chi NSNN theo những mục tiêu quản lý nhất định. Sau đây là một số tiêu
thức phân loại chủ yếu:
* Căn cứ vào mục đích chi tiêu, nội dung chi Ngân sách Nhà nước được
chia thành hai nhóm: chi tích luỹ và chi tiêu dùng.
- Chi tích luỹ của NSNN là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và
tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế, là các khoản chi đầu tư
phát triển và các khoản chi tích luỹ khác.
- Chi tiêu dùng của NSNN là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật
chất để tiêu dùng trong tương lai, bao gồm chi cho các hoạt động sự nghiệp, chi
quản lý hành chính nhà nước, chi quốc phòng, an ninh và chi tiêu dùng khác.
Cách phân loại này có ưu điểm là tạo điều kiện cho việc phân tích, đánh
giá kết quả chi NSNN gắn liền với quá trình phân phối GDP, giải quyết mối
quan hệ cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng trong từng giai đoạn.
Tuy nhiên, cách phân loại này có những hạn chế nhất định:

+ Cách phân loại này không thể hiện được mối quan hệ giữa chi tài
chính của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước, từ đó
khó tìm ra phương án phân phối phù hợp với từng thời kỳ.


15
+ Một số khoản chi không xác định rõ tính chất để xếp vào chi tích luỹ
hay chi tiêu dùng.
* Căn cứ theo yếu tố thời hạn và phương thức quản lý NSNN, nội dung
chi NSNN được chia thành bốn nhóm:
- Nhóm chi thường xuyên, bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt
động thường xuyên của Nhà nước. Về cơ bản, nó mang tính chất tiêu dùng. Chi
thường xuyên không được chiếm hết số thu từ thuế và phí của NSNN, vì NSNN
hàng năm còn phải dành một phần thu từ thuế và phí cho đầu tư phát triển.
Ở Việt Nam, chi thường xuyên bao gồm những mục sau: các hoạt động
sự nghiệp giáo dục-đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, văn học nghệ thuật,
thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội khác; các hoạt
động sự nghiệp kinh tế; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; hoạt động
của các cơ quan Nhà nước; hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam; hoạt động
của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
Đoàn Thanh Niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội
Liên hiệp Phụ Nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam; trợ giá theo chính sách
của Nhà nước; phần chi thường xuyên thuộc các Chương trình mục tiêu quốc
gia, dự án Nhà nước; Hỗ trợ Quỹ bảo hiểm xã hội; trợ cấp cho các đối tượng
chính sách xã hội; hỗ trợ cho các tổ chức chính trị, xã hội-nghề nghiệp, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội-nghê nghiệp và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật.
- Nhóm chi đầu tư phát triển, bao gồm các khoản chi làm tăng cơ sở vật
chất của đất nước và góp phần làm tăng trưởng kinh tế. Chi đầu tư phát triển bao
gồm những mục sau: đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế- xã

hội không có khả năng thu hồi vốn; đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh
vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo
quy định của pháp luật; chi bổ sung dự trữ nhà nước; chi đầu tư phát triển thuộc


16
các chương tình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước và các khoản đầu tư phát
triển khác theo quy định của pháp luật.
- Nhóm chi trả nợ và viện trợ, bao gồm các khoản chi để Nhà nước thực
hiện nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước và vay nước ngoài khi đến hạn
(cả gốc và lãi) và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế.
- Chi dự trữ là những khoản chi NSNN để bổ sung dự trữ nhà nước, quỹ
dự trữ tài chính.
Về bản chất, chi NSNN là hệ thống những quan hệ phân phối lại các
khoản thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện tăng trưởng kinh tế, từng bước mở
mang các sự nghiệp văn hoá-xã hội, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước và
đảm bảo an ninh quốc phòng. Chi NSNN có quan hệ chặt chẽ với thu NSNN.
Thu NSNN là nguồn vốn để đảm bảo nhu cầu chi, ngược lại sử dụng vốn NSNN
để chi cho mục tiêu tăng trưởng lại là điều kiện để tăng nhanh thu nhập cho
NSNN. Do vậy, việc sử dụng vốn, chi tiêu NSNN một cách có hiệu quả và tiết
kiệm luôn được Nhà nước quan tâm.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến chi Ngân sách Nhà nước
Nội dung, cơ cấu các khoản chi NSNN là sự phản ánh những nhiệm vụ
kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử và luôn biến
động theo tình hình kinh tế, xã hội, chính trị. Vì vậy, cần đề cập tới các nhân tố
ảnh hưởng đến chi NSNN.
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là nhân tố vừa tạo ra
khả năng và điều kiện cho việc hình thành nội dung, cơ cấu chi một cách hợp lý,

vừa đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung, cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.
Hai là, khả năng tích luỹ của nền kinh tế. Nhân tố này càng lớn thì khả
năng chi đầu tư phát triển kinh tế càng lớn. Tuy nhiên, việc chi Ngân sách Nhà
nước cho đầu tư phát triển còn tuỳ thuộc ở khả năng tập trung nguồn tích luỹ
vào NSNN và chính sách chi NSNN trong từng giai đoạn lịch sử.


17
Ba là, mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, xã
hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ.
Ngoài những nhân tố kể trên, nội dung, cơ cấu chi NSNN của mỗi quốc
gia trong từng giai đoạn còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như biến
động kinh tế, chính trị, xã hội, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái…
Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến nội dung, cơ cấu chi NSNN
có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí nội dung và cơ cấu chi tiêu của NSNN
một cách khách quan, phù hợp với yêu cầu của tình hình kinh tế, chính trị trong
từng giai đoạn lịch sử.
1.1.3.3. Cân đối Ngân sách Nhà nƣớc
a. Lý thuyết cơ bản về cân đối Ngân sách Nhà nƣớc
Cân đối NSNN là quan hệ cân bằng giữa thu và chi hàng năm. Cân đối
NSNN nhằm đảm bảo đủ tài chính cho các cấp chính quyền thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ mà Hiến pháp quy định. Cân đối NSNN được thực hiện khi lập
kế hoạch dự toán NSNN và quán triệt thu-chi trong suốt quá trình chấp hành
NSNN. Các khoản chi được thực hiện khi có nguồn thu bù đắp, bảo đảm cân đối
thường xuyên, liên tục NSNN là yêu cầu đối với quản lý tài chính công nói
chung và NSNN nói riêng.
Cân đối NSNN trước hết biểu hiện quan hệ tương đương về lượng giữa
các khoản thu và chi của NSNN, trong đó tổng các khoản thu NSNN bằng tổng
các khoản chi NSNN. Khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi thì xuất hiện bội
chi NSNN. Phần lớn hơn đó gọi là phần thặng dư NSNN, được sử dụng vào việc

tăng đầu tư phát triển hoặc tăng quỹ dự trữ tài chính, tuyệt đối không được sử
dụng phần thặng dư để tăng chi thường xuyên. Khi tổng thu nhỏ hơn tổng chi sẽ
xuất hiện bội chi NSNN, phần thiếu hụt đó gọi là thâm hụt NSNN. Đây là hiện
tượng khá phổ biến ở mọi quốc gia, nhất là ở các nước đang phát triển.
a.1. Lý thuyết cổ điển về cân bằng NSNN:
Theo lý thuyết này, mỗi năm số thu phải ngang với số chi NSNN.


18
Một là, tổng số những khoản chi không được vượt quá tổng số các
khoản thu. Khi chi vượt thu, Chính phủ bằng mọi cách tìm ra tiền để thoả mãn
nhu cầu chi. Có hai cách để thực hiện là vay ngắn hạn và phát hành tiền. Cả hai
cách đều đẫn đến hậu quả là tạm thời có tiền để thoả mãn các nhu cầu chi song
lại tạo nên sự mất giá của đồng tiền, tỷ lệ lạm phát cao, thâm hụt ngân sách ngày
càng tăng.
Hai là, tổng số những khoản thu không được lớn hơn tổng số chi. Nghĩa
là phải đảm bảo cân bằng hoàn toàn. Khi tổng số thu lớn hơn tổng số chi thường
xảy ra hai cách xử lý số thặng dư này:
- Số thặng dư vẫn được dự trữ tiếp, không được sử dụng vào mục tiêu
phát triển kinh tế-xã hội.
- Xu hướng chung là tìm cách tăng chi để sử dụng hết số dư. Điều này
gây nên lãng phí, kém hiệu quả trong chi NSNN, nhiều khi việc chi còn vượt
quá mức thặng dư tạo nên bội chi.
Nội dung của lý thuyết thăng bằng NSNN được thực hiện ở các khía
cạnh:
- Sự thăng bằng giữa thu và chi phải có thực, nghĩa là tổng số các khoản
thực thu vào NSNN sẽ ngang với tổng số các khoản phải chi ra.
- Một NSNN thăng bằng không được dùng đến tín dụng của Chính phủ,
trừ các trường hợp đặc biệt quan trọng.
- Tất cả các khoản chi thường xuyên và chi điều hành phải do thuế và

các khoản thu mang tính chất thuế tài trợ.
Như vậy, thuyết cổ điển về cân bằng NSNN đặt ra vấn đề chủ yếu là
Nhà nước phải tìm ra mọi cách khai thác các nguồn thu từ thuế để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu thường xuyên. Đây là biện pháp hữu hiệu để hạn chế lạm phát.
a.2. Lý thuyết về Ngân sách chu kỳ:
Nền kinh tế hiện đại vận động theo chu kỳ, mỗi chu kỳ thường diễn ra
trong một số năm. Trong mỗi thời kỳ của chu kỳ kinh tế, thu-chi NSNN rất khác
nhau, dẫn đến việc thực thu ngân sách thăng bằng triệt để có thể đi ngược với


19
những chính sách kinh tế cần phải thi hành trong mỗi giai đoạn. Từ đó, sự thăng
bằng của ngân sách sẽ không duy trì trong khuôn khổ một năm mà trong khuôn
khổ của một chu kỳ kinh tế. Nội dung chính của thuyết này là: tôn trọng nguyên
tắc thăng bằng giữa số thu và số chi của ngân sách nhưng thực hiện thăng bằng
này trong khuôn khổ của một chu kỳ kinh tế. Thực hiện lý thuyết này, các nhà
kinh tế đưa ra phương pháp sau:
Thứ nhất, tạo lập một quỹ dự trữ trong giai đoạn phồn thịnh nhằm đề
phòng những năm thiếu hụt của thời kỳ suy thoái. Cần chú ý:
- Không thể để tiền chết mà không sinh lời-không được sử dụng số tiền
để dành này vào những khoản chi tiêu không cần thiết.
- Chính phủ có thể sử dụng số tiền của quỹ này để trả dần cho các chủ
nợ của mình nhưng tránh trả quá nhiều cho dân chúng sẽ gây ra lạm phát.
Hai là, thiết lập các khoản kinh phí trước hạn. Trong nền kinh tế suy
thoái, theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, Chính phủ sẽ bỏ ra một số tiền để
tài trợ cho các chương trình lớn, tức là Chính phủ phải chi tiêu nhằm giúp cho sự
phục hồi kinh tế và được thu lại qua những khoản thu khi nền kinh tế phồn
thịnh.
Phương pháp này được thực hiện thông qua các giai đoạn như sau: trong
giai đoạn kinh tế suy thoái không tìm cách thăng bằng NSNN mà trái lại, cố ý

tạo ra một tình trạng mất thăng bằng, nghĩa là chi tiêu nhiều hơn. Tình trạng này
“khơi mào” cho sự phục hồi kinh tế. Khi nền kinh tế đã phồn thịnh, sự không
thăng bằng của ngân sách năm cũ sẽ được đền bù bằng những khoản thu trội của
ngân sách các năm phồn thịnh.
a.3. Lý thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt:
Trong đời sống của một nước, vấn đề tài chính công phải được giải
quyết theo tình trạng kinh tế và ảnh hưởng của nó đến kinh tế. Lý thuyết cổ điển
chỉ ra rằng: muốn thăng bằng ngân sách trong giai đoạn suy thoái thì phải giảm
chi hoặc tăng thu. Hai phương pháp khắc phục này chỉ ảnh hưởng vào nền kinh
tế như hai cái “máy hãm” khiến cho nền kinh tế đã đình trệ trở nên đình trệ hơn.


20
Để tránh tình trạng đó, người ta đã cố ý hy sinh thăng bằng ngân sách, sự thiếu
hụt ngân sách là một dịp để kích thích sự phục hồi kinh tế bằng chi tiêu nhiều
hơn. Như vậy, những chi tiêu công trong giai đoạn kinh tế suy thoái phải đóng
vai trò là động cơ thúc đẩy cho bộ máy kinh tế hoạt động mạnh hơn, Chính phủ
phải chi tiêu rất nhiều giúp cho bộ máy kinh tế có cơ hội phát triển, tăng trưởng
nhanh hơn.
Tác động xấu và nguy hại nhất của chính sách này là lạm phát, vì muốn
có tiền để tài trợ cho những chương trình trong giai đoạn kinh tế suy thoái,
Chính phủ phải in thêm nhiều tiền. Mặc dù thực thi lý thuyết này sẽ có những
hiểm hoạ to lớn đối với nền kinh tế song sự thúc đẩy những hoạt động kinh tế
đang đình trệ sẽ làm nhẹ gánh nặng cho ngân sách với những khoản chi chuyển
nhượng. Hơn nữa, trong nền kinh tế đang phát triển, thuế đánh luỹ tiến sẽ thu
hút phần lớn những khoản lợi tức cao. Khi ngân sách bơm tiền để phát triển kinh
tế, nó ảnh hưởng đối với nền kinh tế như một động cơ phụ. Khi nền kinh tế đã
phục hồi trở lại, Chính phủ phải để cho nó tự vận hành.
Thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt không thể thay thế vĩnh viễn thuyết
ngân sách thăng bằng. Mẫu mực cần hướng tới đối với tài chính công là một

ngân sách thăng bằng. Lý thuyết ngân sách cố ý thiếu hụt là một ngoại lệ quan
trọng của lý thuyết ngân sách thăng bằng. Sự thiếu hụt này phải có giới hạn và
phải được theo dõi chặt chẽ. Sự cố ý thiếu hụt có tác dụng thúc đẩy một nền
kinh tế đình trệ như hỗ trợ lại, song khi nó bắt đầu chuyển động thì Chính phủ
phải giảm dần những chi phí cho đầu tư, dần dần tăng thu làm cho ngân sách
dần trở lại thế thăng bằng.
b. Tổ chức cân đối Ngân sách Nhà nước
b.1. Bội chi Ngân sách Nhà nước và những nguyên nhân dẫn đến bội chi
Ngân sách Nhà nước
Bội chi NSNN (hay còn được gọi là thâm hụt ngân sách) được hiểu là
chênh lệch thiếu giữa tổng số chi và tổng số thu (thu từ thuế và một số khoản thu
không mang tính chất hoàn trả) của NSNN. Đây là hiện tượng mất cân đối giữa


21
lượng giá trị sản phẩm xã hội được Nhà nước huy động với số lượng tiền tệ chi
ra đã được phân phối sử dụng trong năm. Hiện tượng bội chi ngân sách gần như
là hiện tượng tự nhiên, bởi lẽ khả năng nguồn thu của NSNN bị hạn chế và tăng
chậm, trong khi đó nhu cầu chi của NSNN lại tăng lên rất nhanh.
Nguyên nhân dẫn đến bội chi NSNN rất đa dạng, đối với mỗi nhóm
nước khác nhau, câu trả lời có thể rất khác nhau. Song về tổng quát, một nguyên
nhân mang tính phổ biến và nổi bật không chỉ có ở các nước nghèo hoặc các
nước đang phát triển mà nó còn tồn tại ở các nước có nền kinh tế phát triển, đó
là nhu cầu chi và thực tế chi của Nhà nước cho tiêu dùng không thể cắt giảm mà
ngày càng tăng lên, trong khi đó việc tăng thu bằng các công cụ thuế sẽ dẫn đến
sự chống đối mạnh mẽ từ mọi phía và hậu quả của tăng thuế lại kèm theo sự kìm
hãm tốc độ tích tụ vốn cho sản xuất, hạn chế tiêu dùng, tức là dẫn đến khả năng
suy thoái kinh tế.
Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nghèo thì vấn đề
bội chi NSNN dường như không thể tránh khỏi. Bởi lẽ, tình trạng thu nhập bình

quân đầu người quá thấp, chỉ đủ cho tiêu dùng thường xuyên của người dân ở
mức tằn tiện, điều này không cho phép các chính phủ tăng tỷ trọng động viên từ
GDP vào NSNN. Trong khi đó các nhu cầu chi tiêu theo chức năng của chính
phủ lại tăng lên, đặc biệt những dự án phát triển trong chiến lược kinh tế thường
đòi hỏi nguồn vốn lớn nhằm cải thiện cơ cấu kinh tế và hướng tới sự phát triển.
Thực tế cho thấy bội chi NSNN không có nguồn bù đắp hợp lý sẽ dẫn
đến lạm phát, gây tác hại xấu đối với nền kinh tế đối với đời sống xã hội. Điều
này được biểu hiện rõ nét ở nước ta từ năm 1988 trở về trước, bội chi NSNN
được bù đắp chủ yếu bằng nguồn phát hành tiền nên lạm phát cao ( năm 1986 là
774,7%; năm 1987 là 223,1%; năm 1998 là 393,8%
1
Từ 1991 đến nay, mặc dù
bội chi NSNN vẫn còn nhưng do được bù đắp bằng các biện pháp khác thích
hợp, không phải phát hành tiền nên lạm phát giảm nhanh.


1
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê


22
Tuy nhiên, bội chi NSNN không phải hoàn toàn tiêu cực. Theo kinh
nghiệm thực tiễn thế giới cho thấy, nếu có bội chi NSNN ở mức độ nhất định
(dưới 5% GDP) là có tác dụng kích thích sản xuất. Vì lẽ đó, ngay cả những nước
có trình độ phát triển cao, người ta vẫn chỉ cố gắng thu hẹp bội chi NSNN chứ
không loại trừ nó hoàn toàn. Thực chất bội chi NSNN là một hiện tượng kinh tế
khách quan, song không vì thế mà lãng quên, không quan tâm đến bội chi
NSNN. Chính phủ các nước có nền kinh tế thị trường đều thực hiện những biện
pháp để kiểm soát và kiềm chế bội chi NSNN như:
- Lập ra chương trình rõ ràng về sử dụng các nguồn tài chính trong phạm

vi tiềm năng tiền tệ của quốc gia.
- Tìm kiếm các nguồn các nguồn bù đắp bội chi NSNN một cách hợp lý,
hiệu quả và kiểm soát quá trình bội chi đó.
- Xác định khả năng trả nợ và phân cấp đối tượng cấp phát ngân sách
nhà nước theo những thông số nhất định.
b.2. Nguyên tắc cân đối:
Tuỳ theo mục tiêu hoạt động mà NSNN mang đặc trưng là NSNN tích
luỹ hay NSNN tiêu dùng, từ đó, nguyên tắc để thực hiện cân đối NSNN cũng
mang những nội dung khác nhau.
Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị
trường, quá trình cân đối NSNN cũng có những thay đổi căn bản. Trong cơ chế
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, NSNN hầu như đảm bảo toàn bộ những khoản
cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng như cải tạo cho tất cả những công
trình kinh tế-xã hội. Nói cách khác, để thực hiện chức năng kinh tế của Nhà
nước, vai trò đầu tư phát triển của NSNN rất quan trọng. Vì thế, NSNN trong
giai đoạn này mang đặc trưng là NSNN tích luỹ. Theo đó, việc cân đối NSNN
được thực hiện theo nguyên tắc ưu tiên cho các khoản chi tích luỹ, sau đó mới
thực hiện cho chi tiêu dùng. Trong tực tế, do nhiều nguyên nhân có thể làm cho
số thu của NSNN bị giảm nên việc cân đối NSNN luôn rơi vào tình trạng bị
động. Ngoài ra, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước nhiều khi lại cấp bách. Để xử lý

×